Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng chắp tay hành lễ:
- Lý Mỹ-Linh, Thân Thiệu-Thái xin ra mắt hậu duệ của Ngô đại-vương. Mong tỷ tỷ thứ cho tội quấy rầy.
Nữ lang đáp lễ, rồi chỉ về phía ngư nhân chạy:
- Chúng ta mau đuổi theo.
Mỹ-Linh mỉm cười, nhìn lên trời, đôi thần ưng bay lượn không xa làm bao:
- Tỷ tỷ đừng sợ mất tích bốn người này. Họ vẫn ở phía trước kia, chưa đi xa đâu. Mà dù có xa, chúng ta cũng tìm cược. Khi họ muốn trêu chúng ta, thì chúng ta cứ ngồi đây, khắc họ tự dẫn thân tới.
Nữ lang nhìn xuống suối, rồi lại mơ màng ngắm trăng:
- Đêm thanh trắng sáng đẹp thế này, bỏ qua thực uổng. Vậy mời Công-chúa, Giáo-chủ xuống suối, chúng ta ngắm trăng hầu chờ bốn ngư nhân.
Ba người chọn ba tảng đá bên giòng suối. Mỹ-Linh, nữ lang tháo dầy, ngâm chân xuống nước. Thiệu-Thái hỏi:
- Tỷ tỷ! Tỷ tỷ khéo chọn khung cảnh u nhã này để ở, thực còn hơn tu tiên. Có điều, đường từ đây ra trấn hơi xa.
Nữ lang ngửa mặt nhìn trăng, thở dài não nùng:
- Giáo chủ đang bận quốc sự, thì muốn sống yên tĩnh. Còn ngược lại tôi đang ở trong hoàn cảnh cá chậu chim lồng, lại muốn thoát khỏi cảnh này. Sự thực, tôi nào có muốn giam mình trong rừng đâu. Chẳng qua do hoàn cảnh bất đắc dĩ mà thôi.
Mỹ-Linh ngập ngừng:
- Nghĩa là???
- Tôi không tự làm chủ được, mà bị người ta kiềm chế.
Mỹ-Linh muốn nữ lang tự mình nói ra, nên nàng đưa mắt cho Thiệu-Thái ngụ ý bảo chàng yên lặng. Quả nhiên nữ lang nhìn trăng một lúc rồi thở dài:
- Để tôi thuật hoàn cảnh của mình cho giáo chủ cùng công chúa nghe.
Nữ lang vục tay xuống suối. Nước bắn tung toé lên, như những thanh vàng óng ánh, rồi thuật:
_Tôi họ Ngô tên Cẩm-Thi, thuộc giòng dõi Ngô vương tộc Việt. Tổ phụ tôi, nhân dẹp Kiều Công-Tiễn, phá Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, lập nền chính thống Đại Việt vào năm Kỷ-Hợi (939). Như các vị biết, tộc Việt bị nhà Đông Hán đem quân nghiêng nước sang đánh. Vua Trưng tuẫn quốc ở Cẩm-khê. Trải hai trăm lẻ năm năm sau, Triệu nương lại khởi binh ở Cửu-chân, bị Ngô dẹp. Từ đấy, tộc Việt chìm đắm trong đêm dài vô tận. Mãi hai trăm chín mươi sáu năm dài, vua Lý Nam-Đế mới khởi nghiệp, lập ra nhà tiền Lý vào năm Giáp-Tý (544). Đến năm Nhâm-Tuất (602) lại bị Tùy diệt. Rồi năm Nhâm-Tuất (722) Mai Hắc-Đế khởi binh, nhưng chỉ như tia lửa lóe lên trong đêm dài. Qua sáu mươi chín năm sau, Bố-Cái đại vương khởi binh vào năm Tân-Mùi (791), rồi cũng không được bao nhiêu năm. Nối tiếp, họ Khúc, họ Dương tuy có khởi binh, song vẫn chỉ là chức quan của Trung-quốc. Phải đợi đến cao tổ phụ tôi, mới thực sự tạo dựng một triều đại mới.
