Chương 4b
Hai thiếu niên phụ trách tiếp đón, thấy quan khách quần áo sang trọng thì đoán rằng một đoàn của thiếu niên ứng tuyển phò mã lai kinh. Chúng cầm cương ngựa, mang hành lý xuống.
Chủ khách điếm đon đả chạy ra tiếp khách. Y nỏi:
- Khách điếm chúng tôi chia làm hai loại. Một, gồm những phòng từ hạng nhất đến hạng năm. Giá thuê phòng đơn hạng nhất mỗi ngày một trăm đồng. Phòng kép mỗi ngày hai trăm. Hạng nhì rẻ hơn mười đồng. Cho đến hạng bẩy chỉ có ba mươi đồng thôi. Ngoài ra chúng tôi có những khu, giống như cung điện, cho đoàn đông người thuê. Giá thay đổi tùy theo khu.
Bảo-Dân nói:
- Chúng tôi cần một khu thực yên tĩnh.
Biết khách sang, chủ nhân cúi rạp mình xuống:
- May quá! Nếu các vị tìm phòng thì các phòng đã hết rồi. Còn thuê hẳn một khu thì còn đến hai khu. Khu sang trọng nhất là khu nằm trên đảo ở giữa hồ. Khu này mang tên Bồng-lai. Song hơi đắt.
Bảo-Dân tỏ ra thành thạo:
- Tôi biết rồi, mỗi ngày một lượng vàng phải không?
- Vâng.
- Chúng tôi không mang theo bộc phụ, phu xe. Xin cung cấp cho chúng tôi một tỳ nữ, một tiểu bảo để sai vặt. Còn ăn uống, mỗi ngày chúng tôi sẽ đặt trước.
Chủ nhân thân điều động phu mang hành lý cho khách ra khu Bồng-lai. Quả xứng đáng với tên mang, khu Bồng-lai là một đảo nhỏ nằm giữa cái hồ. Từ ngoài đi vào phải qua cây cầy đá. Đảo rộng đến năm sào (1800 thuớc vuông ngày nay). Xung quanh bờ đảo trồng toàn dương liễu. Ở giữa kiến tạo một căn nhà ngói xanh, gạch đỏ. Cột, kèo, cửa bằng gỗ trạm trổ tinh vi.
Sau khi nghỉ ngơi, tắm rửa, thay y phục. Khai-Quốc vương bàn với Bảo-Dân:
- Nhị sư huynh. Trước đây nhị sư huynh vùng vẫy dọc ngang ở Biện-kinh, gây ra nhiều kỳ tích. Nay nhị sư huynh có thể xuất hiện công khai không mà không gặp khó khăn chăng?
Bảo-Dân cười:
- Vương đừng lo. Tuy tôi phá phách, nhưng kỳ công phá phách đó, cho đến nay không ai biết tôi làm. Còn ngoại giả, trên từ tể tướng, xuống đến tên ăn mày đều biết tôi, vì tôi thường tấu nhạc, cũng như dạy nhạc.
Vương xuất ra một đạo công văn:
- Vậy phiền sư huynh đến bộ Lễ làm dùm ngay hai hai việc: Việc thứ nhất là cáo tri sứ đoàn Đại-Việt sang kết hiếu. Thứ nhì ghi tên Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn ứng tuyển phò mã. Đây đạo công văn chứng nhận ba trẻ được đề cử ứng tuyển phò mã. Tự-Mai, Lê Văn đại diện Đại-Việt. Còn Tôn Đản đại diện Bắc-biên.
Bảo-Dân lên đường liền.
Trong khi Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai, Khấu Kim-An bàn định khi triều kiến Tống đế phải làm những gì, đối phó ra sao, thì Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Tôn Đản, Lê Văn, cùng Ngô Cẩm-Thi sang phòng bên cạnh, thuật cho nhau nghe những biến cố trong thời gian xa cách.
Lê Văn nói với Mỹ-Linh:
- Chị tính sao thì tính, chứ bọn em nhất định đấu võ lấy thua, để khỏi làm phò mã Tống triều. Tự-Mai đã có Thuận-Tường. Em có Nong-Nụt. Còn anh Đản, dù anh ấy bị xẻo từng miếng thịt anh ấy cũng chịu, chứ không thể xa chị Cẩm-Thi đâu. Em không rõ, tại sao anh cả lại bắt chúng em làm phò mã. Làm phò mã đâu có sướng gì?
