Những trang viết tay còn sót của Hoàng được đánh số từ 1 đến 9 trong tập bản thảo tự tay Hoàng đốt lần thứ ba. Nhã lưu lại ở Album ảnh đầy tháng bé Phương Phương.
Mùa thu. Dòng sông Bộc đục lờ đờ trôi, gió nhẹ vờn lau sậy. Mênh mang nước. Bờ bãi hai bên nhìn không rõ trâu hay ngựa. Dọc rìa sông, một bãị bồi chạy chênh chếch ra giữa dòng. Hoang mang là gió. Một người đàn ông đang ngồi câu. Rất khó đoán tuổi. Cũng có thể là ba mươi, cũng có thể là năm mươi. Bố y phong phanh. Cạnh giỏ tre thô là một nậm rượu. Cần câu gióng trúc cong queo, đất xù xì lởm chởm rễ mọn. Thỉnh thoảng giật câu. Lúc được lúc trượt hoặc cá to hoặc cá nhỏ. Không thấy reo mừng, không thấy nuối tiếc. Ðương nhiên là uống nhiều rượu. Chừng chốc một, buông câu với nàm ngửa cổ tu từng ngụm lớn. Rồi thong thả nhìn sông. Người ngồi câu với sông với nước, tạo vẻ hài hoà như dáng trời đất. Tự nhiên không chướng. Bỗng phía đầu thượng nguồn có tiếng xe ngựa. Rõ dần. Chừng ba cỗ xe song mã. Hoa đồng cỏ nội chim trời nháo nhác ồn.
Cách người ngồi câu khoảng nam trượng xe dừng. Hai người đàn ông bước xuống, phong độ sang trọng ăn mặc quyền quí. Một già, một trẻ. Người trẻ để ria theo kiểu minh tinh Clar Gable ôm tráp sơn son thếp rồng vàng vờn mây. Tiến gần sát người ngồi câu, hai người cúi mình thi lễ:
- Hai chúng tôi là Quý Cống, Lư Triệt. Ðại phu nước Sở xin được yết kiến hiền sĩ. Ngươi ngồi câu vẫn quay lưng không đáp. Gió sông thổi phồng áo vải. Cần gióng trúc điềm đạm không rung. Lư Triệt, quan Ðại phu trẻ ý chừng nóng ruột, to giọng.
- Chúa chúng tôi là Sở Y Vươn. Mộ danh Trang lão nhân xin đem nghìn vàng ra mắt ngài. Rất mong ngài đoái tới chỉ giáo vài đường về chính pháp trị nước. Ðược vậy, nội ngày mai, Chúa tôi thân đến tận đây xin trao ngài ấn Tướng quốc. Ðộc điếu ông, họ Trang tên Chu, vẫn không quay lại rầu rầu giọng:
- Tôi nghe nước Sở có rùa thần, chết đã ba nghìn năm. Nhà vua đựng trong hòm vải cất ở miến đường. Ngày sóc ngày vọng hương trầm nghi ngút phụng kính. Con rùa ấy mong chết để lại bộ xương quí giá hay mong sống mà lê đuôi trong bùn lầy.
Hai quan Ðại phu, thuở thanh niên sáu lần trốn nghĩa vụ quân sự, đồng thanh đáp:
- Mong sống mà lê đuôi trong bùn lầy.
Trang Chu bật cười.
- Hai người về đi, tôi sẽ lê đuôi trong bùn lầy.
