Hồi 23b
Trưng Nhị lắc đầu:
- Chị không chú ý cho lắm.
Sa-Giang thở dài:
- Trưng sư-tỷ! Em muốn nói một câu, nhưng phải xin lỗi trước, sư-tỷ không chấp em mới dám.
Một tay Trưng Nhị cầm tay Sa-Giang, một tay nâng cằm nàng lên, nói:
- Từ hôm gặp em, chị đã thấy như quen biết tự bao giờ, đúng như Đại-sư Tăng Giả Nan Đà nói: Chúng mình có tiền duyên với nhau từ kiếp trước. Cho nên chị nghĩ, nếu chị là con trai, chị sẽ bắt em về làm vợ, vì vậy chị nhắc lại: Chúng ta đối xử với nhau như ruột thịt, em có ý kiến gì cứ nói.
Sa Giang cảm động:
- Em thấy dường như tất cả sách vở của Trung-nguyên, chị đều đọc hết, hiểu hết, ứng dụng linh động. Võ công chị thuộc loại tuyệt cao, hơn nữa mưu trí không ai bì kịp. Nhưng chị ít tiếp xúc với đời nhiều nên thiếu tinh tế nhỏ nhặt, những tinh tế đó, đối với chị không cần thiết, song đôi khi nó dễ đưa đến nguy hiểm cho chị và cho đại cuộc.
Trưng Nhị nhận thấy lời Sa-Giang là đúng, về bất cứ mặt gì nàng cũng hơn cô bé này. Duy có một điều, những kinh nghiệm, những xảo trá trên đời nàng kém Sa-Giang, kinh nghiệm của Trưng Nhị do ở sách vở, còn những gì Sa-Giang có do gần mười năm theo phụ thân phiêu bạt khắp nơi thu thập được.
Sa Giang tiếp:
- Khi vào nhà cặp vợ chồng nhà quê, em thấy có gì khác lạ, ông nói giọng Trường-sa, bà nói giọng Nam-hải. Bởi vậy em biết họ không phải người vùng này, chẳng qua họ tới đây mưu đồ việc gì khác lạ mà thôi.
Hồ Đề chợt hiểu:
- Chị biết rồi, họ gốc người ở nơi khác đến đây mưu đồ việc gì, nên giả làm nông phu, vì nếu họ làm lái buôn họ có thể nói giọng Nam-hải, Trường-sa, đây gốc nông dân chỉ có thể là người Trường-sa mà thôi. Thế nhưng lão bà nói giọng Nam-hải, mười tiếng có đến bảy tám tiếng Việt nhà mình.
Sa-Giang nói:
- Bước chân của lão rất vững, đôi mắt sáng như sao, hàm răng trắng đều, cử động tự nhiên. Tỏ ra còn trẻ có nội công thượng thừa. Tuy ông hóa trang bằng chòm râu, mái tóc bạc và tô cho lớp da dăn deo, còn lão bà thì yểu điệu tha thướt, không lên tiếng, dáng đi vững chắc, mắt sáng. Nhất là khi bà mở cửa cho chúng ta, tay áo co lại, để hở ra cánh tay trắng muốt, mịn màng, em tưởng sư-tỷ lịch lãm nhiều, chắc để ý đến điều đó. Không ngờ từ nãy đến giờ, không thấy sư-tỷ đề cập đến, em mới quyết rằng sư-tỷ không chú ý!
Trưng Nhị toát mồ hôi:
- Quả thực chị thiếu thận trọng, thiếu lịch lãm giang hồ, vậy chúng ta phải dè dặt mới được. Hai người này giả làm nông dân ở đây, chắc cũng liên quan đến lăng mộ Trường-sa Định-vương.
Sa-Giang tiếp:
- Chúng ta đề phòng, từ nước uống cho đến những việc nhỏ như đi, đứng nhất thiết không được sơ hở. Tối hôm nay chúng ta sẽ thám thính lăng mộ Trường-sa Định-vương.
Ba người trở về, mở cửa căn nhà bước vào, lão chủ nhà pha trà ra bát mời ba người uống, lão hỏi:
- Chẳng hay ba vị cô nương quí tính phương danh là gì? Và sao lại qua đây trong lúc Trường-sa sắp có giặc?
