Chương 6b
- Tâu bệ hạ, trong Tử-vi kinh có nói rồi. Thần xin đọc:
Vận con phải thua vận cha.
Vận người không bằng vận nhà.
Vận nhà không bằng vận làng.
Vận làng không bằng vận châu.
Vận châu không bằng vận nước.
Vận nước không bằng vận thiên hạ.
Nhà vua suýt xoa:
- Trẫm hiểu rồi! Trước đây trẫm đọc đoạn này chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ nhờ đạo sư nhắc, trẫm mới vỡ lẽ. Trẫm thử kiến giải xem có chỗ nào sai, đạo sư minh cho. Như hai trẻ cùng số, nhưng thời thơ ấu sống với cha mẹ. Nếu cha mẹ giầu sang, thì dù số nó xấu, vẫn được ấm no. Còn như cha mẹ nghèo khó, thì dù số nó tốt, vẫn bị cơ cực. Đó là vận con phải thua vận cha.
- Bệ hạ kiến giải thực minh mẫn. Rộng hơn chút nữa, một người ở trong làng, dù số tốt hay xấu cũng phải chịu chung số phận của cả làng. Tỷ như hai người cùng số giầu. Một người sống trong làng giầu, thì của cải súc tích. Còn người sống trong làng khó, thì chỉ giầu so với người trong làng, nghĩa là kha khá vậy thôi.
- Trẫm hiểu rồi, khi người ta đi cùng thuyền, giống như ở trong cùng làng. Nếu hơn phân nửa người trong thuyền tận số, thì thuyền đắm. Số còn lại bị chết oan theo. Như vận một châu không có người chết, nhưng vận nước có binh ách, châu cũng chịu chung, ắt có nhiều người chết.
- Không biết bệ hạ đã gặp một số nào giống số của bệ hạ chưa?
- Năm trước đây, trẫm tiếp sĩ tử trúng tuyển kỳ thi, gặp một tiến sĩ tên Chu Hội. Y sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm với trẫm. Tại sao trẫm làm vua, đã mười năm, mà nay y mới đậu tiến-sĩ?
- Số của Chu ra sao?
- Y sinh tuổi Canh-Tuất, tháng bẩy, ngày sáu, giờ Dần.
- Như vậy là cuộc đời Chu đúng với lá số đấy chứ. Mệnh y lập tại Ngọ. Thiên-lương thủ mệnh. Cung quan Thiên-đồng gặp Hóa-lộc, cung tài Thiên-cơ gặp Hóa-quyền. Cung phúc có Văn-xương ngộ Hóa-khoa. Năm trước, mười bẩy tuổi, đại tiểu trùng phùng ở cung Thân ngộ Lộc-tồn, Văn-xương, Hóa-khoa. Trong khi mệnh y hưởng cách Tọa-qúy hướng-quý tức Thiên-việt ở mệnh, Thiên-khôi ở tài. Chu đậu đại khoa là phải.
- Tại sao năm ngoái, trẫm không có gì tốt cả?
- Bệ hạ sinh cùng ngày, tháng, năm với y, nhưng không cùng giờ. Bệ hạ sinh giờ Ngọ. Bệ hạ đâu có sinh giờ Dần?
- Rõ ràng lúc trẫm sinh ra, Thái-quốc phu nhân đỡ đẻ, đã ghi như vậy mà. Đạo sư có nhớ lầm không? Em trẫm, do Lý phi cũng sinh cùng ngày, tháng, năm với trẫm mới giờ Ngọ. Sau một ngày, em trẫm qua đời.
Tây-Sơn lão nhân lột mũ bỏ xuống đất, vái ba vái:
- Ngày hôm nay bần đạo muôn thác, tâu rằng bệ hạ sinh giờ Ngọ, để sau này... bệ hạ không bắt tội bần đạo.
Ghi chú
(1) Mẹ của Tống Thái-Tổ, Thái-Tông họ Đỗ. Khi con lên làm vua, phong cho bà làm Chiếu-Huệ thái hậu.