Tiếng xe ngưa khuất dần. Gió thu rì rào trên cây thu. Trang tử cuốn dây câu lững thững đi bộ về nhà. Nhà Trang đầu xóm, ba gian lợp gianh vách đất. Một sân rộng. Một vườn cây. Có mấy công ty liên doanh gạ mua xây khách sạn du lịch, trả bốn chỉ một mét. Trang đứng từ ngoài đường gọi vọng vào. Vợ Trang đang ngồi tán láo với mấy bà hàng xóm chạy ra. Trông khá đẹp. Cách đây hơn năm ra tỉnh học nghề may. Trong bụng thì rất thích sự sinh hoạt trác táng xa xỉ của thành thị nhưng ngoài thì dè bỉu chê bai bọn dân phố không tiết hạnh thuỷ chung. Trang ghét thói đong đưa, giả chết. Vợ Trang nghe lời tình nhân là thằng cò nhà định ra mộ cắt mũi chồng. Trang trong quan tài cười nhạt, vợ xấu hổ lắm, bớt xoen xoét miệng về nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Khổng Tử bảo: "Phụ nhân nan hoá". Biết vậy, đành vậy. Gượng gạo cũng không được. Trang đưa xâu cá dặn vợ luộc tất. Vợ Trang cười nịnh, thông báo:
- Nhà có khách đấy, thầy Huệ đến chơi.
Trang vẻ không vui cũng không buồn đi ra ngoài giếng tắm. Hơn tháng trước đây, Trang có việc đi ngang nước Lương. Thật ra, người buồn bực, chỉ muốn loanh quanh giang hồ vật. Cùng định bụng đến chơi thăm bạn thân là Huệ Thi đang làm tướng quốc. Bọn Ðại phu trong nội các mới lập đến nhà riêng Huệ Thi to nhỏ:
- Trang tử đến nước Lương thuyết vua, muốn thay thầy mà làm tướng.
Thầy Huệ sợ, ngầm sai công an mặt lùng trong nước ba ngày ba đêm. Cuối cùng thấy Trang nằm khểnh trong khách sạn mini đọc báo lá cải. Trang ra mắt Huệ cười mà bảo:
- Phương Nam có giống chim, tên nó là Uyên Sồ, bác biết nó chăng. Uyên Sồ cất cánh từ biển Nam bay sang biển Bắc. Phi ngô đồng chẳng đậu. Phi hạt luyện chẳng ăn. Phi suối ngọt chẳng uống. Lúc ấy Cú ta được con chuột, Uyên Sồ bay qua. Nó ngẩng lên trông mà kêu "Hoé". Nay bác muốn đem nước Lương nhà bác mà "hoé" Tôi sao.
Thầy Huệ ngượng, thầm rủa bọn dưới cấp thích nịch. Huệ Thi bảy tuổi thông Tứ thư. Mười tuổi đọc hết Ngũ kinh. Xong lớp mười hai thi đại học ba môn hai mươi chín điểm đủ tiêu chuẩn xuất ngoại. Ngao du giẫm nát thiên hạ, được coi là tổ sư của triết phái danh học. Nhưng Huệ thi không phải là hạng hủ nho nhá văn nhai chữ. Ðọc sách quên sách chỉ cốt đạt ý. Trang Tử quí tính ấy mà coi như bạn. Trang thường bảo: người đất Sính lấy vữa đắp lên đầu mũi như cánh ve. Rồi sai Phó Thạch đẽo nó. Phó Thạch vung búa nghe thành tiếng gió mà đẽo. Vữa hết mà mũi không sứt. Huệ Thi là người đất Sính chăng. Ta là Phó Thạch chăng. Huệ tử đàm luận với Trang tử thường bị cùng lý. Nhiều lúc phẫn chí chỉ mặt Trang thề tuyệt giao. Nhưng cứ về đến nhà tâm chính lại giận tự tan. Hối quá, vòng sang nhà Trang xin lỗi. Mười lần vậy cả mười. Hai người chơi bời đi lại mười mấy năm với nhau mà không nhạt. Trang dội được gần ba gầu nước, chợt nhớ ra bánh Camay mua hôm nhân đi du lịch, vội lên nhà bếp lấy xuống gội đầu. Tắm xong, Trang thong thả mặc áo thô đi lên nhà trên. Huệ Thi râu để ba chòm ngồi xếp chân vòng tròn trên phản, đang đọc bản thảo Nam Hoa kinh chương Tiêu dao du. Ngẩng lên nhìn tóc Trang ướt, nói:
- Chà, xà phòng ngoại. Tưởng bác là người giản dị hoá ra cũng cầu kỳ gớm. Trang tử rót một chén nước, khẽ cười: Người có Ðức tiếp với vật mà chãng chối. Dùng với vật mà chẳng luỵ vào vật. Camay dạo này sẵn hơn chanh, cớ gì phải gội bằng chanh để tạo vẻ thanh sạch.