Trưng Nhị chỉ Hồ Đề đáp:
- Hồ sư muội đây người Lĩnh Nam với tôi, chúng tôi là con Lạc-hầu, cha mẹ gửi chúng tôi sang Kinh-châu học, còn đây Trang sư-muội người Thành-đô, chúng tôi cùng theo học một thầy. Nay nhân vì Kinh-châu có loạn, chúng tôi tạm lánh về Lĩnh Nam ít lâu, chẳng hay hai bác quí tính là gì?
Lão già nói:
- Tôi họ Vương, tên Anh, còn đây tiện nội họ Chu tên Nghi-Gia, chúng tôi là nông dân vùng này, vợ chồng chúng tôi có hai con trai đều bị gọi đi lính, thành ra chúng tôi sống cô quạnh một mình
Chu Nghi-Gia hỏi Trang Sa-Giang:
- Trang cô nương ở Thành-đô ra Kinh-châu học đã lâu chưa? Cô nương học về khoa gì?
Sa-Giang đáp:
- Cháu ra Kinh-châu học từ năm trước, bấy giờ Kinh-châu thuộc đất Thục, sau Kinh-châu thuộc Hán, rồi mới đây lại thuộc Thục. Cháu học về âm nhạc, sư phụ của cháu là Trường-giang lão-sư.
Sa-Giang lưu lạc bên cạnh cha lâu ngày, nàng nói dối rất dễ dàng. Nàng biết Nghi-Gia nghi ngờ nàng không phải từ Thục ra Kinh-châu học, mới hỏi học lâu chưa, vì giữa Thành-đô và Kinh-châu thường bị gián đoạn vì chiến tranh. Bây giờ nàng nói rõ ràng từng chi tiết, Nghi-Gia mới hết ngờ.
Ba nàng lấy cớ mệt, từ biệt đi ngủ, Sa-Giang với Trưng Nhị lên giường nằm, còn Hồ Đề nhảy lên xà nhà, dựa vào kèo nhà mà ngủ. Nguyên Hồ Đề sống ở rừng lâu năm, nàng thường leo lên cây ngủ như loài khỉ, bây giờ trước cặp vợ chồng nông thôn, nhiều nghi ngờ, nàng lên xà nhà quan sát động tĩnh.
Nhờ ở trên cao, nàng nhìn sang phòng vợ chồng Vương Anh rất rõ ràng. Hai người đang nằm trên giường, họ ghé tai vào nhau bàn chuyện, nàng lắng tai nghe, nhưng không phân biệt được hai người nói gì. Một lát sau Vương Anh bò dậy, nhẹ nhàng đến cạnh phòng nàng ghé mắt nhìn vào, lắng tai nghe ngóng một lúc, rồi vẫy tay gọi vợ ra ngoài sân.
Hồ Đề truyền theo xà nhà, đưa tay lên mái tranh giật một cái, mái tranh hở ra lỗ nhỏ, nàng chui khỏi nóc nhà, từ nóc nhà nàng truyền sang cây lớn phía sau, tuột xuống đất bám sát vợ chồng Vương Anh.
Vợ chồng Vương Anh đến bờ suối ngừng lại, Chu Nghi-Gia lên tiếng:
- Sư-ca thử đoán xem ba cô gái này là ai? Họ có phải người du học thực hay không?
- Tôi thấy Hồ cô nương bàn tay lớn, nước da đen, chắc không phải người cầm bút. Trưng cô-nương nói năng ôn nhu, văn hoa tất đọc sách nhiều, còn Trang cô-nương thì đúng người đất Thục, như vậy có thể tin rằng họ du học.
- Sư ca quên mất một điều, giữa lúc chiến tranh thế này, mà ba cô gái dám ra ngoài, thực quái lạ, không hiểu họ có biết võ công không?
- Thí dụ họ là người nào chăng nữa, chúng ta cũng mặc họ, ngày mai họ sẽ ra đi, việc ta, ta cứ tiếp tục.
Hai người nhắm hướng Vương-sơn phóng mình vào đêm tối, thoáng một cái đã biến mất, đủ tỏ kinh công của họ thuộc loại cao siêu. Hồ Đề hú lên một tiếng gọi Ngũ-ưng, lập tức năm con chim Ưng bay lượn trên đầu nàng, rồi đậu xuống các cành cây cạnh nhà, Hồ Đề huýt sáo ra lệnh, lập tức cả năm con bay vút lên cao, hướng theo vợ chồng Vương Anh, Hồ Đề trở về phòng đã thấy Trưng Nhị, Sa-Giang thức giấc, nàng thuật cho hai người nghe về hành động của vợ chồng Vương Anh.