Mỹ-Linh thuộc làu giai đoạn lịch sử này:
- Cứ như quan thái sử bản triều chép, Ngô vương húy Quyền, tướng như sư tử, vai như gấu, lưng như hổ, uy mãnh không ai bì kịp. Vương xuất thân đệ tử của đại vương Dương Diên-Nghệ. Được Dương vương tuyển làm phò mã. Nhân Kiều Công-Tiễn ám sát Dương vương. Ngô vương dấy binh trả hận. Kiều Công-Tiễn sai sứ sang cầu cứu Nam-Hán. Nam-Hán sai Thái-tử Hoằng-Thao đem quân cứu Tiện. Ngô vương đại phá quân Nam-Hán ở sông Bạch-Đằng, giết Hoằng-Thao. Ngài lên ngôi vương, lập triều đình, đặt quan chức. Tộc Việt lại phục hưng thành một quốc gia có chính thống.
Cẩm-Thi gật đầu:
- Công-chúa bác học thực! Sau khi thành đại nghiệp, cao tổ tôi chỉ ở ngôi được sáu năm, rồi băng hà (945). Khi người hấp hối, có ủy thác con côi Xương-Ngập cho em vợ tên Dương Tam-Kha. Không ngờ Tam-Kha cướp ngôi của cháu. Xương-Ngập chạy trốn về Nam-sách. Sáu năm sau, tổ phụ tôi húy Xương-Văn đã lớn. Người xuất lĩnh quần thần đuổi Tam-Kha, được anh hùng tôn làm Nam-Tấn vương. Bấy giờ anh người tên Xương-Ngập xuất hiện. Người cho đón về. Hai anh em cùng coi triều chính.
Nữ lang nhìn lên trời, như nhớ lại công đức tổ tiên, rồi tiếp:
- Năm Ất-Sửu (965), tổ phụ tôi thấy thế nước suy vi, mà bên Trung-nguyên, nhà Tống thống nhất đất nước. Tôi không nhớ bấy giờ đã được mấy năm.
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay:
- Bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu Càn-đức thứ ba, đời vua Tống Thái-tổ.
- Phải rồi! Tổ phụ tôi sai hai vị đại thần, cùng phụ thân tôi sang sứ nước Ngô-Việt, bàn nhau đào kho tàng Tần-Hán lên, làm phương tiện kiến quốc.
Thiệu-Thái ngạc nhiên:
- Kho tàng Tần-Hán ở Quảng-Đông, sao triều Ngô không đến Quảng-Đông đào lên, mà phải sai sứ sang Ngô-Việt?
Nữ lang lắc đầu:
- Giáo-chủ quên sử rồi! Quảng-Đông lộ, tức chỗ chúng ta ngồi đây, hồi đó thuộc nước Ngô-Việt, rồi Nam-Hán. Nguyên sau khi vua Trưng tuẫn quốc, hào kiệt Tượng-quận nổi lên lập ra nước Đại-lý. Hào kiệt Nam-hải, Quế-lâm lập ra Ngô-Việt. Hào kiệt Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam lập ra Đại-Việt.
Mỹ-Linh gật đầu:
- Tôi nghe, khi Thái-tử của Nam-tấn vương cùng hai đại thần ra khỏi biên cương, ở nhà vương băng. Trong nước lâm tình trạng mười hai sứ quân. Rồi sau sử không nói rõ việc đào kho tàng đi đến đâu.
Nữ lang buồn bã:
- Vì ở Đại-Việt, Ngô triều mất, hai vị đại thần thấy nếu mình đem vụ kho tàng ra, không chừng bị triều Ngô-Việt hại là khác. Vì vậy hai vị, một văn, một võ đem phụ thân tôi tiềm ẩn ở trong thung lũng này, âm thầm tìm kho tàng. Nhưng... nhưng tìm kiếm nhiều lần, tốn biết bao tâm huyết, mà có kho tàng ở đâu?
Thiệu-Thái hơi có vẻ tin lý luận của Ngô Cẩm-Thi:
- Tại hạ cũng nghĩ như vậy. Dường như thời vua Trưng, ba vị tài trí nhất thời bấy giờ là Phương-Dung, Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa bàn nhau đặt ra câu truyện kho tàng với ngụ ý gì, trải qua gần nghìn năm, đời đời lưu truyền miệng, bị thất truyền chăng?