(2)Câu trên trong Triệu-thị minh thuyết Tử-vi kinh chú như sau:
- Đàn ông mệnh tại cung Thìn gặp Thái-dương thủ mệnh, đàn bà mệnh tại cung Tuất gặp Thái-âm thủ mệnh; được Khoa, Quyễn, Lộc củng, thêm sao Tử, cùng Trường-sinh. Nam quyền tới bá. Nữ nổi danh về ca, vũ.
(3) Tống-sử, quyển 242, Hậu-phi liệt truyện trang 8606 chép rằng: Chiếu-Huệ thái hậu lúc sắp băng gọi Tống Thái-Tổ đến bên giường bệnh. Bà hỏi:
- Con có biết tại sao Chu Thế-Tông băng, mà sự nghiệp lại vào tay con không?
Đáp:
- Vì con giữ chức Điểm-kiểm triều Chu.
Thái hậu lắc đầu:
- Không phải.
Nhà vua không sao trả lời được. Thái hậu cật vấn qúa, nhà vua đáp:
- Do tổ khảo trải đến thái hậu tích đức để lại.
Thái hậu lắc đầu:
- Vì con của Thế-Tông còn thơ ấu. Nếu bấy giờ họ Sài có ông vua lớn tuổi, liệu ngôi vua có đến con không. Vậy con đừng đi vào vết cũ nữa. Khi thấy mình già yếu, nên truyền ngôi cho em con là Quang-Nghĩa. Quang-Nghĩa già, truyền ngôi cho em thứ ba là Đình-Mỹ. Đình-Mỹ già, truyền ngôi cho con trưởng của con.
Sau này Tống Thái-Tổ truyền ngôi cho em là Triệu Khuông-Nghĩa tức Tống Thái-Tông. Thái-Tông không muốn truyền ngôi cho em là Tần vương Đình-Mỹ. Đình-Mỹ tài kiêm văn võ, lại có nhiều công lao chinh chiến. Nhưng sau Thái-Tông nghe lời xui khiến của Tể-tướng Triệu Tấn rằng nên truyền ngôi cho con. Ông mật sai các quan vu cho Đình-Mỹ tội phản nghịch, cách hết chức tước, đầy đi xa, rồi cho người ám toán. Khi về già ông lập con đầu lòng làm Thái-tử tước phong Sở-vương. Sở-vương bị ám toán hóa điên. Ông lập con thứ nhì làm Chiêu-Thành thái tử. Chỉ ít lâu sau, Chiêu-Thành bị ám toán chết. Ông định lập Nguyên-Nghiễm lên thay. Nguyên-Nghiễm thấy vua cha trái lời bà, trái lời bác, nên từ chối. Thái-Tông phải lập con thứ ba làm thái tử, truyền ngôi cho, tức vua Chân-Tông. Vua Chân-Tông đức còn kém hơn nữa, truyền ngôi cho Nhân-Tông 0 mới có mười ba tuổi, và để cho vợ là Lưu hậu cầm quyền.
Nhà vua ngơ ngơ ngác ngác nhìn Tây-Sơn lão nhân, rồi nhớ lại dĩ vãng, cùng những lời úp úp mở mở của Định-vương Nguyên-Nghiễm, của Lý thần-phi, của Yến Thù. Nhất là gần đây vương với thái hậu chống đối nhau kịch liệt. Vương tổ chức hệ thống bảo vệ nhà vua cực kỳ chu đáo. Trong khi thái hậu lại xử dụng cao thủ khống chế quần thần. Nhà vua tự hỏi:
- Tại sao ông chú lại lo bảo vệ mình, mà mẹ mình lại bỏ lơ ? Bây giờ đến Tây-Sơn đạo nhân cũng úp mở nói về bí mật đó. Hình như thân phận mình có điều gì không minh bạch. Mình làm tới Hoàng-đế, uy quyền nhất Thiên-hạ mà không tìm ra được, thì còn ngồi trên ngai vàng được không?
Nhà vua thở dài:
- Thôi được, coi như trẫm sinh giờ Ngọ, vậy số của trẫm có gì đặc biệt?