Trưng Nhị bàn:
- Chắc chắn vợ chồng Vương Anh có liên quan đến lăng Trường-sa Định-vương, vậy chúng ta cùng đi thám thính xem sao?
Ba người nhắm hướng Vương-sơn tiến tới, xa xa trong bóng trăng Hồ Đề thấy Ngũ-ưng bay lượn trên trời, nhờ thế nàng biết rõ vị trí của vợ chồng Vương Anh ở phía Tây lăng Trường-sa Định-vương. Hồ Đề nói:
- Vợ chồng Vương Anh ở phía Tây của lăng, vậy chúng ta đột nhập vào phía Nam cho khỏi đụng chạm nhau.
Ba người dùng khinh công lên núi Vương-sơn, xa xa đã thấy lăng mộ hiện ra dưới ánh trăng. Hồ Đề giả tiếng cú, hú lên mấy tiếng, Ngũ-ưng bay lại trước nàng đáp xuống, nàng huýt sáo với Ngũ-ưng. Ngũ-ưng bay lên cao liền, năm con bay năm nơi khác nhau.
Sa-Giang hỏi:
- Có phải sư tỷ sai Ngũ-ưng canh chừng bốn phía lăng và vợ chồng Vương Anh không?
Hồ Đề gật đầu nói:
- Trong lăng không có ai, nếu có Ngũ-ưng đã báo cáo cho chúng ta biết rồi, bây giờ ta tìm chỗ ẩn xem sao.
Ba người cùng ẩn vào một bụi hoa lớn gần mặt chính lăng, Hồ Đề luôn luôn nhìn trên trời quan sát Ngũ-ưng.
Hồ Đề giảng cho Sa-Giang
- Sư muội chú ý nghe: bốn Thần-ưng bay lượn bốn phía lăng, dù chỉ con chồn, con cáo xuất hiện, chúng cũng sẽ báo cho mình biết ngay. Còn con Thần-ưng kia nó cứ bay lượn trên đầu chỗ ẩn của vợ chồng Vương Anh, dù họ di chuyển một chút cũng không qua mắt Thần-ưng.
Bỗng Sa-Giang bịt miệng Hồ Đề:
- Coi chừng có nhiều tiếng ngựa ở phía Bắc tới.
Chỉ nháy mắt sau, quả nhiên Thần-ưng canh chừng phía Bắc lăng từ trên cao bổ nhào xuống, rồi bay vụt lên. Chúng kêu lên năm tiếng liền rồi cứ bay lượn phía Bắc lăng.
Hồ Đề nói nhỏ:
- Đúng như sư muội nói, họ có năm người tới, Thần-ưng đang bay trên đầu họ.
Chỉ lát sau có người đi lên, không thấy ngựa. Có lẽ họ đã dấu ngựa dưới chân núi, năm người đi quanh lăng một vòng, Trưng Nhị nhận ra đó là Khúc-giang ngũ-hùng, họ ra hiệu cho nhau rồi ẩn thân vào các bụi cây, cũng may họ không ẩn vào chỗ bọn Hồ Đề.
Sa-Giang nói nhỏ:
- Trong lăng có tới ba phe ẩn náu, không biết còn bao nhiêu phe phái nữa ở đây?
Trong lòng Trưng Nhị nảy ra nghi vấn:
- Vợ chồng một khách giang hồ giả làm người nhà quê trong vùng. Đêm đêm phục ở lăng mộ để mưu cầu điều gì? Khúc-giang ngũ-hùng từ Nam-hải lên đây, cũng ẩn nấp chờ đợi cái gì? Không biết hai phe này có liên hệ với nhau không? Họ mai phục vì tư lợi, hay vì trận đánh Trường-sa? Hay vì Hàn Tú-Anh như nàng với Sa-Giang, Hồ Đề?
Một lát sau có tiêng Thần-ưng ở phía Đông kêu lên, Hồ Đề nhìn theo nói:
- Có nhiều người sắp tới nữa có lẽ gần mười người.