Thiệu-Thái bàn:
- Lần đầu tiên anh thấy cậu hai hành sự kỳ bí, đến Mỹ-Linh cũng không hiểu ý. Cậu bảo Tự-Mai rằng nếu không được vào đình thí, coi như không bao giờ lấy được Thuận-Tường. Lý thái phi cũng khuyên Tự-Mai phải ứng thí. Theo bà thì Thuận-Tường là cung nữ, sẽ theo hầu công chúa Huệ-Nhu xem đình thí. Ít nhất Tự-Mai phải được vào, sau khi trúng cách, xin lấy nàng làm vợ. Việc Tự-Mai coi như ổn rồi. Còn việc Tôn Đản, Lê Văn mới khó giải quyết.
Mỹ-Linh an ủi hai em:
- Các em yên tâm. Việc này Định-vương với chú hai thức thâu đêm luận bàn, chắc chắn hàm chứa những bí mật ghê lắm, mà người không thể nói ra đấy thôi. Hai em cứ tuân chỉ làm hết sức mình. Sau này sẽ rõ. Cùng quá mỗi cậu có hai vợ càng hay.
Lê Văn nhăn mặt:
- Hủ lậu! Bố em không bao giờ chấp thuận cho em lấy hai vợ. Người chúa ghét đàn ông nhiều vợ.
Có tiếng chim kêu. Nội công Thiệu-Thái cao nhất, chàng nhổm dậy:
- Cặp chim ưng của Thuận-Tường. Để anh gọi nó xuống xem sao.
Chàng ló đầu qua cửa sổ hú lên hai tiếng. Cặp chim ưng đáp xuống cạnh chàng. Chàng mở ống tre dưới chân nó lấy ra tờ giấy. Mọi người đều ghé mắt đọc:
Bán dạ, quỳnh hoa uyển,
Tiêu thanh tâm hoài thì.
Mọi người ngơ ngác nhìn Mỹ-Linh chờ giải thích. Mỹ-Linh nói:
- Chà nét chữ hoa dạng quá. Không phải chữ Tự-Mai. Người viết tờ thư này chắc là đàn bà, vì nét chữ mềm mại, tờ hoa tiên thoang thoảng mùi thơm. Để tôi dịch cho mà nghe:
Nửa đêm, dưới bóng hoa quỳnh,
Cùng nhau tương hội, tiêu thanh vọng về.
Cẩm-Thi phì cười:
- Tôi đoán ra rồi. Tự-Mai với Thuận-Tường dùng chim ưng viết thư hẹn hò nhau đây. Cứ như ý trong thư, cô nàng hẹn Tự-Mai nửa đêm nay gặp nhau ở vườn hoa quỳnh. Khi đến vườn hoa, thì dùng tiếng tiêu báo cho nàng biết.
Lê Văn với Tự-Mai vốn thân thiết nhất. Nó bàn:
- Không biết giờ này Tự, Tông, Lãm ở đâu? Chim ưng bay lượn trên đầu chúng ta, chắc họ ở gần đây thôi. Chị Mỹ-Linh viết mấy chữ gọi anh ấy với với Tông, Lãm hội họp cùng bọn mình cho vui.
Cẩm-Thi lắc đầu:
- Cu cậu đang say men tình, gọi đến gặp Quốc-vương với anh Bảo-Dân, chắc cu cậu trốn mất. Để chị giả tuồng chữ Thuận-Tường gọi chàng, chắc chàng đến ngay.
Mọi người đều bật cười. Cẩm-Thi cầm bút viết:
Bồng-lai sĩ quân tử,
Tiêu thanh tâm hoài thì.
Nàng dịch cho mọi người nghe:
Đợi chàng tại đảo Bồng-lai,
Cùng nhau tương hội tiêu thanh vọng về.
Nàng bỏ thư vào ống tre dưới chân chim. Thiệu-Thái hú lên một tiếng. Cặp chim ưng bay bổng lên cao, rồi hướng về phía Tây.
Ngô Cẩm-Thi cười:
- Suốt đời Tự-Mai chuyên trêu ghẹo thiên hạ. Bây giờ chúng ta trêu lại, chắc cu cậu phải nhảy dựng lên. Em đề nghị thế này: Chúng ta đều núp trong một căn phòng. Lê Văn thổi tiêu. Khi anh chàng nhảy qua cửa sổ vào, thấy chúng mình, ắt bẽn lẽn lắm.