- Như lá số của bệ hạ. Bệ hạ tuổi Canh-Tuất, tháng bẩy, ngày sáu, giờ Ngọ. Bệ hạ đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần, Thiên-đồng, Thiên-lương thủ mệnh.
- Trước đây trẫm tưởng số đó của hoàng đệ. Trẫm tính thử, y không thể nào chết yểu. Hơn nữa y đắc cách Tam-hóa liên châu. Bây giờ mới biết không phải. Nếu như trẫm sinh giờ Tỵ, mệnh lập tại Mão, Vũ-khúc, Hóa-quyền thủ mệnh mới được hưởng cách đó.
- Vâng, Lộc ở Phụ-mẫu, Quyền ở mệnh, Khoa ở Huynh-đệ, như vậy mới là một trong cách Tam-hóa liên châu. Bây giờ trở lại số của bệ hạ. Cung Phúc của bệ hạ cực tốt vì Thái-dương thủ tại Thìn. Tử-vi kinh gọi là Nhật xuất Thiên-môn. Như vậy bệ hạ bẩm sinh do ngôi mộ của tam đại. Tam đại tức đức Thái-Tông. Suốt cuộc đời bệ hạ: Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ do ngôi mộ đức Thái-Tông kết phát hay không. Có điều Thiên-hình, Hóa-quyền, đóng với Vũ-khúc, Thất-sát ở phụ mẫu, phải xa cách một trong hai thân.
- Chắc vì vậy thái hậu mới đem trẫm giao cho Dương Thục-phi nuôi.
- Tâu bệ hạ, Vũ, Sát, Hình không ứng với việc giao bệ hạ cho Dương Thục-phi nuôi.
Nhà vua cau mặt lại:
- Dường như đạo sư dấu trẫm một điều gì thì phải.
- Tâu bệ hạ không phải bần đạo dấu, mà không thể nói ra. Bệ hạ là cháu, là đệ tử của Định-vương, bệ hạ cứ hỏi Định-vương thì rõ điều bí mật này. Bần đạo chỉ thỉnh cầu: Bệ hạ không thể, và không nên hỏi thái hậu, e người nổi lôi đình.
- Thôi được, trẫm sẽ hỏi Định-vương. Bây giờ đạo sư tính xem vận số năm tới của trẫm ra sao.
- Năm nay là năm Đinh-Mão. Đại vận của bệ hạ đóng ở cung Thìn ngộ Thái-dương miếu địa. Thái-dương lại được Tả, Hữu, Xương, Khúc, Hóa-lộc phò trợ, như vậy là cực tốt. Tiểu vận đóng ở cung Dậu ngộ Thiên-phủ, Kình-dương hãm. Phủ ngộ Kình, e có tiểu nhân hại. Nhưng mệnh bệ hạ có Đồng là phúc tinh, Lương là ấm tinh, lại thêm Khoa thuộc đệ nhất giải thần, vì vậy vẫn vô sự. Lại có Thiên-hình, Hóa-quyền từ Mão chiếu sang. Hình chiếu thì xấu. Nhưng Hình đắc địa ngộ Quyền chủ chiến thắng. Như vậy trong cái tốt có cái xấu. Tốt, bệ hạ mưu đại sự gì dù khó đến đâu cũng thành công. Xấu vì có truyện bất hòa giữa mẫu tử. Một tin vui nhỏ: Cung Mão có Đào-hoa chiếu, bệ hạ ắt có duyên tình kỳ lạ. Tất cả bằng ấy biến cố sẽ xẩy ra nay mai.
Lão tính đốt ngón tay rồi tiếp:
- Năm tới đại hạn ở Thìn. Tiểu hạn ở Tuất, ngộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Lộc trong cách Âm-Dương Thìn, Tuất cực tốt. Nhưng tuổi Thìn, Tuất tối kị hạn tới cung Thìn, Tuất đối nhau. Vì vậy tuy cực tốt, mà cũng bị giảm đi một chút. Thần kính mong bệ hạ nguyện đắc như sở cầu.