Quả nhiên lát sau có chín người ngựa cùng lên đồi. Họ gồm ba nữ sáu nam, họ mang theo nhiều thứ trên lưng ngựa, sáu người nam gỡ những vật mang theo, đến bày trước chính lăng: Heo, dê, gà, hoa quả, vàng hương, rượu. Họ đốt đuốc lên sáng rực, rồi chia nhau đứng làm hai hàng, ba thiếu nữ thì hai mặc quần áo xanh, còn một mặc quần áo trắng. Trưng Nhị suýt kêu thành tiếng, vì thiếu nữ mặc áo trắng tuổi 19, 20, đẹp tuyệt thế, Trưng Nhị đã thấy vẻ đẹp của Chu Tường-Quy, Hoàng Thiều-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, ba người đẹp ngang nhau. Tường-Quy nhu mì, ủy mị, mềm mại như phong lan, Phương-Dung sắc sảo tươi như hoa hải-đường, còng Hoàng Thiều-Hoa thì vẻ đẹp trang nhã có sức hút người rất mạnh. Nay nàng thấy vẻ đẹp của thiếu nữ này, thoang thoảng như bông hoa dưới nước, thấp thoáng như người trong sương, vẻ đẹp như có như không, thực huyền ảo, nhất là trong đêm xuân, dưới ánh đuốc, ánh trăng. Thiếu nữ đến trước lăng, đốt hương lên rồi quì xuống, hai vai nàng rung động mãnh liệt, dường như đang khóc.
Trưng Nhị cảm thấy kỳ lạ:
- Thiếu nữ trẻ đẹp này là ai? Nếu là con cháu Trường-sa vương thì sao không đường hoàng đến ban ngày tế lăng, mà phải đến ban đêm? Bảo nàng là Hàn Tú-Anh thì không đúng, vì bà là mẹ Quang-Vũ, năm nay Quang-Vũ cũng gần 30 tuổi rồi, bà ít ra cũng phải 50 tuổi mới đúng. Còn thiếu nữ này tuổi khoảng 20 là cùng. Vậy thì Trường-sa Định-vương chết, nàng còn nhỏ lắm, chắc không phải Phi-tần của ông. Vậy nàng là ai?
Thiếu nữ mở cái túi, lấy ra một cây đàn cầm. Nàng so phím vuốt tay trên dây, tiếng đàn ai oán não nùng trong đêm tối, nàng cất tiếng ca, tiếng nàng cao vút như muốn bay vào không gian. Sa-Giang biết đó là bài Sở-từ của Khuất Nguyên tên Ly Tao.
Ly Tao, là một thiên Sở-từ của Khuất Nguyên, ông người thời Chiến-quốc, thuộc tôn thất nước Sở. Ông trợ giúp Sở Hoài-Vương về nội trị, sau bị gian thần dèm pha, không được dùng. Ông phẫn chí làm bài Ly Tao, tình cảm nồng nàn, giọng văn thanh nhã. Bởi vậy sau này khi phê bình văn học, người ta thường ví với Ly Tao: nào tao nhã, thanh tao, rừng tao và tao nhân mặc khách. Bài Sở-từ Ly Tao không được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc, cho đến nay chỉ còn bản phổ nhạc của Từ Thẩm, Vương Hoài và Lý Kế-Xuyên.
Trên đồi vắng, dưới ánh trăng, ánh đuốc chập chờn, tiếng đàn, tiếng ca, bi ai, khiến cho người cứng rắn như Hồ Đề cũng cảm thấy bải hoải chân tay.
Thiếu nữ ca hết bài Ly Tao, lại ca đến một bài trữ tình thê lương. Sa Giang nhận ra đó là bài Phượng Cầu Kỳ Hoàng của Tư-mã Tương-Như. Ba người bị ru hồn vào tiếng đàn, tiếng hát, thì cả bốn Thần-ưng đều reo lên trên không.
Thiếu nữ áo trắng dơ tay vẫy nhẹ nhẹ. Hai thiếu nữ áo xanh, cùng sáu người cầm đuốc quì xuống. Nàng lướt tay trên phím đàn. Hai thiếu nữ áo xanh cất tiếng ca một lượt:
Ao ao lộc ninh
Thực dã chi bình,
Ngã hữu gia tân.
