Nàng tự giảng:
- Hai câu có nghĩa từ Ân tới Chu cai trị Trung-nguyên, vàng ngọc súc tích. Hai câu này không có gì lạ.
Nàng đọc xuống hai câu dưới:
Trung-nguyên thống nhất, A-phòng cháy.
Đuổi hươu, Đông thành, Tây ra đi.
- Phải rồi hai câu này ý nói Tần thống nhất thiên hạ, rồi bị Hạng-Vũ diệt, đốt cháy cung A-phòng. Bấy giờ anh hùng thiên hạ nổi lên tranh nhau giang sơn, ví như đuổi con hươu. Đông tức Hạng Vũ. Lưu Bang lập nhà Tây Hán tức Tây. Như vậy câu sau ý nói Hạng Vũ thắng Lưu Bang.
Nàng đọc hai câu tiếp:
Đại phong một trận, anh hùng tận,
Châu bảo Vị-ương, lửa bốn bề.
- Sau khi Lưu Bang thắng Hạng Vũ, trở về quê làm bài thơ Đại-phong. Lưu đem châu bảo thời Ân, Chu, Tần cất ở điện Vị-ương. Rồi cuối đời Tây Hán, Vương Mãng làm phản. Y đốt cháy điện Vị-ương.
Nàng đọc tiếp:
Động-đình, Yên-Lãng, Nghi-Hòa đến.
Khúc-giang, sóng dậy, muôn đời ghi.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
- Đoạn này ý nói công chúa Yên-Lãng Trần Năng và hai công chúa Nghi-hoà Trần Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa đào kho tàng ở hồ Động-đình lên, rồi chở về Khúc-giang. Nhưng chữ sóng dậy với muôn đời ghi ý chỉ gì?
Nàng chợt nghĩ đến những thuật ngữ:
- Sóng nghĩa là núi cao. Dậy nghĩa là hang sâu. Muôn là mười vạn. Một vạn trong thuật ngữ là một trăm. Vậy muôn thành con số một nghìn. Cả hai câu này ý nói: trong núi cao nhất, có hang sâu. Còn một nghìn là gì nhỉ?
Nàng mở bản đồ vùng Khúc-Giang ra. Này sông, này núi, trùng điệp. Nhìn một lượt nàng nghĩ thầm:
- Ta phải tìm núi nào cao nhất mới được!
Không khó khăn, nàng tìm ra giữa thung lũng gần núi Ô-thạch có ngọn Tuyệt-phong cao nhất. Nàng nhủ thầm:
- Ta phải thám thính ngọn Tuyệt-phong xem sao.
Đến đấy mệt mỏi, nàng bỏ sách vào bọc, mở cửa ra ngoài, ngồi nghe Thiệu-Thái, Lê Đức bàn truyện Lạc-long giáo.
Chợt một giáo đồ giữ trọng trách gác đầu thuyền vào cúi rạp người xuống trình với Lê Đức:
- Trình trưởng lão. Bên ngoài có một con thuyền nhỏ. Trên thuyền chứa bốn người. Ba người nằm ngủ, không rõ mặt. Một người đội nón buông câu. Thuyền đậu sát thuyền ta. Thuộc hạ đuổi, mà hắn không chịu đi. Xin trưởng lão định liệu.
Thiệu-Thái bảo y:
- Tuyệt đối tránh đụng chạm. Chúng ta đang ẩn thân. Tôi với Lê trưởng lão ra ngoài xem sao.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức ra đầu thuyền quan sát. Con thuyền mui che một nửa. Trong lòng thuyền trải chiếu, có ba người cuộn chăn nằm ngủ gáy khò khò. Còn một người ngồi buông câu. Cái nón che mất mặt, không hiểu y già hay trẻ.
Một giáo chúng nói:
- Này thuyền ai kia, lui ra chỗ khác. Tại sao lại cứ sán đến bên thuyền ta mà câu?
Người câu im lặng không trả lời. Y móc trong bọc ra một ống tiêu để lên miệng thổi. Tiếng tiêu véo von vọng đi rất ra. Hết bài tiêu, y cất cao giọng ngâm:
Thương-lang chi thủy thanh hề,
Khả dĩ trạc ngã anh.
Thương-lang chi thủy trọc hề,
Khả dĩ trạc ngã túc.