Nhà vua nhìn Tây-Sơn lão nhân:
- Như vậy ngày sinh của trẫm lại chính là ngày sinh hoàng đệ. Trẫm sẽ tìm cho ra điều bí ẩn về thân thế.
Trầm tư suy nghĩ một lúc, nhà vua tiếp:
- Bây giờ trẫm có thắc mắc nữa, theo lịch số thì mặt trời từ Đông di chuyển dần sang phía Tây, cứ mười hai giờ là một ngày. Như lúc rạng Đông ở Thái-hồ (4) giờ Thìn thì ở Biện-kinh giữa giờ Mão, trong khi ở Hàm-dương mới giờ Dần, ở Tây-vực lại giờ Sửu. Vậy nếu một người sinh tại Tây-vực vào giờ Sửu, khi lấy số để nguyên giờ Sửu hay đổi lại thành giờ Thìn, giờ Mão? (5)
- Sinh ở đâu, lấy giờ theo đó.
- Xin đạo sư giải rõ nguyên lý?
- Khoa Tử-vi đặt cơ sở trên Thiên-văn, căn cứ vào sự vận chuyển tinh tú trên thiên-hà. Khi sinh ở đâu, thì chịu ảnh hưởng bởi tinh tú. Lúc ra đời, sao này sáng, sao kia tối tức là cái sáng tối ở nơi mình ra đời. Tỷ như số của Chu Hội. Chu sinh tại Thường-sơn vào giờ Dần. Nếu đổi ra giờ Hoa-sơn thì y sinh giờ Sửu. Nào, xin bệ hạ hãy tính số của Chu, nếu theo giờ Hoa-sơn xem nào?
Nhà vua tính đốt ngón tay khoảng một khắc rồi nói:
- Nếu quy về giờ Hoa-sơn, tức giờ Sửu thì mệnh y lập tại Mùi, Liêm-trinh, Thất-sát thủ mệnh, thêm Kình-dương.
- Bệ hạ thấy hai số khác nhau chưa? Đúng số, y là người ôn nhu, văn nhã, bút mặc công danh, suốt cuộc đời tài lộc phi tiễn. Còn quy về giờ Hoa-sơn, y trở thành một tên thợ rèn tàn tật, thô lỗ cộc cằn.
Nhà vua chỉ bút, nghiên, cùng giấy:
- Xin đạo-sư chấm dùm trẫm một lá số. Nhất là định rõ vận hạn sắp tới của đương số, vì đây là điều chính yếu của vận mệnh xã tắc: Nam mệnh tuổi Giáp-Tuất, tháng hai, ngày 12, giờ Dậu.
Tây-Sơn lão nhân lấy tờ giấy, tính đốt ngón tay rồi viết liên tiếp một lúc. Mỗi khi lão viết xong một chữ, nhà vua lại gật đầu. Một lát sau, lão cầm tờ giấy lên, rồi nói:
- Chà số tốt đấy. Bần đạo e đương số không phải người Tống, mà là người ngoại quốc.
- Tại sao đạo sư biết?
Tự-Mai nghe nhà vua hỏi câu đó, nó nghĩ thầm:
- Lão Tây-Sơn đoán đúng rồi. Nếu sai, nhà vua sẽ hỏi : Với lý do nào đạo sư lại cho rằng y không phải người Tống. Nay nhà vua hỏi : Tại sao đạo sư biết đương nhiên công nhận lão đoán trúng.
- Bởi đây là một kỳ nhân, xuất thân bần hàn, rồi lập thành sự nghiệp đế vương. Mà Trung-quốc chỉ có bản triều. Vị đế vương này ắt hẳn thuộc nước khác.
- Đúng thế.
Nhà vua tính đốt ngón tay nói:
- Trẫm đã tính số của y: Mệnh y lập tại Thân, Liêm-trinh, Hoá-lộc thủ mệnh. Tài Tử-vi, Thiên-tướng tại Thìn. Quan Thiên-phủ, Vũ-khúc, Hoá-khoa tại Tý. Lộc-tồn cư Thiên-di. Phá-quân, Hóa-quyền cư Phúc-đức. Nhưng giải không ra.