Cổ cầm suy sinh,
Suy sinh cổ quảng
Thừa khương thi tương,
Nhân chi hiếu ngã,
Thị ngã chu hàng.
Hồ Đề ngơ ngác hỏi khẽ Sa-Giang:
- Bản nhạc này là bản gì, mà sao chị nghe quen quá?
Sa Giang ghé vào tai nàng nói:
- Đó là bài ca Lộc Minh trong Kinh thi để tiếc các bậc vua chúa thời xưa.
Hồ Đề nhớ ra hồi trước đây, mỗi khi tế vua An-Dương-Vương ở Tây-vu. Các nhạc công thường tấu bản này.
Kinh thi là một trong Ngũ-kinh: Thư, Thi, Dịch, Lễ và Xuân-Thu. Bốn bộ đầu do Khổng Tử san định, tuyển chép lại. Bộ kinh Xuân-thu thì chính ngài là tác giả. Ngũ kinh là sách căn bản giáo dục của Nho-gia. Kinh thi là bộ chép các bài ca dân dã cuối Tây-Chu 296. Cương thổ nhà Chu bấy giờ gồm các tỉnh Thiểm-tây, Sơn-tây, Hà-nam, Hà-bắc, Sơn-đông và Hồ-bắc ngày nay. Vua nhà Chu cắt đất phong cho 800 chư hầu. Hàng năm nhà vua gửi quan đến các địa phương, ghi chép bài ca dân gian về nghiên cứu. Cho rằng các bài ca đó, là phản ảnh đời sống dân chúng. Vua nhà Chu xét nội dung các bài Thi để quyết định thăng thưởng, trách phạt chư hầu. Đến đời Khổng Tử còn trên 3000 bài. Ngài tước bỏ hết, còn lại 305 bài. Ngài chia ra: Quốc phong là bài ca dân gian của từng nước một như Chu-Nam, Thiện-Nam, Tề-Phong, Trịnh-Phong v.v... Những bản nhạc như: Quan thư, Đào yêu, Yến yêu, Hùng Trĩ, Tĩnh Nhữ đã trình bày ở các hồi trước, đều là những bài ca trong Quốc Phong. Bài Lộc minh trên đây thuộc phần Tiểu nhã. Nhà nghiên cứu Chu-Hy đời Tống viết trong bài tựa Kinh thi rằng: Tiểu nhã là những bài nhạc tấu trong bữa tiệc. Còn đại nhã để tế các vị vua.
Lúc mà Trưng Nhị với Hồ Đề nấp ở lăng Trường-sa vương là năm 39 sau Tây lịch. Các nhạc gia Trung-nguyên chưa sáng tác ra được nhiều bản mới, quanh quẩn lại chỉ hát những khúc trong Kinh thi. Thảng hoặc có những đại nhạc gia tài ba như Tống Ngọc, Tư-mã Tương-Như, Chiêu Quân sáng tác mấy khúc còn lưu truyền. Tại Lĩnh Nam thì Trương Chi đỉnh lập ra hẳn một lối sáng tác. Khảo trong hơn 300 cuốn phổ về các danh nhân từ thời Trưng Vương về trước, thấy nói đến các bản sau đây của Trương Chi: Động Đình Ca kể lại mối tình ông với Mỵ Nương. Bản Phù Đổng Thiên Vương ca tụng ngài đánh giặc Ân. Bản Lô hoa tình khúc nghĩa là khúc hát trữ tình dưới bụi lau, ca tụng mối tình của Chử Đồng Tử và Tiên Dung. Còn ba bài Xuân giang dạ vũ nghĩa là mưa trên sông mùa Xuân, Trung thu tý dạ ca bài hát giữa đêm thu, Đoạn trường mang mang nghĩa là mối hận đứt ruột ra. Xét về lời lẽ, thì tác giả không thể là Trương Chi được vì lời ca óng chuốt, nặng ảnh hưởng của thơ Đường. Có hai vấn đề đặt ra: Hoặc ba bản đó không phải của Trương Chi. Hoặc nguyên của Trương Chi rồi người sau sửa đổi lời, nên có lẫn ảnh hưởng của thơ Đường. Tỷ dụ câu:
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu
Phương thảo thê thê Anh vũ châu.