Vợ Trang đã luộc xong cá, để hết vào tô lớn bày ra. Chiều muộn. Trăng thu tròn chới. với ngọn tre. Trang với hũ rượu rót đầy hai chén. Thường thường, những buổi như thế này, hai người song ẩm luôn qua đêm.
- Mời bác.
- Có lẽ tôi xin phép, dạo này thấy hơi ngâm ngẩm về bao tử. Hơn nữa thời gian tới tôi định đi sâu vào sáng tác. Tuỳ bác thôi. Trái đất này mang ta đi là vì ta có thể xác. Làm cho ta mệt mỏi vì ta sống. Cho ta rỗi rãi là vì tuổi già. Cho ta nghỉ ngơi là vì ta chết. Cho nên khéo nuôi cái sống của ta là khéo liệu cái chết của ta. Tạng của bác, thích tham chính để cải phép nước. Thích viết sách để giáo hoá nhân gian. Tạng của bác vậy, tuỳ bác thôi. Biện sĩ lấy cãi nhau làm thích. Ðàn bà lấy ngồi lê đôi mách làm hay. Bác thấy gĩư gìn sức khoẻ là điều tốt thì bác cứ giữ.
- Sức khoẻ đành rằng là quan trọng nhưng còn có cái hơn. Ðó là tư cách là phong độ. Bác cứ lang thang, cứ uống rượu dài dài thế này tôi e cách sống của bác nát mất. Hoa tàn, để hương, người mất để danh. Bác chủ trương vô vi, cuộc sống vô nghĩa. Như vậy nên chăng.
Trang cười lớn:
- Thế nào là nghĩa, thế nào là vô nghĩa. Thế nào là phải, thế nào là quấy. Kẻ biết đạo tất đạt về lý. Kẻ đạt lý tất rõ về quyền biến. Con người ta ở đời đều thích người ta đồng với mình mà ghét người khác mình. Thế nên vô tình hữu ý ai cùng thích áp đặt. Cho hành vi của mình xuất từ ý thiện. Bác Huệ này, xưa kia chim biển đậu trên cánh đồng nước Lỗ. Vua Lỗ ngự ra chuốc rượu cho nó ở nhà Thái miến tấu Cửu thiều mà làm nhạc. Sắp trâu bò để làm món ăn. Chim biển nhớn nhác lo buồn mà không dám ăn một miếng, không dám uống một chén. Ba ngày mà chết. Ðó là vua Lỗ, lấy cách nuôi mình mà nuôi chim, chẳng phải lấy cách nuôi chim mà nuôi chim. Kìa, lấy cách nuôi chim mà nuôi chim thì nên cho nó đận ở rừng sâu, chơi ở đồng ruộng, bơi trên sông hồ, ăn bằng tôm cá, theo hàng lối mà chạy, ung dung mà ở. Nó cứ nghe người ta nói là không thích, huống chi còn léo nhéo. Những bản Sonata của Betthoven hay đoản khúc của Beatles người nghe thì xúm quanh, chim nghe thì bay đi. Nhìn các hoa hậu cá chỉ muốn lặn. Vì sao, cá ở dưới nước thì sống người ở dưới nước thì chết. Chúng khác với nhau, nên chúng yêu ghét khác nhau. Do vậy những bậc thánh ở đời không giống nhau về tài. Không đồng nhau về việc. Danh dừng ở thực.