Ngâm xong, y ngâm sang tiếng Việt:
Sông Thương nước chảy trong veo,
Thì ta đem giặt cái lèo mũ ta.
Sông Thương nước chảy phù sa,
Thì ta lội xuống để mà rửa chân.
Rồi y lại cầm tiêu thổi. Lần mày y thổi bản Động-đình ca.
Tên giáo chúng cầm cây sào gõ vào nón ngư nhân. Y ngửa mặt nhìn lên, rồi nói một mình:
- Trời đất ôi! Xưa Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung khi còn làm nghề nặn nồi bán, bị bọn ngu xuẩn kẻ chợ khinh khi. Lúc chưa đạt vận Khương thái công, Hàn Tín đi câu cá, chúng nhân người trần mắt thịt coi thường. Nay ta câu cá trên sông, cũng bị bọn trôi sông dạt chợ khuấy phá. Hỡi ôi! Thiên hạ đều người trần mắt thịt cả.
Tuy nói vậy, mà y vẫn không di chuyển, cứ ngồi câu, bất kể đến tên giáo chúng. Y nói một mình:
- Hai con thuyền cùng đậu trên sông. Ta không hỏi tội người tại sao người đậu thuyền bên ta, người cũng đừng trách sao ta đậu thuyền cạnh ngươi mới phải chứ?
Lê Đức nói nhỏ với Mỹ-Linh:
-- Tiếng người này dường như còn trẻ. Y cố ý gây sự với ta. Vậy ta lui thuyền ra chỗ khác.
Mỹ-Linh nhận thấy dáng người này rất quen, mà nàng không nhớ đã gặp ở đâu.
Nàng ra lệnh:
- Anh em dời thuyền xuống khúc dưới kia vậy.
Thuyền phu nhổ sào, cho thuyền di chuyển về phía trước. Con thuyền của ngư nhân cũng trôi theo song song. Bỗng con thuyền lớn lao vào phía bờ bên kia sông, là một bãi hoang.
Lê Đức kinh hãi hỏi:
- Ta bảo cho thuyền đi thẳng, tại sao lại áp vào bãi này.
Tài công kêu lên:
- Trình lão gia, bánh lái mắc kẹt, nên thuyền đâm vào bờ.
Lê Đức chạy vào cầm lái, lái thử, thì thuyền lại trôi ra giữa sông. Y mắng tài công:
- Bánh lái hỏng đâu?
Tài công cầm lấy tay lái, quả nhiên bánh lái không kẹt. Thuyền trôi dần theo giòng. Tới hạ lưu, thuyền phu cho cắm sào. Lê Đức nhìn ra, thủy chung con thuyền nhỏ vẫn đậu song song với thuyền mình, không tới trước, không lui một bước. Y nhìn rõ ngư nhân đang kéo một sợi dây dài cuộn thành đống nhỏ bên cạnh.
Lê Đức tỉnh ngộ:
- Mình đáng chết thực. Ngư nhân tung dây cột bánh lái, làm tài công tưởng bánh lái kẹt. Khi mình cầm lái, y buông dây, mình không rõ, chửi oan tài công.
Thuyền phu ngó xuống con thuyền nhỏ chửi:
- Này anh ngư nhân kia. Tại sao anh cứ theo ta mãi vậy?
Ngư nhân cũng không vừa:
- Này các người. Các người ỷ có thuyền lớn, theo sau thuyền ta mãi, làm sao ta câu được cá. Các người có lui ra chỗ khác không?
Biết bị khiêu khích, Lê Đức ra hiệu cho thuyền phu. Thuyền phu cầm cây sào chọc vào đầu ngư nhân. Ngư nhân chụp cây sào bật mạnh một cái. Thuyền phu bay vù lên cao, rồi rơi tòm xuống nước. Y lóp ngóp bơi lại mạn thuyền, bám dây leo lên.
Lê Đức bật lên tiếng ủa kinh ngạc. Y ra hiệu. Một thuyền phu khác cầm cây chèo đập vào đầu ngư nhân. Ngư nhân bắt lấy cây chèo, rồi kẹp giữa hai đầu gối. Thuyền phu giật mạnh, mà cây chèo như đóng đinh vào cột không nhúc nhích.