Cẩm-Thi nhăn mặt:
- Khổ một điều thời bấy giờ vua Trưng truyền chép Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ, mật dụ kho tàng chung với nhau. Có tất cả mười bản. Khi vua Trưng tuẫn quốc, không biết mười bản đó lưu truyền ở những địa phương nào, vào tay gia nào, phái nào. Mà hiện nay, bên Trung-nguyên từ Lưu hậu, Bình-Nam vương, cho đến bang Nhật-Hồ đều gửi người về tìm. Bên Đại-Việt, thì Lạc-long giáo, bên Chiêm-thành phái Phật-thệ cũng có người đến tìm. Ôi kho tàng ở đâu không biết, mà máu đổ thành sông, thành ao rồi! Chính phụ thân tôi, có bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng binh yếu chỉ cùng mật dụ kho tàng, mà khi giữ chức Phụ-quốc thái úy, đã đem hàng chục vạn binh tướng, lật từng viên đá, từng gốc cây tìm, nào có thấy?
Mỹ-Linh tính đốt ngón tay, rồi nói:
- Sử chép, Thái-tử của Nam-tấn vương húy Xương-Anh, mới mười lăm tuổi. Nếu người còn tại thế, năm nay đúng bẩy mươi bẩy tuổi. Như vậy tỷ tỷ là con của người?
Ngô Cẩm-Thi gật đầu:
- Hai vị cựu thần cho người về đón vợ con qua, rồi ẩn ở đây, dạy phụ thân tôi. Phụ thân tôi kết hôn với con gái vị quan võ. Tôi là con út của người. Tất cả ẩn nhẫn, chờ ngày hồi cố quốc, tái lập nền chính thống. Nhưng trong khi đó, ở Đại-Việt, vua Đinh dẹp mười hai sứ quân, rồi vua Lê kế sự nghiệp tổ tiên đánh Tống. Và gần đây, triều Lý đem nhân nghiã trị dân. Vì vậy, phụ thân tôi, cùng con cháu hai đại thần bỏ ý định về nước tranh ngôi vua. Vì làm như thế, chỉ giúp thêm cho Tống mang quân sang đánh, chẳng hoá ra chúng tôi cũng giống như Kiều Công-Tiễn hay sao?
Thiệu-Thái ngắt lời:
- Tôi nghe, Ngô vương vốn xuất thân phái Cửu-chân. Như vậy võ công cô nương là võ công Cửu-chân mới phải. Ban nãy cô nương xử dụng thế khinh thân đuổi theo ngư nhân lại thuộc phái Khúc-giang. Không biết bên trong còn có uẩn khúc gì không?
- Giáo chủ minh mẫn thực. Cao tổ nhà tôi, Ngô vương tìm được bộ Lĩnh-Nam vũ kinh bản của phái Tản-viên. Nhân người thuộc đệ tử Cửu-chân, nên biết hết thuật ngữ phái này, do đó luyện thành. Khi tổ phụ tôi sai phụ thân tôi sang Ngô-Việt, người trao bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, cùng mật ngữ cho. Ngược lại vị võ quan theo phu thân tôi thuộc phái Khúc-giang, nên ông biiết mật ngữ phái này, rồi chiếu theo vũ kinh, luyện cũng thành. Tôi được phụ thân luyện cho võ công Cửu-chân, thân mẫu luyện cho võ công Khúc-giang.
Cẩm-Thi tiếp:
- Khi anh hùng hào kiệt tộc Việt khởi nghiệp từ Khúc-giang, tái lập nước Ngô-Việt, tôn họ Tiền lên làm vua. Phụ thân tôi cùng con cháu hai di thần Ngô triều, gạt bỏ hết những gì mưu tái lập sự nghiệp tổ tiên ở Đại-Việt. Tất cả cùng hào kiệt tộc Việt đứng dậy. Do đó triều đại Ngô-Việt tái lập. Phụ thân tôi được vua Ngô-Việt phong làm Tả tướng quốc, phụ quốc thái úy, quản Khu-mật viện, tước Khúc-giang vương. Con cháu hai vị cựu thần Ngô triều, một được phong Thái-phó, Đồng bình chương sự, tước Thường-sơn công, kiêm binh bộ thượng thư. Một được phong Thái-bảo, Bình-chương sự kiêm lại bộ thượng thư, tước Hành-sơn công.
