Hồi 22b
Tiếng ngâm theo điệu sa mạc của nàng cao vút lên từng mây, giọng đầy buồn, nhớ, thương, miệng ca, tay nàng vuốt nhẹ trên phím tỳ bà, Phật-Nguyệt nói:
- Đào hiền-đệ quả là con người tài hoa, chỉ mấy ngày gần nhau mà y đã dạy Sa Giang được biết bao nhiêu câu hát tiếng Việt.
Lê Chân chỉ vào một dãy núi xa xa nói:
- Kìa là núi Tam-sơn, trong đó có một động lớn, tương truyền ngày xưa Quốc-Tổ với Quốc-Mẫu thành hôn rồi vào ở với nhau cả năm trời, chúng ta thử đến xem sao.
Trưng Nhị ra lệnh thuyền đi vào phía Tam-sơn, hồ bấy giờ hẹp lạ, tuy nói là Tam-sơn nhưng thực ra chỉ là ba ngọn đồi nhỏ, thủy thủ cho thuyền ghé vào cạnh sườn núi.
Phật Nguyệt kinh công cao nhất, nàng cầm sợi giây, nhún chân vọt người lên cao, lơ lửng trên không, đá gió một cái người bay vọt lên bờ, thân pháp đẹp không thể tưởng tượng được, nàng cần giây kéo mạnh, con thuyền ghé sát bờ, nàng cột đầu giây vào một gốc cây, thủy thủ đem ván bắc cầu, mọi người cùng lên. Trăng đã lên đến đỉnh đầu, ánh sáng tỏa xuống núi Tam-sơn đầy hoa mùa xuân. Mọi người theo sườn núi, leo lên đỉnh, họ là những người võ công cực cao, chỉ một lát đã tới, quả thực trên đỉng có cái hang đá, hang khá lớn, Lại Thế-Cường tiến vào hang đầu tiên, mọi người theo ông ngắm nhìn.
Phật-Nguyệt nói:
- Đây là động Tam-sơ, ngày xưa Quốc Tổ Kinh-Dương Vương, gặp Quốc Mẫu Long-Nữ ở chỗ này, không ngờ cuộc gặp gỡ đó nảy sinh ra chúng mình biết bao nhiêu mà kể.
Lê Chân tiếp:
- Cũng như mỗi chúng mình bây giờ là một, sau này phục quốc rồi có chồng, có con, ngàn năm sau giòng giống mỗi người sẽ tới hàng triệu, chúng du ngoạn hồ Động-đình, tới Tam-sơn ngoạn cảnh mà nói rằng: Thời Lĩnh-Nam tổ-mẫu Lê Chân trên đường phục quốc đã dừng bước ở chỗ này.
Lê Chân rút dao ngắn vận công, khắc lên tấm đá bằng phẳng trên vách:
Anh hùng Lĩnh-Nam trên đường phục quốc, dừng lại đây ngày 14 tháng giêng năm Đinh Dậu, giờ Dậu.
Laị Thế Cường, Trưng Nhị, Trần Năng, Hồ Đề, Lê Chân, Phật Nguyệt, Vĩ Đại Lâm, Vĩ Đại Sơn, Thục Nữ Trung Sa Giang, Tây Vu Tam Hổ Tướng: Hoàng Hổ, Hắc Hổ, Bạch Hổ, Tây Vu Tam Bảo Tướng, Hoàng Báo, Hắc Báo, Bạch Báo.
Vương Sa-Giang chỉ ra giữa khu đất bằng phẳng:
- Kìa, giữa sân có pho tượng bằng đá, không biết ai tạc và tạc tượng ai thế kìa?
Trưng Nhị cùng mọi người chạy ra nhìn, giữa sân một bệ đá bằng phẳng, trên bệ là pho tượng, lớn như một người tầm thước, tượng bằng đồng hay đá màu đen, trong tư thức ngồi dưỡng thần luyện công, ánh trăng chiếu vào pho tượng, màu đen phản chiếu óng ánh.
Lại Thế-Cường ngắm nghía nói:
- Dường như người ta tạc tượng một người ngồi luyện công thì phải, song tư thức rất đặc biệt, hai bàn tay chắp lại để trước ngực.