Hai ba giáo chúng cùng chạy lại giật cây chèo, mà thủy chung không chuyển động. Trong khi ngư nhân vẫn ngồi nhàn nhã. Tuyệt ở chỗ, hai đầu gối y bất động, hai tay y cầm ống tiêu để lên miệng thổi. Dù hai thuyền phu giật chèo, mà bản nhạc vẫn véo von không đứt quãng.
Đào Nhất-Bách bước tới cầm lấy cây chèo. Y vận sức giật mạnh. Cây chèo bật lên. Y với với giáo chúng thuyền phu ngã bổ ngửa trên sàn trông thực thảm não.
Mỹ-Linh kinh ngạc không ít. Võ công của Đào Nhất-Bách không thua Lê Đức làm bao. Ngặt vì y dùng sức mạnh. Ngư nhân thuận thế truyền thêm lực vào, thành ra Đào bị hai kình lực hợp lại, đến nỗi không giữ được thăng bằng.
Đào Nhất-Bách mất bình tĩnh. Y vọt người lên cao, nhảy xuống con thuyền nhỏ. Tay phóng chưởng tấn công. Ngư nhân cười nhạt, chiã cần câu lên trời. Mọi người kinh hãi la lớn, vì Nhất-Bách rơi xuống, ắt bị cần câu đâm thủng ngực.
Diễn biến xẩy ra đột ngọt, dù Mỹ-Linh, dù Lê-Đức có ra tay can thiệp cũng không kịp. Nàng chi còn biết kêu lên:
- Xin dung tình.
Ngư nhân rung động tay một cái, dây câu cuốn lấy thân hình Nhất-Bách. Cần câu gật mạnh, Nhất-Bách rơi xuống giữa thuyền nhỏ. Lạ một điều, y rơi không mạnh, mà sao lọt vào giữa lòng thuyền, rồi nằm bất động, không nói không rằng, trong khi mắt vẫn mở trừng trừng.
Ngư nhân cười dòn:
- Được con cá hồng này lớn quá. Đem vào chợ xẻ thịt bán lấy tiền uống rượu.
Đến đây, y giật mạnh sợi dây bên hông một cái. Cánh buồm kéo lên, con thuyền nhỏ chạy vun vút về hạ lưu.
Lê Đức hô lớn:
- Mau cho thuyền đuổi theo.
Khi thuyền nhổ sào chèo đi, thì con thuyền nhỏ đã mất hút ở cuối giòng sông.
Lê Đức lệnh cho thuyền ghé bờ. Y cầm tù và thổi lên một hồi. Lát sau có ba kị mã chạy tới. Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức lên ngựa phi dọc theo bờ sông đuổi con thuyền nhỏ. Trong khi dưới nước, con thuyền lớn cũng chèo theo.
Không mất nhiều thời gian, Mỹ-Linh thấy con thuyền nhỏ cắm sào giữa sông. Bốn người nằm trong thuyền đã ngồi dậy. Năm người đang ngồi ăn cơm, thản nhiên như không có gì xẩy ra.
Mỹ-Linh dừng ngựa lên tiếng:
- Này! Mấy vị hảo hán kia. Người anh em ta không biết núi Thái-sơn, trót mạo phạm. Mấy vị hãy rộng lượng tha cho y một phen.
Ngư nhân ngồi câu ban nãy để tay lên tai làm như lắng nghe:
- Tiếng ai nói trên bờ vậy kìa?
Một ngư nhân khác tiếp:
- Dường như tiếng con gái. Cô này chắc đẹp lắm, tiếng trong, ngọt như cam thảo.
Mỹ-Linh nhắc lại câu nói ban nãy. Ngư nhân vẫn để tay vào tai:
- Cô nương nói sao? Cô nương muốn mua cá ư?
Mỹ-Linh bực mình:
- Không phải muốn mua cá, mà muốn chuộc lỗi.
- Cô nói cái gì? Trời ơi, tự nhiên tai tôi điếc đặc mất rồi. Cô muốn mua chão chuộc rán mỡ hay nấu rọc mùng ăn hả? Tôi chỉ câu được con cá hồng thôi. Cô nương muốn mua bao nhiêu cân, tôi xẻ ra bán cho. Mỗi cân một chỉ bạc.
Mỹ-Linh biết ngư nhân giả vờ:
- Này hảo hán, người bắt anh em của ta để làm gì? Y có đôi chút mạo phạm với người. Ta xin người lượng thứ cho.