Mỹ-Linh gật đầu tỏ ra hiểu biết:
- Giai đoạn này, quan thái sử bản triều có chép. Thì ra khi cầm gươm khởi nghĩa, Ngô bá bá không giữ tên cũ, mà đổi thành Ngô Quảng-Thiên. Còn con cháu hai vị đại thần, một tên Đào Tường-Phúc một tên Chu Bội-Sơn.
- Đúng thế! triều Ngô-Việt thấy mình chiếm vùng Quế-lâm, Nam-hải thời Lĩnh-Nam, như vậy chỉ mới đòi được phần đất phía Bắc thời vua Trưng. Anh hùng Ngô-Việt muốn kết hợp với anh hùng Tượng-quận nay thành nước Đại-Lý. Anh hùng Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-Nam, nay thành Đại-Việt. Cả ba thống nhất, thì chúng ta sẽ trở lại nước hùng mạnh như thời Lĩnh-Nam.
Thiệu-Thái suýt xoa:
- Chí khí các bậc tiền nhân thực vĩ đại. Nếu như việc đó thành, chúng ta tiến tới thống nhất tộc Việt, tức nhóm Việt-Thường trốn lạnh vào Nam, nay thành Chiêm-thành, Chân-lạp, Xiêm-la, Lão-qua. Sau đó tạo hạnh phúc cho dân như thời vua Hùng, vua Trưng, thực là truyện thống khoái kim cổ... Tỷ tỷ! Sao việc đó lại bỏ dở?
- Đâu có bỏ dở? Bấy giờ bên Đại-Việt vua Đinh mới thống nhất đất nước. Lòng người chưa yên, nội trị bấp bênh, kho lẫm trống rỗng, chỉ mong giữ vững cơ đồ cũng may lắm rồi. Cho nên khi sứ thần Ngô-Việt sang triều kiến. Vua Đinh hứa rằng nếu Tống xâm lăng Ngô-Việt, Đại-Việt sẽ đánh trở lên, để chia thế lực Tống. Còn bên Đại-lý Đoàn Tố-Thuận mới lên ngôi, tuổi còn trẻ. Trong triều lại thiếu người hùng tâm tráng trí, kết cuộc vẫn mong bảo vệ bờ cõi.
Tuy biết rằng cuộc thống nhất tộc Việt của anh hùng Ngô-Việt không thành, nhưng Thiệu-Thái, Mỹ-Linh vẫn hồi họp theo dõi.
Thiệu-Thái lắc đầu:
- Như vậy thì đại cuộc hỏng mất rồi! Triều Tống vốn yếu hèn run sợ trước các nước phía Bắc, nên kỳ vọng vào những gì ở phương Nam. Họ thấy anh hùng Ngô-Việt sáng chói, tất dồn nỗ lực đánh Ngô-Việt trước. Ngô-Việt mới lập, quân chưa tinh, tướng chưa đủ kinh nghiệm, nội trị lỏng lẻo, quốc dụng thiếu thốn. E cự không lại.
- Đúng thế. Bấy giờ là niên hiệu Thái-bình hưng quốc thứ ba đời Tống Thái-tông. Bên Đại-Việt, thuộc niên hiệu Thái-bình thứ chín của vua Đinh. Vua Đinh truất phế con trưởng là Nam-Việt vương Đinh Liễn, lập con thứ Hạng Lang làm Thái-tử. Nam-Việt vương giết Hạng Lang, rồi Đỗ Thích ám sát vua Đinh cùng Nam-Việt vương. Đúng lúc đó Tống đem đại binh đánh Ngô-Việt.
Mỹ-Linh than:
- Giặc ngoài luôn luôn để hàng nghìn mắt, hàng vạn tai nghe ngóng động tĩnh của mình. Hễ mình có biến cố bất lợi, lập tức họ đem quân qua. Tỷ tỷ! Tôi không thấy sử gia chép cuộc kháng chiến chống Tống của Ngô-Việt ra sao. Xin tỷ tỷ thuật chi tiết cho anh em chúng tôi được rõ.
Cẩm-Thi thở dài:
- Tống sai sứ sang triều Ngô-Việt, bắt phải tuân theo ba điều kiện:
Một, bỏ quốc hiệu Ngô-Việt, đổi thành quận Giao-châu. Bỏ niên hiệu, chỉ dùng niên hiệu Tống.