Ngô Cẩm-Thi phối trí mọi người xong, Lê Văn cầm ống tiêu đưa lên môi thổi. Nó nghĩ thầm: Thuận-Tường bị tuyển làm cung nữ, vậy mình tấu khúc tiêu Phụng cầu kỳ hoàng của Tư-mã Tương-Như đời Hán cho anh chàng tin thực.
Không phải đợi lâu, chỉ lát sau có bước chân người nhè nhẹ ngoài cửa sổ, rồi tiếng gõ cửa. Mỹ-Linh tằng hắng, cửa sổ mở ra. Một thái giám nhảy vào trong như chiếc lá rụng. Đúng là Tự-Mai.
Thiệu-Thái đã trùm miếng vải che đầu. Chàng nhảy ra chặn cửa sổ, lên tiếng:
- Người là ai, mà lớn mật dám đột nhập vào đây.
Tự-Mai thấy người trong phòng không phải là Thuận-Tường. Nó kinh hãi dùng một thế ưng trảo chụp Thiệu-Thái. Thiệu-Thái bật tay lên chĩa ngón trỏ đỡ. Nếu Tự-Mai đánh xuống thì chính tay nó bị điểm vào huyệt Nội-quan. Nó biến trảo thành cầm nã, bẻ ngón tay Thiệu-Thái. Thiệu-Thái úp tay xuống xỉa vào huyệt Đản-trung của Tự-Mai. Nó vội lùi lại, dùng cước quét vào huyệt Trung-đô chân trái Thiệu-Thái. Thiệu-Thái nhảy lùi lại tránh. Nhưng không kịp, bộp một tiếng. Tự-Mai á lên đau đớn, nó ôm chân nhảy lùi lại. Nhanh tay, nó giật khăn trùm đầu Thiệu-Thái ra. Nhưng vì khuôn mặt, thân thể Thiêu-Thái thay đổi nhiều quá nó nhận không ra. Thiệu-Thái thấy nó ngơ ngác nhìn mình, thì bật cười. Bấy giờ nó mới biết kẻ trêu mình đích thực là Thiệu-Thái. Nó kêu lên:
- Ối ông ỉn! Làm gì người ta đây? Bà ỉn đâu rồi?
Bàn cho thực phải, Thiệu-Thái thọ lĩnh một trăm năm Thiền-công của Bồ-tát Sùng-Phạm, sau được Bố-Đại hoà thượng dạy thêm, công lực chàng tiến tới chỗ cao thâm khôn lường. Nhưng về quyền cước, chàng chỉ có mấy pho của phái Tây-vu, sau thêm bộ Mục-ngưu thiền chưởng. Trong khi đó Tự-Mai là con một vị đại tôn sư bác học đương thời, không võ công thiên hạ nào mà nó không học qua. Vì vậy chỉ mấy chiêu, nó đã chiếm được tiên cơ.
Cả bọn đồng xuất hiện. Tự-Mai xấu hổ, nó đưa mắt nhìn mọi người:
- Phá nhau kiểu này nhất định là bà chị dâu Ngô Cẩm-Thi rồi, chứ trong bọn mình không ai dám trêu mỗ.
Cẩm-Thi hỏi:
- Tại sao cậu biết là chị.
- Dễ mà. Ông ỉn tính hiền lành, chẳng bao giờ nghĩ ra được lối chơi quái đản này. Anh Đản đang muốn cầu mỗ để mỗ gỡ rối cho cái vụ phải ứng tuyển phò mã, thân mình lo chưa xong, thì dám phá ai? Lê Văn với mỗ tuy hai, mà một, chẳng bao giờ nỡ trêu nhau. Còn bà chị Mỹ-Linh vốn thương yêu mỗ vô bờ bến, chắc không phải tác giả rồi. Cuối cùng còn Ngô công chúa mà thôi. Đúng không?
Mỹ-Linh đưa mẩu giấy Thuận-Tường viết cho Tự-Mai. Nó bẽn lẽn cầm lên đọc, rồi bỏ vào túi. Nó trố mắt nhìn Thiệu-Thái:
- Này ông ỉn. Bộ ông lột da hay sao, mà trước kia da bì bì, nay thì tươi sáng hồng hào không kém gì da Bố-đại hoà thượng, môi lại hồng như con gái vậy. Trước dáng điệu ụt ịt bộ tịch như như con lợn, bây giờ bụng thon, mặt như ngọc, tư thái phong lưu quá. Lạ thực.