Thì câu trên lấy trong bài Khuê Oán của Lý Bạch nghĩa là: Ngày xuân ngưng trang điểm, lên lầu buồn nhớ. Câu cuối lấy trong bài Hoàng hạc lâu của Thôi Hiệu nghĩa là: Bãi xa Anh Vũ xa đầy cỏ non.
Hồ Đề ít đọc sách, nghe thiếu nữ áo trắng đàn, hai thiếu nữ áo xanh hát bài Lộc Minh trong Tiểu-nhã, nàng không biết là phải. Đoạn trên nghĩa rằng:
Con nai kêu oang oác,
Nó đừng gậm bèo hoang,
Khách đến đầy nhà ta.
Tấu đàn, tiêu mời khách,
Âm thanh tiêu, đàn hòa hợp,
Lễ vật dâng lên thành kính
Bằng hữu đều thương mến,
Dạy ta đạo lý, đáng kính.
Tiếng đàn, tiếng ca bi hùng vang lên trong đêm vắng.
Hồ Đề hỏi nhỏ:
- Có rất nhiều người, theo bốn hướng lên đây.
Một lát sau, quả nhiên bốn phía đều có người lên trên núi. Họ tiến tới bao vây thiếu nữ áo trắng và đám người tế lăng.
Hai thiếu nữ áo xanh một người đeo trường kiếm, một người đeo cây nhuyễn tiên. Hai người liếc mắt nhìn bốn phía, thấy tình hình bất lợi. Thiếu nữ đeo kiếm nói:
- Sư tỷ! Phải cẩn thận. Có nhiều người tiến vào lăng.
Thiếu nữ áo trắng vừa đàn, vừa ca, những giọt lệ chảy xuống hai má, dưới ánh sáng của sáu ngọn đuốc, trông càng tăng thêm vẻ đẹp huyền ảo. Đám người mới tới vũ khí sáng choang, khí thế hùng mạnh. Trưng Nhị nhận ra người cầm đầu là Việt-kị hiệu-úy Trương Linh. Trương Linh vẫy tay cho thủ hạ vây kín bọn người tế lăng. Bọn người tế lăng như coi thường đám người của Trương Linh. Sáu người đàn ông vẫn cầm đuốc đứng như pho tượng. Hai thiếu nữ chống kiếm đứng cạnh thiếu nữ áo trắng, thản nhiên như không có gì xảy ra.
Thiếu nữ áo trắng vừa đàn vừa ca. Giọng nàng bi thiết, tiếng đàn não nùng, khiến người nghe như nát tim, vỡ phổi.
Tiếng ca vừa dứt, thì thiếu nữ áo xanh đeo kiếm hỏi Trương Linh:
- Các ngươi là ai? Đêm khuya lên lăng mộ Tiên-đế làm gì?
Trưng Nhị lấy cùi chỏ sẽ thúc Hồ Đề, Sa-Giang ý nói:
- Thiếu nữ này dùng chữ Tiên-đế chắc chắn là con cháu Trường-sa Định-vương đây.
Trương Linh đáp:
- Tôi là Việt kị hiệu-úy, họ Trương tên Linh. Vâng chỉ dụ Thái-hậu tới đây bắt gian nhân đột nhập lăng Tiên-đế.
Thiếu nữ áo trắng vẫn không lên tiếng, nàng đưa mắt liếc nhìn Trương Linh hơi cau mày một chút.
Thiếu nữ áo xanh đeo kiếm chậm chạp nói:
- Người là Việt-kị hiệu-úy, tức Thống-lĩnh thị-vệ, cấm-quân. Ngươi không ở Lạc-dương, đến đây làm gì? Việc bắt gian nhân đột nhập lăng Tiên-đế là nhiệm vụ của Thái-thú Trường-sa, đâu phải của người?
Trương Linh đáp:
- Tôi vâng mật chỉ của Thái-hậu tới đây.
Thiếu nữ áo xanh đeo roi chỉ vào thiếu nữ áo trắng:
- Vậy ngươi hãy quì xuống ra mắt sư tỷ ta đi.
Trương Linh hỏi:
- Các vị là ai?
Thiếu nữ áo trắng cau mặt:
- Ta là ai, không đến cái thứ như ngươi được quyền hỏi bằng giọng hỗn láo như vậy.