- Tâu bệ hạ, Liêm-trinh chủ nghèo khó. Vì vậy đương số xuất thân trong gia đình bần hàn. Đúng ra Liêm ngộ Hóa-lộc cũng không đến nỗi khổ cho lắm. Nhưng Liêm, Lộc lại bị Tuần, Triệt phá mất. Đương số bị cả Tuần lẫn Triệt đương đầu. Tử-vi kinh nói: Tuần, Triệt đương đầu, thiếu niên tân khổ . Kết hợp Liêm thủ mệnh, thêm Tuần, Triệt đương đầu, vì vậy hồi niên thiếu trải qua thời kỳ cực khổ, đến nỗi phải đi làm đầy tớ cho người.
- Ừ, có thế chứ, vậy mà trẫm nhìn không ra.
- Cung Phúc-đức có Phá-quân, Hóa-quyền thủ mệnh, lại thêm Thiên-hình đắc địa. Phá-quân thuộc võ cách, thêm Hình, Quyền thì sẽ khởi đầu bằng võ nghiệp. Cung quan cực tốt: Thiên-phủ thuộc đế tượng. Vũ-khúc thuộc võ cách. Hóa-khoa phù cho Phủ-Vũ công danh lên cao đến tột đỉnh thiên hạ, vị tới đế vương. Cho nên người này lúc đầu làm quan võ, rồi được tôn lên làm vua, giống như đức Thái-Tổ nhà ta.
- Thế người này có được bầy tôi trung thành chăng?
- Tâu cung nô có Nhật, Nguyệt thủ tại Sửu. Phù trợ có Xương, Khúc, Khôi, Việt. Cả bốn sao này chủ học hành, khoa cử. Vậy người này được sư phụ, cùng bạn hữu dạy dỗ, rồi phù trợ mà thành nghiệp lớn. Tuy nhiên cung nô còn có Hóa-kị. Hóa-kị tuy xấu, nhưng gặp Nhật, Nguyệt rất tốt. Mệnh người này do Liêm-trinh tọa thủ, đúng ra là người ác độc. Nhưng cung nô có Kị. Mà Kị có khả năng giải tính ác của Liêm. Vậy người này nhờ thầy dạy dỗ, bỏ được tính ác, thành người thiện.
Nghe Tây-Sơn lão nhân giải lá số, Tự-Mai kinh hãi:
- Chà! Tống có khoa này lợi hại quá. Họ biết hết những gì đã và sắp xẩy ra cho các tướng tá, đại thần của họ đã đành. Họ còn biết rõ từng ly từng tý về kẻ thù nữa.
Nhà vua hỏi:
- Bao giờ người này chết?
Tây-Sơn lão nhân lẩm nhẩm tính một lúc rồi nói:
- Y sắp chết rồi! Chỉ ba tháng nữa thôi. Hiện y đang khỏe mạnh, nhưng sang năm tới thì chết.
Mặt nhà vua hơi nhăn:
- Đạo sư tính lại một lần nữa cho thực kỹ.
- Đây! Bệ hạ xem: Năm tới là năm Mậu-Thìn, đương số năm mươi sáu tuổi. Đại hạn đến cung Thiên-di gặp Tham-lang, Lộc-tồn, Thiên-không (6) lưu niên Thiên-mã, tức cách rất độc : Lộc đảo, Mã đảo, Thiên-không. Tiểu hạn tới cung Tuất ngộ Thái-tuế, Thiên-hình thêm lưu Thái-tuế ở Thìn chiếu sang thành Lộc đảo, Mã đảo, ngộ Thái-tuế chi hợp Kiếp, Không. Chết trăm phần trăm.
Nhà vua gật đầu:
- Như vậy trẫm có thể quyết định chính sách Nam-thùy được rồi.
- Tâu bệ hạ, số của ai thế?
- Của Lý Công-Uẩn.
Tự-Mai kinh hoàng, nó nghĩ thầm:
- Mình phải nói điều này cho anh cả biết, hầu chuẩn bị mới được. Ông vua này biết Thuận-Thiên hoàng đế sắp băng, e sẽ mang quân sang đánh không chừng. Nếu ngài băng, thì anh cả phải hiện diện để giúp Khai-Thiên vương lên làm vua. Bằng không thì rắc rối to.