Trang nói nhiều, khát, chiêu giọng bằng ngụm rượu lớn. Huệ tử hỏi:
- Thế theo bác con người tiêu chuẩn là như thế nào?
- Tôi không biết. Tuy nhiên bậc chí nhân lúc ngủ không mộng, lúc thức không lO.Không biết thích sống, không biết ghét chết. Bề ngoài họ có nghĩa mà không bè đảng như không đủ mà không thừa phụng. Nhởn nhơ họ vuông mà không rắn. Bao la họ trống rỗng mà không phù hoa. Họ biết dừng ở chỗ mình không biết. Bậc thật là người, có hình của người nhưng không có tình của người. Có hình của người nên cùng đàn với người. Không tình của người nên phải trái không bận đến thân. Mừng giận thông với bốn mùa. Có cách hợp với vật mà không ai biết đến đâu mà cùng.
Huệ Thi gắp miếng cá, hơi tanh, đành nhấp chút rượu:
- Thôi được. Bác ba hoa thế là đủ rồi. ý bác mông lung chẳng giúp gì cho người đời. Một triết gia đã nói:
"Tất cả các triết gia chỉ biết giải thích thế giới là thế này, thế giới là thế kia mà không biết đâu căn bản. Phải cải tạo thế giới".
- Bác lại trích lời hậu học. Trí nhớ bác xuất sắc thật. Mà các triết gia mấy ai đáng gọi là thánh nhân. Nhưng trong đời, hạng thiện ít, hạng bất thiện nhiều. Thánh nhân làm lợi thiên hạ thì ít mà làm hại thiên hạ thì nhiều. Vì sao, người ta ở cạn thì ăn cỏ, uống nước. Mừng thì tréo cổ tựa nhau. Giận thì quay lưng đá nhau. Dân cũng vậy. Ngậm cơm mà vui vỗ bụng mà chơi. Những bậc được xưng xưng là thánh nhân, bắt bê lễ nhạc để bó buộc hình người đời. Treo cao nhân nghĩa để yêu ủi lòng người đời. Nên dân bắt đầu cạnh khóe thích khôn. Những bậc thánh nhân đó, đều biết tìm cái mình không biết mà chẳng ai biết tìm cái mà mình đã biết. Ðều biết chê cái mình cho là không phải mà không biết chê cái mình đã cho là phải.
Ðồng hồ buông bảy tiếng. Bình sinh, Trang điềm đạm ít nói. Cứ ngồi với Huệ đâm nói nhiều. Cũng dễ hiểu. Ðồ mồi nghèo hũ rượu lớn lại lai rai. Không tán láo đâm đơn điệu. Trời nhờ nhờ tối. Có ánh đèn pin lia qua sân, ông hàng xóm về hưu năm ngoái bước vào:
- ồ vui vẻ gớm. Chào hai bác.
- Kính bác ngồi.
Huệ Thi lấy thêm chén. Trang giới thiệu:
- Ðây là bác Huệ. Ðây là bác Ðông Quách Ðông Quách tiên sinh trịnh trọng uống.
Ðặt chén, xã giao vui vẻ với Huệ tử:
- Hai bác đang bàn gì vậy.
- Dạ, đang bàn về đạo
Thầy Ðông Quách quay sang hỏi Trang:
- Cái gọi là đạo ở chỗ nào?
- Không chỗ nào là nó không ở.
- Phải chỉ ra mới được.
- ở con muỗi, ở con kiến.
- Sao mà thấp vậy.
- ở đầm sâu, ở vực
- Sao lại thấp hơn vậy.
- ở hũ rượu, ở sàn nhẩy.
- Sao lại phù phiếm thế
- ở toilette.
Thầy Ðông Quách sầm mặt buông đũa về thẳng nhà. Bực mình quên cả họp tổ hưu xã.
Tối hôm ấy Huệ Thi về rồi, Trang say quá đái dầm cả ra phản, ướt chiếc chiến mới. Vợ Trang cằn nhằn đủ ba ngày.