Trương Linh đáp:
- Ta được mật chỉ của Thái-hậu, tới đây bắt bất cứ ai vào lăng này. Dù hoàng-thân quốc thích.
Thiếu nữ áo xanh đeo kiếm nhìn Trương Linh hỏi:
- Ta hỏi Trương tướng-quân điều này: Đương thời Tiên-đế có đức, hậu nhân mới kính trọng, kính trọng mới tế lăng. Như xưa kia Văn-Vương ân đức trải khắp thiên hạ, trăm họ đều nhớ ngày kị mà tế mộ, sao gọi là gian nhân?
Trương Linh ngẩn người người ra một lúc rồi nói:
- Thái-hậu chỉ dụ, có nhiều gian nhân, muốn lợi dụng đêm tối, định phạm lăng Tiên-đế, ăn cắp bảo vật, sai ta phục quanh núi này bắt. Vậy các người hãy theo ta về Lạc-dương để Thái-hậu phát lạc.
Thiếu nữ áo xanh đứng cạnh lên tiếng:
- Trương hiệu-úy! Ngươi là thần tử nhà Đại-Hán, người núp ở đây đây từ nãy đến giờ, chắc ngươi đoán ra chúng ta là ai rồi? Đã biết chúng ta là ai mà không dập dầu làm lễ, một tội đáng chém đầu. Đã không dập đầu làm lễ, còn nói lời vô lễ, hai tội đáng chém đầu. Ngươi muốn làm phản phải không? Quân này to gan lớn mật thật.
Trương Linh nghe thiếu nữ áo xanh nói như vậy, y ngẩn người ra tự hỏi:
- Thái-hậu sai ta đến Trường-sa bắt Hàn Tú-Anh. Nhưng ta xem ra trong ba thiếu nữ, đều không phải Hàn Tú-Anh, vì Hàn Tú-Anh không thể trẻ như thế này được. Không chừng con cháu Tiên-đế cũng nên. Như vậy thì hỏng bét. Vạn nhất là Công-chúa, Quận-chúa thì nguy.
Y gặng hỏi:
- Tôi vâng chỉ dụ Thái-hậu đến đây bảo vệ lăng mộ Tiên-đế, cho nên thấy người lạ đột nhập vào lăng, phải tra hỏi. Vàng thau lẫn lộn, khó phân biệt chân giả. Vậy chẳng hay các vị là ai? Các vị là con cháu di thần của Tiên-đế hay thuộc chi nào của nhà Đại-Hán mà đến đây tế mộ?
Thiếu nữ áo trắng thủy chung không lên tiếng, nàng quì gối, ôm lấy chiếc lư hương bằng đồng trong lăng mà khóc. Tiếng khóc của nàng trong, nhẹ nhàng, nức nớ, nghẹn ngào, làm thiếu nữ áo xanh với Trương Linh phải tạm ngừng tranh luận. Thiếu nữ áo trắng lại lấy cây đàn ra dạo lên những tiếng thanh thoát. Trưng Nhị nhận ra bài Đại Phong. Hồi nàng đi Trường-an, đã thấy nhạc quân tấu lên trước khi Quang-Vũ thiết triều.
Nguyên hồi Cao Tổ nhà Hán, Lưu Bang, sau khi thắng Sở Bá Vương Hạng Võ, trở về cố hương. Trong lúc hứng chí vì đại nghiệp đã thành, làm bài ca Đại Phong. Từ đó, nhạc quan nhà Hán phổ nhạc, khi thiết triều tấu lên, tỏ uy vũ:
Đại phong khởi hề! Vân phi dương.
Uy gia hải nội hề! Qui cố hương.
An dắc mãnh sĩ hề! Thư tứ phương.
Giólớndấylên,mâybaylêntrời.
Giọng thiếu nữ áo trắng cao vút, trong mà nhẹ, hòa lẫn với tiếng dàn vang vang trong đêm vắng.
Dứt bản Đại Phong, thiếu nữ áo trắng, thắp lên tuần hương nữa, lạy 8 lạy rồi sửa lại quần áo.