Nhà vua suy nghĩ một lúc, rồi nói:
- Bây giờ phiền đạo sư tính lại cho trẫm một lá số nữa. Nam mệnh sinh ngày mười hai, tháng ba, giờ Dần, tuổi Tân-Sửu.
Tây-Sơn lão nhân tính đốt ngón tay một lúc rồi nói:
- Dây là số của một anh hùng hiếm có trên thế gian. Nếu bệ hạ được người này phò tá, thì sự nghiệp e không thua vua Vũ nhà Hán, vua Thái-tông nhà Đường.
- Trẫm cũng thấy như vậy. Mệnh lập tại Dần các sao lớn tụ cả về đây. Cự-môn, Thái-dương thủ mệnh. Tử-vi kinh nói:
Quyền hội Cự, Vũ anh hùng.
- Đương số tuổi Tân nên Hóa-lộc đi với Cự-môn. Hóa-quyền đi với Thái-dương. Hóa cho nên bốn sao Cự, Nhật, Quyền, Lộc tụ cả một chỗ, tạo thành con người có tư cách anh hùng, hành sự quang minh lỗi lạc. Đương số lại văn võ kiêm toàn, trông rộng, nhìn xa, nhã lượng, cao trí. Tam hợp hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc, thì sự nghiệp thực không nhỏ.
Nhà vua gật đầu:
- Tỷ như đương số thuộc loại đối đầu với ta. Trẫm phải làm gì để thắng y?
Tây-Sơn lão nhân suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu thở dài:
- Không có cách nào thắng y được cả. Tại sao bệ hạ phải thắng y, mà không thể kết thân với y?
- Trẫm cũng muốn kết thân với y, mà e thái hậu không muốn mới khổ chứ. Vận số của y ra sao?
- Năm nay đại hạn ở Sửu, Thiên-phủ ngộ Hình. Tiểu hạn ở Thân ngộ Văn-xương, gặp những điều bất như ý, nhưng sự nghiệp lên cực cao. Sang năm, tiểu hạn Liêm, Phá ngộ Thiên-không, e công danh gặp nhiều gian truân. Tuy nhiên cuối cùng vẫn vô sự. Chỉ có cung thê lưu niên Bạch-hổ ngộ Nguyệt, Đồng, e vợ con nan toàn.
- Trẫm cũng thấy thế. Thái-âm cư Tý cực tốt, vợ đẹp, học giỏi, nhưng khi lưu hạn ngộ Tang, Hổ thực khó bảo trọng.
- Thần thấy trong triều chỉ Định-vương mới có thể so sánh với người này. Tâu bệ hạ y là ai vậy? Thần mong gặp y để kết thân.
Nhà vua mỉm cười:
- Y... Y đã kết huynh đệ với Định-vương. Y là Khai-Quốc vương bên Đại-Việt.
Tây-Sơn lão nhân bật lên:
- Ái chà.
- Chỉ còn mấy hôm nữa, trẫm sẽ tiếp y. Bây giờ biết y rồi, trẫm sẽ tùy nghi xếp đặt. Rất tiếc Lã Duy-Giản, Tào Lợi-Dụng theo thái hậu chống y. Trẫm khó mà kết thân với y được.
Qua cuộc hội kiến giữa nhà vua với Tây-Sơn lão nhân. Tự-Mai nói thầm:
- Tống có khoa Tử-vi như thế này, thực lợi hại. Mình phải ăn trộm sách của họ mới được.
Nhà vua đứng dậy tỏ ý tiễn khách:
- Bây giờ để đạo sư về nghỉ. Mai trẫm sẽ thỉnh Định-vương, cùng với đạo sư bàn về mấy là số của Đoàn Tố-Trinh bên Đại-lý, rồi quyết định chính sách Nam-thùy.
Tây-Sơn lão nhân đứng dậy cáo từ ra về.