Ngư nhân vẫn để tay vào tai:
- Cô nương nói sao? Cô nương muốn mua lươn ăn à? Tại hạ chỉ câu được con ngư nhân mà thôi.
Phía sau con thuyền của Lạc-long giáo đã đuổi kịp. Thuyền lớn kè mạn thuyền nhỏ. Chợt con thuyền nhỏ quay một vòng chạy ngược trở lại, buồm căng no, thuyền như bay trên mặt nước. Giáo chúng trên thuyền lớn chỉ còn biết la hoảng.
Mỹ-Linh, Lê Đức cho ngựa chạy theo. Con thuyền nhỏ táp vào bờ bên kia, rồi ngư nhân cùng bốn người đồng hành vác Đào Nhất-Bách lên bờ, chạy mất dạng.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái, Lê Đức cùng xuống thuyền. Đỗ Lệ-Thanh hỏi Lê Đức:
- Lê trưởng lão. Tôi thấy dường như mấy ngư nhân này còn rất trẻ. Họ không có ác ý với bọn mình . Võ công của ngư nhân rất kỳ ảo.
Lê Đức phiêu bạt giang hồ cả đời người, thừa kinh nghiệm, y nói:
- Cái giật sào, hất giáo chúng xuống sông là biến chiêu Kình ngư qúa hải thuộc võ công Cửu-chân. Hai chân kẹp chặt sào, giống nội công Đông-a hay Tiêu-sơn. Khi chĩa cần câu lên, là chiêu Phong suy hoa lạc thuộc kiếm pháp Mê-linh. Lúc giật cần câu bắt Nhất-Bách chính là chiêu Thiên vương xung thiên trong Thiên-vương trượng pháp phái Sài-sơn. Tóm lại, võ công ngư nhân là võ công Đại-Việt.
Mỹ-Linh gật đầu:
- Lê trưởng lão nói đúng. Duy chiêu số gì, mà cái phao đập vào phía sau cổ Nhất-Bách, đến nỗi y bất động, tôi chưa hề nghe qua. Bây giờ chúng ta phải đuổi theo bốn người này cứu Đào trưởng lão.
Lê Đức ngơ ngác:
- Trời đất rộng bao la, biết họ đi phương nào mà đuổi. Hơn nữa chúng ta đang ở trên đất Tống. Quanh vùng này người của Khu-mật viện Tống nhiều như kiến . Chúng ta cứ thủng thẳng, sẽ truy tìm sau.
Chợt Thiệu-Thái nhìn lên không, thấy đôi chim ưng theo dõi Triệu Thành đang bay lượn gần ngay bờ sông. Chàng hỏi Mỹ-Linh:
- Này biểu muội! Em thử đoán, sau khi Triệu Thành với bọn mình rời soái thuyền, tình trạng mấy người đó ra sao?
Mỹ-Linh lắc đầu:
- Khó đoán được lắm. Em chỉ biết một điều, những người bị Đỗ phu nhân phóng độc, không biết Lê tiểu thư có cứu được họ không?
Đỗ Lệ-Thanh gật đầu:
- Nếu Hồng-Sơn đại phu hiện diện thì cứu được. Tuy nhiên, dù không trị, trong vòng ba năm họ cũng không đến nỗi thiệt mạng. Khi rời thuyền, tiểu tỳ trao cho Đoàn đề đốc chai rượu, gói trong một bao kín, thác rằng đó là mật kế của công chúa. Sau khi bọn Minh-Thiên lên bờ, thuyền trên đường về Đại-Việt hãy mở ra. Trong đó thần có bức thư, nói cho biết rượu có pha thuốc giải.
Thiệu-Thái nhăn mặt:
- Vậy bọn Dư Tĩnh, Địch Thanh, Quách Quỳ phải chịu đau mãi hay sao? Tôi nghĩ chúng ta nên tìm chúng, rồi cho thuốc giải, hơn là để chúng đau như vậy.
Đỗ Lệ-Thanh biết ông chủ của mình lòng dạ lương thuần. Bà cung kính:
- Sau việc ở đây, tiểu tỳ cũng sẽ theo chủ nhân đi Biện-kinh. Tới nơi, tiểu tỳ tìm cách trao thuốc giải cho họ.