Thiếu nữ áo xanh đeo nhuyễn tiên bấy giờ mới lên tiếng:
- Trương tướng quân, luật lệ của bản triều do Tiêu thừa-tướng soạn ra: Bắt gian phi phải có chứng cớ. Người vâng chỉ Thái-hậu giữ lăng, bắt gian thì gặp gian tế người mới có quyền bắt, đây người gây sự với thần dân vì nhớ ân đức tiên-vương đến tế lăng, đó là tội đáng tru di tam tộc. Còn người thấy chúng ta, biết chúng ta không phải gian tế, mà còn gây sự là hai tội. Được, ta sẽ tâu lên Thiên-tử, người có đến mười cái đầu cũng cụt. Còn chúng ta là ai, ngươi không xứng đáng hỏi đến.
Trương Linh nghe thiếu nữ áo xanh nói, y mới cảm thấy lạnh gáy: Thái-hậu sai y đi bắt Hàn Tú-Anh. Trong lúc chủ quan, y đã phạm vào một tội trọng đối với luật nhà Hán. Nhìn cung cách, y cũng biết thiếu nữ áo trắng giòng dõi của Trường-sa Định-vương, nếu không phải Công-chúa, cũng Quận-chúa gì đây.
Bấy giờ thiếu nữ áo trắng mới lên tiếng:
- Lan-Anh sư muội, ngươi nói cho tướng quân biết ta là ai đi.
Thiếu nữ đeo kiếm nói:
- Trương Linh, đây là Công-chúa Vĩnh-Hòa, trưởng nữ của Cảnh-Thủy Hoàng-đế. Còn ta là Quận-chúa của Tấn-công. Ta họ Lý, khuê danh Lan-Anh..
Nàng lại chỉ thiếu nữ đeo nhuyễn tiên:
- Đây là Quận-chúa Chu Thúy-Phượng, trưởng nữ của Ngụy-công Chu Huy.
Trương Linh nghe Lý Lan-Anh nói, hồn phách bay lên mây.
Nguyên con thứ của Hán Cảnh-Đế tên Phát được phong Trường-sa Định-vương. Truyền đến đời thứ tư tức cha đẻ của Quang-Vũ. Khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán, Trường-sa Định-vương đời thứ năm bị hại. Người anh của ông tên Huyền khởi binh ở Quan-trung, xưng hiệu Cảnh-Thủy Hoàng-đế (23 sau Tây Lịch) phong cho hai cháu Lưu Diễn, Lưu Tú 0 làm tước Vương. Sau khi giết Vương Mãng, ông phong cho ba sư đệ Phan Sùng làm Sở-vương, Chu Huy làm Ngụy-công, Lý Điệt làm Tần-công. Sau Phan Sùng cầm quân trong tay, làm phản, giết Lưu Huyền. Hai sư đệ Lý Huy, Chu Điệt cũng bị giết. Vì Phan Sùng là người râu, tóc đỏ hoe nên người đời gọi là Xích-mi.
Lưu Diễn nhân đó cầm quân đánh Xích Mi, lấy cớ cháu kế nghiệp bác. Diễn chết, con còn nhỏ. Nghiêm Sơn cùng các tướng tôn em là Lưu Tú lên thay. Cảnh-Thủy Hoàng-đế không có con trai, chỉ có một con gái. Để lấy lòng sĩ dân, Quang-Vũ phong cho con gái Lưu Huyền làm Vĩnh-Hòa Công-chúa, con gái Lý Điệt và Chu Huy làm Quận-chúa, ban cho một cây Thượng-phương kiếm, được quyền trên trảm hôn quân, dưới trảm gian thần, mà không phải tấu.
Trương Linh thấy mình đã phạm tội nặng. Nếu có quì xuống kêu van, chắc cũng không toàn mạng. Thôi thì một liều ba bảy cũng liều. Y phải giết chết ba người rồi tìm cách bắt Hàn Tú-Anh. Nếu việc bại lộ, đã có Thái-hậu che chở.
Nghĩ vậy, y quát lớn:
- Bọn gian tế thực lớn mật, giám mạo xưng Công-chúa, Quận-chúa. Bây đâu, bắt lấy chúng cho ta.
Lý Lan-Anh rút kiếm ra quát lớn:
- Phản rồi! Phản rồi!
Bọn võ sĩ theo Trương Linh cũng rút binh khí nhảy vào bắt sáu thanh niên cầm đuốc. Sáu thanh niên rút binh khí chống trả.