Nhà vua vẫy thái giám:
- Người cất ba tập sách này đi cho trẫm, rồi đốt đèn trong thư phòng, đợi trẫm ăn xong, sẽ trở về đọc sách.
Nói rồi nhà vua đi ra. Tự-Mai đã được Bảo-Hòa cho biết: Hoàng đế ăn uống không có giờ giấc nhất định. Khi đói thì truyền thái-giám, cung nữ dọn lên ăn. Nó nghĩ thầm:
- Ông hoàng đế này chắc ăn ở nơi khác chứ không ăn ở đây.
Thái giám mang ba bộ sách cất vào chỗ cũ. Y thắp lên mười ngọn nến cực lớn, rồi đốt trầm. Thư phòng sáng rực. Xong công việc y sang phòng bên cạnh ngồi chầu chực.
Tự-Mai từ trên giá sách nhảy xuống như chiếc lá rụng. Nó lấy cả ba bộ Tử-vi chính nghĩa dấu vào bọc. Tò mò, nó nhìn sang bên cạnh, thấy toàn cách sách nói về Lịch-số.
Nó nói thầm:
- Lịch Trung-quốc gốc từ Quy-lịch của triều Hồng-bàng. Cho đến thời Lĩnh-Nam, Tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa soạn lịch cho vua Trưng đã chia năm làm hai mươi bốn tiết, cùng tính nhật thực, nguyệt thực cực chính xác. Mã Viện chiếm Lĩnh-Nam rồi y chở hết sách nghiên cứu về lịch dâng cho vua Quang-Vũ. Từ đấy lịch Trung-quốc đổi đến hai mươi bẩy lần. Ta cần lấy hết sách của họ mang về cho lịch quan nghiên cứu xem có gì hay hơn không?
Nó đếm : Từ Thái-sơ lịch pháp của Đặng Bình đời Hán. Càn-tượng lịch pháp của Lưu Hồng cho tới Minh-Thiên lịch pháp của Lưu Tông mới soạn xong, gồm hai mươi bẩy bộ. Nó xé khăn choàng cổ bện thành sợi dây, bó lại rồi vác lên vai, vượt qua cửa sổ ra ngoài.
Nó tiến thẳng đến chỗ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái núp. Hai người từ bóng tối nhảy ra hỏi:
- Việc xong chưa mà về sớm vậy?
- Xong một nửa. Anh Thiệu-Thái mang về đi. Để chị Mỹ-Linh ở lại canh chừng được rồi.
Trao bọc sách cho Thiệu-Thái rồi Tự-Mai theo đường cũ trở về, nó lại leo lên núp trên nóc kệ sách. Nó thấy nhà vua đã trở về, đang ngồi đọc sách. Nó nghĩ thầm:
- Ông vua này ăn uống gì mà mau như ma đói vậy à?
Ghi chú
(4) Thái-hồ thuộc Tô-châu, Thượng-hải, nằm sát bờ biển phía Đông của Trung-quốc, thuộc kinh-tuyến thứ bẩy, cùng giờ với Đại-Việt.
(5) Như ngày nay, người Việt sinh ở Paris giờ Tý, trong khi ở Hoa-sơn là giờ Mão. Khi lấy số nên lấy giờ Tý hay Mão? Theo Tử-vi kinh phải lấy giờ Tý.
(6) Xin lưu ý độc giả: Tây-Sơn lão nhân cùng vua Nhân-Tông tính Tử-vi theo chính phái: Không có sao Địa-không, mà chỉ có sao Thiên-không. Thiên-không an như sao Địa-không, chứ không đứng trước Thái-tuế một cung. Đại hạn thứ nhất ở cung Phụ-mẫu, hoặc Huynh-đệ, chứ không phải ở mệnh. Còn Hỏa, Linh cũng an khác:
* Tuổi Thân, Tý, Thìn: Hỏa ở Dần, Linh ở Tuất.
* Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Hỏa ở Sửu, Linh ở Mão.
* Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Hỏa ở Mão, Linh ở Tuất.
* Tuổi Hợi, Mão, Mùi: Hỏa ở Dậu, Linh ở Tuất.