Hai là vua Ngô-Việt phải đến Biện-kinh triều kiến Tống đế, nhận sắc phong làm Ngô-Việt quận vương.
Thứ ba, phải chịu binh dịch.
Tống sẽ cử trọng binh xuống trấn đóng. Quân đội có sẵn đặt dưới quyền thống lĩnh của Khu-mật viện Tống triều.
Thiệu-Thái nổi giận:
- Như vậy có khác chi đầu hàng. Tôi chắc triều đình Ngô-Việt không chịu.
Ngô Cẩm-Thi rơm rớm nước mắt:
- Thế là trong triều Ngô-Việt chia làm hai phe. Phe chủ chiến gồm phụ thân tôi, cùng với Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn và các tướng thuộc con em đệ tử phái Khúc-giang. Phe chủ hoà gồm hầu hết các quan còn lại. Quan trọng nhất họ Tiền, đang ở ngôi vua, lại chủ hoà. Đa số đại thần chủ hoà gốc người Hoa.
Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
- Các quan trong triều, nhiều người gốc Hoa lắm sao?
- Ba phần tư!
- Sao kỳ vậy?
- Công-chúa hiểu cho. Ngay từ thời vua Trưng, cách đây gần nghìn năm, người Hoa đã chiếm phân nửa dân Nam-hải rồi. Huống hồ sau gần nghìn năm Bắc thuộc, số người Việt còn lại không làm bao. Người Hoa, người Việt ở vùng Lưỡng-Quảng coi Ngô-Việt cũng như Bắc-Hán, Nam-Đường... nghiã là người Hoa nổi lên chiếm giang sơn, chứ không phải do tộc Việt quật khởi... Sau ba ngày luận bàn, phụ thân tôi cùng hai vị sư thúc Đào, Chu, con em đệ tử Khúc-giang đồng từ chức, lui về ẩn trong thôn dã, để triều Ngô-Việt chịu sắc phong của Tống. Đại binh Tống tiến vào. Vua cùng đại thần ra đón. Tướng Tống cho phục binh bắt vua cùng đại thần Ngô-Việt đem về Biện-kinh. Mỗi người đều được phong chức tước thực lớn, nhưng không trao cho quyền bính. Các võ quan gốc Hán được xung vào đạo quân đánh vua Lê Đại-Hành, còn gốc người Việt được chuyển lên phía Bắc đánh Bắc-Hán.
- Thế là hỏng đại cuộc. Dân chúng, quan lại các nơi chịu tuân phục ư?
- Tống Thái-tông rất khôn ngoan. Phàm quan lại địa phương, văn võ đều được thăng một trật, vẫn cho giữ chức vụ cũ. Các quan Hán từ trước đến giờ đều nghĩ rằng họ làm quan với ông vua Việt ở một góc biên thùy, chẳng khác chi giặc cỏ. Nay họ được làm mệnh quan đại triều. Họ cầu mà không được.
Mỹ-Linh thở dài:
- Bấy giờ dường như tỷ tỷ chưa ra đời thì phải?
- Đúng thế. Khi Tống chiếm Ngô-Việt, vua Thái-tông sai sứ đến đây mời phụ thân cùng Đào, Chu nhị thúc ra làm quan. Cả ba người đều từ chối, xin cho được yên vui với cỏ cây. Cả ba hứa làm những ngoan dân. Tống Thái-tông đang bận đánh Đại-Việt, Bắc-Hán. Trong triều có biến, giáng chức Tần-vương Đình-Mỹ. Bắc phải đối phó với Liêu cường thịnh, Tây-Hạ nhận sắc phong của Liêu. Vì vậy họ để cho phụ thân tôi được yên.
Mỹ-Linh lắc đầu:
- Hỏng! Cái thế ấy e lão bá nguy đến trong sớm tối. Hỏng! Hỏng to rồi!
Ngô Cẩm-Thi kinh ngạc:
- Công chúa đoán ra được ư?
- Cũng dễ thôi. Bá bá cùng hai vị Đào, Chu chủ chiến, mà phải qui ẩn. Khi Ngô-Việt mất nước, ít ra phân nửa sĩ dân trong nước phẫn hận việc Tống trở mặt. Tất họ hướng về ba vị bá bá. Dù muốn dù không, ba vị lại mưu dựng lại nghiệp cũ. Phất cờ giữa giai đoạn thịnh trị của Tống, chẳng khác gì tự tử.