Lê Văn giải thích cho Tự-Mai nghe. Tự-Mai bảo Thiệu-Thái:
- Tuy rằng bây giờ anh đẹp như cây ngọc trước gió, nhưng em vẫn gọi là ông ỉn để ghi lại kỷ niệm trước kia.
Có tiếng Thanh-Mai vọng vào:
- Tự-Mai đấy à? Tất cả ra đây.
Thanh-Mai thấy em đượm vẻ phong trần, nàng trêu nó:
- Gái phải trai như thài lài phải cứt chó. Trai phải gái như cò bợ phải nước mưa. Hồi đại hội Lộc-hà em nói với chị như thế phải không? Thuận-Tông, Thiện-Lãm đâu?
- Chúng nó với em cùng trọ trong khách điếm Nam-phong này. Để em gọi bọn nó tới.
Tự-Mai băng mình ra khỏi đảo, lát sau nó trở lại với Thuận-Tông, Thiện-
Lãm. Khai-Quốc vương bảo Thiệu-Thái:
- Cháu sai chim ưng canh phòng. Chúng ta họp nhau, có nhiều việc quan trọng.
Mọi người ngồi vào chỗ nghiêm chỉnh. Vương hỏi Tự-Mai:
- Em đã liên lạc được với Bảo-Hòa, Thông-Mai chưa?
- Hai ông bà ấy như chim. Họ muốn, tự nhiên họ tìm mình. Còn mình muốn tìm họ thực khó khăn vô cùng. Hôm qua hai ông bà báo rằng biết sứ đoàn sẽ tới đây vào sáng nay, và cư trú tại khách điếm Nam-phong này. Cho nên bọn em không dám đi đâu, ngồi chờ.
- Có tin tức gì lạ không?
- Em vào cung gặp Lý thái phi ba lần. Đêm nay bà sẽ cho người dẫn em đến tẩm cung của Thiên-Thánh hoàng đế, tìm cho ra điều bí mật ấy.
Mỹ-Linh giật mình:
- Vậy chim ưng mang thư ban nãy, do Lý thái phi gửi ra, chứ không phải của Thuận-Tường à?
- Không! Suốt từ khi đến đây em chỉ gặp nàng có một lần, sau đó toàn viết thư cho nhau mà thôi. Nàng khuyên em phải dùng hết khả năng vào điện thí, hai đứa mới mong thỏa tâm nguyện.
- Vậy hai câu thơ trên ý nghĩa ra sao?
- Bán dạ quỳnh hoa uyển là nửa đêm theo khu vực trồng hoa quỳnh trong vườn thượng uyển. Tiêu thanh là tiếng lóng chỉ con cọp. Cọp đây là đôi hổ anh Thiệu-Cực cho Thuận-Tường. Khi Thuận-Tường bị tiến cung, nàng dâng đôi hổ cho hoàng đế. Hoàng đế dùng nó để canh gác nơi làm việc đêm. Tâm hoài thì, nghĩa là phải cẩn thận.
Tỳ nữ vào báo:
- Thưa quý khách, có người muốn đến thăm, hiện chờ bên kia cầu.
Nói rồi trình tấm danh thiếp. Khai-Quốc vương mở ra, thấy trên thiếp vẽ hình con chim ưng xòe cánh, cạnh đó vẽ bông hoa Dạ-lý. Vương bật cười, bảo nữ tỳ:
- Mời quý khách vào.
Tự-Mai hỏi:
- Ai thế?
- Người mà em thích nhất và người mà em ớn nhất.
Tự-Mai xịu mặt xuống, vì nó biết đó là Bảo-Hòa, Thông-Mai. Quả nhiên Thông-Mai trong y phục Nho-sinh, còn Bảo-Hòa trong y phục thiếu phụ. Hai người vào phòng. Thông-Mai hỏi:
- Có ai khác không?
Thanh-Mai đáp:
- Không.