Hồ Đề là người tinh nghịch bậc nhất, nàng nhún chân nhảy vọt lên cao, đáp xuống bệ đá, rồi tiến lại gõ tay lên đầu nhẵn bóng của pho tượng, nàng nói vọng xuống:
- Kỳ lạ không? Đêm xuân lạnh thế này mà sao đầu pho tượng ấm quá và mềm như nhung vậy.
Thuận tay nàng gõ xuống đầu pho tượng ba cái, bỗng nàng rụt tay lại kêu lên một tiếng đau đớn:
- Ôi! Đau quá!
Nguyên nàng gõ cái thứ nhất êm như gõ vào đầu người, đến cái thứ nhì thì hơi cứng, đến cái thứ ba thì tay tê chồn. Thấy kỳ lạ nàng vận sức vào tay ấn xuống đầu pho tượng một cái, một luồng kình lực nhu hòa bật tay nàng lên, Hồ Đề cả kinh vận sức đứng vững, nhưng không tự chủ được, sức từ đầu pho tượng hất nàng bay vọt lên cao. Ở trên cao nàng phóng chưởng đánh xuống đỉnh đầu pho tượng, chưởng lực của nàng khá hùng hậu, trúng vào đầu pho tượng đánh binh một cái, người nàng lại bay lên cao hơn nữa kèm theo tiếng kêu:
- Chết!
Trưng Nhị gần Hồ Đề đã lâu, biết tính nàng can đảm, gan dạ, dù nguy hiểm đến đâu cũng không sợ hãi, dù đau đớn đến đâu cũng không kêu. Bây giờ chỉ sờ vào đầu pho tượng mà kêu đau, người vọt lên cao, thì phải có cái gì quái đản lắm, rồi từ trên cao nàng phóng chưởng xuống, với chưởng lực của nàng dù đánh vào vật gì thì cũng chỉ bật lên một chút. Nay tại sao nàng bật lên cao như bị ai nắm lấy tung lên trời vậy? Trên đời này chỉ có Khất đại-phu, Đào Kỳ mới cô công lực liệng một người lên cao như vậy.
Hồ Đề rơi xuống phía ngoài phiến đá, ngã xuống đất cái bịch, Phật Nguyệt vọt tới bồng nàng xuống hỏi:
- Sao? Sao? Cái gì vậy.
Vì với bản lĩnh của Hồ Đề, khi rơi xuống đất đâu đến nỗi không đứng được, mà ngã lăn ra?
Hồ Đề nhăn nhó, hai tay xoa vào nhau nói:
- Không phải tượng đá đâu, mà là quỉ, con quỉ này ghê gớm lắm. Tôi mới sờ vào đầu bị nó hất ngược lên cao, từ trên cao tôi đánh xuống một chưởng, bị nó dùng kình lực hất lần thứ hai, cánh tay tôi tê dại.
Trong đầu óc Phật Nguyệt hiện ra biết bao nhiêu vấn đề:
- Nhìn tư thế Hồ Đề bị hất lên cao, thì rõ ràng bị người có nội công thượng thừa đánh, nhưng trên đời này làm gì có người đạt tới mức chỉ sờ vào mà bị hất lên như vậy? Dù Khất đại-phu, Đào hiền-đệ, muốn hất một người lên cao, cũng phải đứng dậy, vận hết sức mình, chứ đâu chỉ ngồi bất động mà phát kình lực huyền diệu đến thế? Người này là ai, đêm xuân lên phiến đá giữa chốn hoang sơ ngồi luyện công?
Lại Thế-Cường nhiều kinh nghiệm giang hồ, ông vẫy tay cho mọi người đứng im, rồi tiến lại quan sát, ông lắng tai nghe xem nếu có tiếng hô hấp thì là người, còn không thì là tượng. Nhưng tuyệt nhiên ông không nghe tiếng hô hấp, cũng không thấy ngực nhô lên thụp xuống, vậy là tượng rồi, là tượng thì tại sao có thể dùng nội công thượng thừa hất Hồ Đề lên cao như vậy?