Cẩm-Thi buồn rầu:
- Đúng thế. Niên hiệu Càn-hưng nguyên niên đời vua Chân-tông nhà Tống, nhằm niên hiệu Thuận-Thiên thứ mười ba bên Đại-Việt (1022), vua Chân-tông băng. Thái tử còn nhỏ tuổi, vua di chiếu cho Lưu hoàng hậu quyền xử trị việc nước. Ủy cho hoàng đệ Triệu Nguyên-Nghiễm cải danh Triệu Thành cầm binh quyền. Lưu hậu cùng Bình-Nam vương Triệu Thành có nhiều tham vọng, nên cho chiêu mộ võ lâm thiên hạ. Phái nào theo, được trọng dụng. Phái nào chống, bị diệt vong.
- Đối với phái Khúc-giang, Lưu hậu chiêu dụ hay Triệu Thành chiêu dụ?
- Lưu hậu! Phụ thân cùng hai vị Đào, Chu sư thúc quyết liệt từ chối. Người tổ chức anh hùng đại hội, bàn truyện khởi binh. Giữa đại hội anh hùng ở Hổ-môn, bị nội phản. Tống đem quân vây bắt hết. Song thân cùng ba anh tôi bị đem về Biện-kinh. Công chúa có biết tại sao, với tội phản như vậy, mà triều Tống lại không giết song thân tôi?
Mỹ-Linh chợt động tâm cơ:
- Khi hai vị bị nội phản, ắt kẻ nội phản phải thân tín lắm. Đã thân tín, dĩ nhiên chúng biết các ngài có trong tay bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng bản đồ kho tàng. Chúng chẳng dại gì mà giết các người. Chúng để các người cung khai cho chúng hết bí mật, rồi mới giết.
Cẩm-Thi mặt nhợt nhạt:
- Công chúa biết hết rồi ư?
- Không, tôi đoán vậy thôi! Tôi đoán chắc các ngài không chịu khai. Vì khai ra, sẽ bị giết. Sau khi khai bị giết thì khai làm gì? Cứ để vậy, còn hy vọng sống. Hoặc giả bộ Lĩnh-Nam vũ kinh và Dụng-binh yếu chỉ đã mất rồi cũng nên.
Thiệu-Thái hỏi:
- Cô nương có biết kẻ nội phản là ai không? Chúng ta phải tìm chúng mà tru diệt, băm vằm ra từng mảnh cho hả dạ.
Cẩm-Thi mơ màng nhìn trăng:
- Kể bội phản thuộc hàng võ lâm cao thủ, tài trí vô song vào bậc nhất bậc nhì Hoa-Việt hiện nay. Nếu đủ bản lĩnh, phụ thân tôi đã tru diệt chúng rồi. Bản lĩnh người đâu có tầm thường, mà đành ôm hận bị quản chế ở Biện-kinh.
Chợt mắt nàng chiếu ra tia hàn quang sáng chói:
- Giáo chủ! Ừ nhỉ tại sao tôi không nhờ Giáo-chủ đứng ra chủ trì công đạo vụ này! Phải rồi, trong thiên hạ ngoài Lạc-long giáo, phái Đông-a, Tiêu-sơn, không ai có thể giải cái nghìn thu hận của gia phụ.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đưa mắt nhìn nhau như cùng nói với nhau:
- Võ công Cẩm-Thi đâu kém gì bọn trưởng lão Lạc-long giáo? Thế thì võ công Ngô Quảng-Thiên hẳn ghê gớm lắm. Cả hai chỉ bị ước thúc miệng, ngoài ra không hề bị canh coi gì cả. Tại sao hai người không âm thầm trốn về Đại-Việt. Tống triều có phái đại binh cũng không tìm ra được. Như vậy không chừng họ bị khống chế bằng Chu-sa ngũ độc chưởng cũng nên? Có thể kẻ nội phản thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc mới có thế lực đó.