Thuyền đã trở về bến chợ. Mỹ-Linh bảo Đỗ Lệ-Thanh:
- Phu nhân với tôi lên bờ, chờ tên Luyện xem y có đến không?
Thiệu-Thái tường thuật vụ tên Luyện giả người coi chợ cho Lê Đức nghe. Y nhăn mặt ngẫm nghĩ:
- Tại trấn này, giáo chúng của mình có hàng nghìn. Tai mắt khắp nơi. Công chúa để thuộc hạ dọ hỏi tin tức y trước khi lên bờ gặp y.
Lê Đức gõ vào mạn thuyền ba tiếng. Một giáo chúng vào khoanh tay chờ lệnh. Y nói:
- Phiền chú lên mời đạo trưởng đạo Quảng-Đông xuống hầu giáo chủ.
Tên giáo chúng thưa:
- Trình trưởng lão, đạo trưởng Chu Tấn đã xuống thuyền chờ đón giáo chủ từ hôm qua. Vì chưa có lệnh giáo chủ, nên chưa dám xuất hiện.
- Thuyền của đạo trưởng ở đâu?
Tên giáo chúng chỉ sang con thuyền cực lớn đậu ngay trên bến:
- Thưa con thuyền kia.
- Mời đạo trưởng sang ngay.
- Thưa đạo trưởng bị lên cơn đau đớn cực kỳ, thành ra không ngồi dậy được.
Thiệu-Thái chợt nhớ lại hôm đại hội, còn thiếu chưởng quản đạo Quảng-Đông không về dự, thành ra chưa được giải Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Chàng vội đứng lên:
- Chúng ta sang đấy trị cho Chu huynh.
Lê Đức vẫy tay, thuyền phu nhổ sào, đẩy con thuyền sang sông, cặp vào con thuyền lớn. Lê Đức nhảy sang trước. Thiệu-Thái, Mỹ-Linh nhảy sang sau. Một viên giáo chúng mở cửa thuyền khoanh tay:
- Thuộc hạ quản huyện đạo Khúc-giang, Thân Minh xin tham kiến giáo chủ cùng trưởng lão.
Thiệu-Thái vẫy tay:
- Miễn lễ. Phiền Thân huynh đệ đưa tôi vào thăm Chu đạo trưởng.
Thân Minh cúi đầu đi trước. Tới một khoang thuyền lớn, y nói vọng vào:
- Giáo chủ giá lâm.
Cánh cửa mở rộng. Bên trong có ba nữ giáo đồ quỳ gối hành lễ. Cạnh đó, một người râo tóc bạc phơ đang nằm thoi thóp thở. Thiệu-Thái vẫy tay cho Đỗ Lệ-Thanh:
- Phiền phu nhân thăm mạch Chu đạo trưởng dùm.
Đỗ Lệ-Thanh cầm tay Chu Tấn bắt mạch. Lát sau bà nói:
- Trình giáo chủ bệnh của Chu đạo trưởng không có gì đáng ngại. Chỉ vì quá một năm, không nhận được thuốc giải, thành ra độc chất hành hạ mà thôi.
Thiệu-Thái vận khí, vung chưởng vỗ vào đầu Chu Tấn một cái như gió thoảng. Chu Tấn đang rên rỉ, đau đớn. Y kêu lên tiếng kêu ối rồi ngồi bật dậy. Máu mũi y chảy ra xối xả. Một nữ giáo chúng vội trao cho y chiếc khăn lớn. Lạ thay, máu chảy đến đâu, da mặt Chu-Tấn hồng hào tới đó. Khoảng nhai dập miếng trầu, máu không chảy nữa.
Chu Tấn quỳ gối hướng Thiệu-Thái:
- Đa tạ giáo chủ cứu mạng.
Đỗ Lệ-Thanh cầm bút ghi một thang thuốc trao cho nữ giáo đồ:
- Đúng ra, Chu huynh bị Chu-sa độc chưởng hành hạ, giáo chủ dùng thần công trị, thì khỏi hẳn. Ngặt vì, quá hạn một năm, không thuốc giải, nên Chu huynh đau liệt dường hơn tháng. Vì vậy cần uống thuốc bổ dưỡng. Phiền cô nương ra chợ cắt cho ba thang thuốc. Đem về, mỗi thang dùng mười bát nước, nấu còn hai bát, trao cho Chu huynh uống. Mỗi ngày một thang.