Bảo-Hòa nói với Khai-Quốc vương:
- Bọn cháu bị lộ hình tích. Hôm qua hai đại cao thủ nội cung theo hút bọn cháu. Bọn cháu phải dùng xe ngựa rời thành. Chúng đuổi theo, rồi diễn ra trận đấu. Võ công hai tên này ngang với bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Chúng dùng Chu-sa độc chưởng. Vì dấu tung tích võ công, nên mãi mới thắng được chúng. Anh Thông-Mai đẩy độc chất vào người chúng. Có lẽ mai này độc tố mới phát.
Tự-Mai đã được Lý thái phi cho biết khá nhiều về nhân vật nội cung. Nó tò mò:
- Chị có biết chúng tên gì không?
- Một gã tên Dương Hoài-Mẫn, một gã tên La Sùng-Đản.
Tự-Mai à lên:
- La Sùng-Đản trước giữ chức Nhập-nội đô tri. Mới đây được thăng lên Bắc-ban chỉ hậu nội phẩm, thống lĩnh cung nga, thái giám cùng chỉ huy thị vệ trong Cấm-thành. Còn Dương Hoài-Mẫn giữ chức Hoàng-thành sứ, chỉ huy thị vệ trong hoàng thành. Hai tên này là chân tay của Lưu hậu.
Khai-Quốc vương truyền mọi người vào họp. Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:
- Chị Bảo-Hòa! Chị có thuộc hết lý lịch các quan trong triều Tống không? Hôm trước Định vương đã tóm lược cho em nghe, nhưng đó là cái nhìn của bậc tể phụ thân vương. Em muốn biết hết những uẩn khúc phía sau cung đình, cùng tư thất các quan kia.
Thanh-Mai cũng tiếp:
- Có lẽ Bảo-Hòa nên nói rõ tổ chức triều Tống cho các em chúng hiểu. Hôm trước tại Bắc-biên Thiệu-Cực đã trình bầy rồi, nhưng trên đường sang đây tôi thấy sai nhiều quá, nhất là bí mật quanh Lưu hậu. Vì mai này điện kiến, có thể chúng ta phải đối đầu với các quan, ta cần biết rõ từng người một.
Bảo-Hòa trình bầy:
- Tổ chức triều Tống hơi giống triều Đường. Có điều mỗi đời vua một thay đổi. Triều Đường có tể tướng. Triều Tống không dùng danh từ tể tướng mà dùng nhiều danh xưng khác nhau. Trên hết là hoàng đế, uy quyền bao la. Tiếp đó là Tam-sư, Tam-công. Dưới Tam-sư, Tam-công là Thượng-thư tỉnh tức triều chính.
Lê Văn đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương:
- Như vậy tổ chức triều đình mình cũng hơi giống Tống đấy chứ! Tam sư gồm Thái-sư, Thái-phó, Thái-bảo. Tam công gồm Thái-úy, Tư-đồ, Tư-không. Những chức này thường phong cho thân vương, không dự vào chính sự. Thảng hoặc cũng có những tể thần ở chức vụ lâu năm cũng được đôn lên.
Bảo-Hòa gật đầu:
- Đúng thế. Thường từ Tư-đồ tiến Thái-bảo. Thái-phó lên Thái-úy. Đôi khi thêm chữ Kiểm-hiệu cho mỹ tự mà thôi. Bây giờ tới Thượng-thư tỉnh, đời Đường do tể tướng cầm đầu. Tống gọi là Đồng-bình chương sự, gồm hai ông. Hai ông này, mỗi ông đều lĩnh một chức đại học sĩ. Ông lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ giám tu quốc sử trên ông Tập-hiền viện đại học sĩ. Hiện Tào Lợi-Dụng lĩnh Tập-hiền viện đại học sĩ, mà lại làm tả thừa tướng. Trong khi Vương Tăng lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ mà lại làm hữu thừa tướng.
Tự-Mai nhìn Khai-Quốc vương:
- Nhiệm vụ của tể tướng ra sao?
- Rất rộng: Phụ tá thiên tử, thống trăm quan, bình thứ chính. Nghĩa là không sự gì trong nước mà không thống thuộc.
Tôn Đản hỏi:
- Như vậy có đến hai ông tể tướng. Có phó tể tướng không?
- Có chứ, có từ hai đến sáu ông, gọi là Tham-tri chính sự. Ngoài ra có rất nhiều ông Thị-trung. Những ông Thị-trung này cũng được bàn chính sự với vua. Dưới Thị-trung tới phó Thị-trung thường gọi là Thị-lang.