Mỹ-Linh tự nhủ:
- Kẻ nội phản ắt là người Việt trong đám con em từ bên Đại-Việt qua. Nếu họ phản, tất dùng thuốc độc hại Ngô Quảng-Thiên. Chứ bản lĩnh của ông, khi bị vây, ông thừa sức trốn đi, âm thầm gây lại thế lực. Kẻ nội phản vì danh hay vì lợi? Nếu vì chút danh, thì sau đó hẳn được Tống triều phong chức tước lớn. Tại sao ta chưa từng nghe thấy có người Việt nào được Tống phong quan tước cả. Vậy ắt vì lợi. Mà lợi gì? Chắc chắn phải lớn lắm, mới khiến cho họ bán rẻ lương tâm như vậy.
Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
- Kẻ nội phản mưu cướp bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, Dụng-binh yếu chỉ cùng bản đồ kho tàng ư? Chúng đánh thuốc mê Ngô bá bá, rồi cướp đi chăng?
Ngô Cẩm-Thi giật bắn người dậy:
- Đúng thế. Vì bản đồ kho tàng. Chứ hai bộ sách kia họ cũng có.
Mỹ-Linh thở dài:
- Con người ta dù thế nào chăng nữa, cũng không xa được cái nguồn gốc mình. Vua quan Tống, hành sự gì cũng qui về Nho. Triều đình Việt qui về chủ đạo tộc Việt. Những người học Hồng-thiết kinh dù ở dâu, dù ở hoàn cảnh nào họ cũng hành sự theo Hồng-thiết kinh: Không tín, chẳng nghĩa, vô tình, xảo quyệt, bạc ác. Có phải kẻ nội phản thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc không?
Ngô Cẩm-Thi lắc đầu:
- Không! Họ là người Việt.
Thiệu-Thái kinh hoàng:
- Họ là ai Không lẽ là Lê Ba, Vũ Nhất-Trụ?
Ngô Cẩm-Thi lắc đầu:
- Giáo chủ nghĩ kỹ một tý sẽ tìm ra ngay.
Mỹ-Linh ngồi bật dậy:
- Tôi tìm ra rồi! Họ là Tả, Hữu hộ pháp Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
Ngô Cẩm-Thi trả lời bằng cái gật đầu nhẹ nhàng.
Thiệu-Thái chợt nhớ ra: Sau khi lên làm giáo chủ, chàng được Lê Đức trình bày cho biết tổ chức Hồng-thiết giáo. Trên cao nhất có giáo chủ. Kế đến tả, hữu hộ pháp. Thấp hơn nữa có ngũ sứ và mười trưởng lão. Khi Nhật-Hồ lão nhân lập Hồng-thiết giáo Đại-Việt, kết hợp với bẩy võ lâm cao thủ trẻ tuổi. Lão tự làm giáo chủ. Phong cho hai người tài kiêm văn võ làm tả, hữu hộ pháp. Năm người còn lại làm ngũ sứ. Tả, Hữu hộ pháp thống lĩnh giáo chúng tộc Việt từ hồ Động-đình xuống đến Bắc-biên. Tức lãnh thổ Lĩnh-Nam cũ thuộc Quế-lâm, Nam-hải. Ngũ-sứ thống lĩnh giáo chúng Đại-lý, Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua, Xiêm-la. Mỗi người coi như làm giáo chủ một địa phận.
Thiệu-Thái hỏi tên bẩy người, Lê Đức cho biết: Bẩy người đó tuy ngang tuổi với mười trưởng lão. Nhưng họ ở vai sư đệ Nhật-Hồ lão nhân, chứ không phải đệ tử lão. Họ được học Hồng-thiết tâm pháp, nên có thể giải độc Chu-sa vĩnh viễn. Nhật-Hồ lão nhân không cho đệ tử biết danh tính bẩy người này. Bẩy người hành sự rất kỳ bí. Lâu ngày gần như họ ly khai với Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Nhưng sau cùng Lê Đức cũng biết được. Tả, hữu hộ pháp tên Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn. Ngũ sứ là Nguyễn San, Bun-Thành, Khiếu Tam-Bản, Nguyễn Tuyết-Minh, Sử-vạn Na-vượng.
Ngô Cẩm-Thi mơ màng nhìn trăng:
- Họ chính là hai người thân tín nất của gia phụ, tức Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn.
- Ái chà!