Khai-Quốc vương gật đầu:
- Điểm này hơi khác với bên mình một chút đây. Thế dưới mấy ông tể tướng, có những tổ chức gì?
- Gồm Khu-mật viện, Tuyên-huy viện, Đông cung quan, Lục bộ.
Thuận-Tông rất chú ý tới vấn đề tổ chức. Nó hỏi:
- Tuyên huy viện là gì vậy?
- Tuyên-huy có hai. Tuyên-huy Nam-viện và Tuyên-huy Bắc-viện. Hai viện đảm trách những vấn đề lặt vặt, nhưng rất quan trọng. Ngoại sự, thâu gồm tài vật, kiểm kê kho tàng. Nội sự trông coi mọi cung phụng cho nội cung, triều đình như việc triều hội, yến tiệc. Nghiã là thống lĩnh tất cả việc cai trị thái giám, cung nga cùng cung phụng triều đình, nội cung. Còn Đông-cung quan, coi như một triều đình thu nhỏ, tức các quan quanh Đông-cung thái tử. Những chức này không thua chức tước triều đình làm bao.
Tự-Mai gật đầu:
- Em có nghe Lý thái phi nói rồi: Gồm các ông Thái-tử thái sư, Thái-tử thái phó, Thái-tử thiếu sư, Thái-tử thiếu phó và Thái-tử thiếu bảo. Những ông này là thầy dạy thái tử. Sau khi thái tử lên ngôi vua, các ông thành tể thần hết. Lỡ thái tử phạm tội, thì các ông cũng bị rơi đầu luôn.
- Đúng vậy. Còn Lục-bộ gồm Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Hình-bộ,
Công-bộ. Giống hệt bên mình.
Tôn Đản hỏi:
- Bây giờ xin sư tỷ cho biết những ông nào giữ chức vụ chính yếu trên? Đầu tiên hai ông tể tướng đã.
- Cao nhất hiện thời là ông Tào Lợi-Dụng. Ông tự là Dụng-Chi, người đất Ninh-tấn thuộc châu Triệu. Thủa nhỏ đã nổi tiếng biện sĩ, có chí lớn, theo học với phái Liêu-Đông. Hai mươi tuổi triều đình mở cuộc tuyển võ. Trong hơn nghìn thí sinh, Lợi-Dụng cùng mười chín người khác được vào điện thí. Trong cuộc điện thí Lợi-Dụng cùng hai người nữa đứng đầu. Được cử vào chức Hữu-ban điện trực. Năm Cảnh-đức nguyên niên, Khất-đan đem quân đánh Hà-Bắc. Vua Chân-tông thân chinh. Tướng Khất-Đan là Đạt-Giác võ công cực cao, không tướng Tống nào địch nổi. Vua sai Lợi-Dụng song đấu với Đạt-Giác. Võ công hai người ngang nhau. Sau Lợi-Dụng dùng nội công Liêu-Đông làm tiêu tán công lực đối phương, giết Đạt-Giác. Giặc định rút lui, có ý nghị hòa. Sứ thần Tống là Vương Kế-Trung, muốn tìm người có thể cùng đi sứ Khất-đan. Khu-mật viện chọn Lợi-Dụng. Vua Chân-tông ban dụ : Khất-Đan đem quân xuống Nam kỳ này là muốn chiếm đất. Nó đã chiếm của ta mất một châu. Nay tuy bại, nhưng nó sẽ giữ luôn đất không trả. Xưa vua Hán đánh Thiền-vu, tuy bại, nhưng khi nghị hòa chỉ ban vàng lụa. Vậy khanh nên cố đòi đất, mà cho vàng lụa.
Lợi-Dụng tâu:
- Khất-Đan vốn thô lỗ, không trọng văn học, kính nể người có sức lực. Thần nguyện trổ thần võ thắng chúng. Nếu không đòi được đất, thần nguyện chết bên đất giặc chứ không dám trở về làm nhục mệnh quân vương. Sau qủa nhiên Lợi-Dụng đòi được đất. Vua phong cho làm Trung-châu thứ sử.
Mỹ-Linh hỏi:
- Trước đây nghe nói Lợi-Dụng đã xuống vùng Lĩnh-Nam mình một thời gian. Chuyện đó ra sao?