- Nguyên Đào, Chu với gia phụ có mối liên hệ từ mấy đời, đem nhau từ Đại-Việt sang, cùng chung mưu thống nhất tộc Việt. Gia phụ chủ trương dùng chủ đạo tộc Việt, dựng lại nước như thời vua Trưng. Chu, Đào âm thầm theo Nhật-Hồ lão nhân, nhập Hồng-thiết giáo, rồi khuyến dụ gia phụ theo. Gia phụ cự tuyệt, vì như thế là đi vào đường tà ma, giết chủ đạo tộc Việt, thì còn mong gì tái lập Lĩnh-Nam nữa. Thế rồi hai vị Chu, Đào âm thầm hoạt động trong bóng tối. Cho tới lúc hội họp bàn khởi binh, thì hầu hết các hào kiệt trong buổi họp đều theo Hồng-thiết giáo. Họ muốn Hồng-thiết giáo đứng lên lãnh đạo cuộc khởi binh. Gia phụ chống đối. Thế là gây cuộc động thủ. Giữa lúc đôi bên đại chiến, thì thiết kị Tống xuất hiện. Đám Hồng-thiết hợp với binh Tống, nên phía hào kiệt lớp bị bắt, lớp bị giết. Song thân tôi bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng.
Ngô Cẩm-Thi nghiến răng:
- Thì ra Hồng-thiết giáo muốn độc quyền khởi binh. Họ không ngần ngại mượn tay Tống trừ khử hào kiệt Việt. Tống với Hồng-thiết ước hẹn nhau: Tống giúp Hồng-thiết giáo diệt hào kiệt. Ngược lại Hồng-thiết nhường cho Tống kho tàng. Vì vậy gia phụ, với tôi đều bị quản chế, mỗi năm họ phát cho một viên thuốc giải Chu-sa ngũ độc, cho đến khi gia phụ khai ra bản đồ kho tàng thì thôi.
Thiệu-Thái như người mơ ngủ mới tỉnh. Chàng hỏi:
- Sau khi diệt lão bá với hào kiệt. Tống quay ra diệt Hồng-thiết giáo của Chu, Đào. Vì vậy cho đến nay họ tuyệt tích giang hồ?
- Đúng thế! Hai lão đổi họ, cải tên đi. Đào Tường-Phúc đổi tên thành Tôn Đức-Khắc. Chu Bội-Sơn đổi tên thành Lê Lục-Vũ. Cả hai theo Lưu hậu, ẩn hiện không chừng.
Mỹ-Linh thấy Ngô Cẩm-Thi nói nàng bị trúng Chu-sa ngũ độc, rồi bị quản chế. Thế mà nay nàng biết Thiệu-Thái có thể trị độc cho nàng, mà nàng không cầu khẩn. Như vậy bên trong có ẩn dấu sự thực cũng nên. Vì vậy nàng dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Thiệu-Thái cứ lờ vụ giải Chu-sa độc đi. Nếu sự thực nàng bị trúng độc này ắt sẽ cầu khẩn.
Thiệu-Thái tội nghiệp cho Cẩm-Thi:
- Tỷ tỷ ở trong thung lũng này gần mười năm nay ư?
- Đúng thế. Hơn mười năm nay, tôi bị giam lỏng ở đây. Lưu hậu cho sứ giả nói rằng: Nếu tôi rời khỏi vùng Khúc-giang trong vòng ba ngày, lập tức song thân tôi ở Biện-kinh bị đem ra chặt đầu.
Mỹ-Linh thở dài:
- Lưu hậu gớm thực! Bà ta tra khảo hai vị tiền bối về kho tàng, về vũ kinh, về binh thư không được. Bà ta giả nhân, giả nghĩa tha cô nương sống trong thung lũng, rồi cho người theo dõi. Như vậy may mới tìm ra manh mối những thứ bà ta muốn.
Cẩm-Thi nhìn trước, nhìn sau:
- Không chừng chúng ta ngồi đây nói truyện với nhau, người của Lưu hậu rình rập nghe trộm cũng nên. Tôi chẳng biết gì về kho tàng, cũng không có vũ kinh, binh thư. Họ rình mò, cho họ rình mò.
Mỹ-Linh thấy đôi chim ưng vẫn bay lượn bình thường. Nàng nói:
- Bây giờ không có ai rình, nếu có lát nữa mới xẩy ra được.
Thiệu-Thái hỏi:
-_Tỷ tỷ chỉ ở trong thung lũng, mà sao biết hết truyện Đại-Việt, truyện ngư nhân ngoài trấn?