Ông nhảy lên phiến đá, dùng tay phất qua phất lại trên đầu pho tượng, thấy như không có phản ứng gì. Ông ông đưa tay sờ vào đầu pho tượng thì cảm thấy một luồng điện cực kỳ mãnh liệt, nhu hòa truyền vào thân thể ông. Ông trấn tỉnh vận khí kìm lại, nhưng vẫn bị luồng điện đó hất vọt lên không. Ở trên không ông đá gió một cái người bắn ngược trở lại đáp xuống an toàn.
Trưng Nhị hỏi:
- Sư-bá, cái gì vậy?
Lại Thế-Cường lắc đầu:
- Ta cũng không biết rõ ràng người hay tượng nữa?
Ông bảo Trần Năng:
- Cháu xuất thân từ phái Tản Viên, được Khất đại-phu truyền nội công thượng thừa, vậy cháu thử sờ vào đầu pho tượng xem sao?
Trần Năng nhảy lên bệ, vận khí vào đơn-điền truyền xuống chân thật chắc, rồi đưa tay sờ vào đầu pho tượng. Trưóc mắt nàng rõ ràng là pho tượng đồng đen, nàng dùng sức ấn mạnh, một luồng điện nhu hòa ấm áp chính đại quang minh truyền vào người, hóa giải kình lực của nàng mất tăm mất tích, nàng vận khí mạnh hơn nữa, thì cũng thấy bị mất tích. Thấy lạ, nàng dùng toàn lực vận khí ấn tay vào đầu pho tượng thì thấy từ pho tượng có sức phản kích cực kỳ hùng hậu đẩy vọt nàng bay vọt lên cao.
Trần Năng nhảy lên bệ, vận khí vào đơn-điền truyền xuống chân thật chắc, rồi đưa tay sờ vào đầu pho tượng. Trưóc mắt nàng rõ ràng là pho tượng đồng đen, nàng dùng sức ấn mạnh, một luồng điện nhu hòa ấm áp chính đại quang minh truyền vào người, hóa giải kình lực của nàng mất tăm mất tích, nàng vận khí mạnh hơn nữa, thì cũng thấy bị mất tích. Thấy lạ, nàng dùng toàn lực vận khí ấn tay vào đầu pho tượng thì thấy từ pho tượng có sức phản kích cực kỳ hùng hậu đẩy vọt nàng bay vọt lên cao.
Trưng Nhị thấy Hồ Đề, Lại Thế-Cường đều bị hất ngược lên, nhưng không cao bằng nửa Trần Năng, Trần Năng bị hất cao lên ba trượng là ít, nàng tà tà rơi xuống đất, nàng nói:
- Người chứ không phải tượng, vì có hơi nóng, người này nội công cao hơn sư phụ và Đào sư-thúc nhiều, có lẽ y không có ác ý với chúng ta nên kình lực phát ra nhu hòa, nội công cương nhu hợp nhất, chính đại quang minh chứ không phải tà môn.
Phật-Nguyệt tính ôn tồn, bước đến trước pho tượng chắp tay:
- Chúng tôi tất cả đều thuộc võ lâm Lĩnh Nam, nhân đi hành hương Động-đình tìm di tích Quốc Tổ, lầm lộn tôn-giá với pho tượng có đôi chút mạo phạm, mong tôn-giá đại xá cho.
Pho tượng cũng không đụng đậy, dưới ánh trăng da đen bóng của pho tượng phản chiếu óng ánh.
Trưng Nhị nghi hoặc hỏi Trần Năng:
- Sư thúc! Sư thúc có thấy hơi nóng từ pho tượng thật không?
- Thực! Tôi sờ vào thấy ấm áp và dễ chịu lắm, da đầu mềm mại như nhung vậy.
Lê Chân là người nóng nảy, nàng lấy đá lửa đánh lên, rồi tìm cây khô bó thành đuốc, soi sát vào pho tượng, bất giác mọi người cùng ồ lên một lượt, vì đúng là một người, nhưng mũi hơi cao, bụng phệ, lưng choàng một tấm vải màu vàng, da đen bóng như tượng đồng.
Lê Chân nói:
- Tại sao lại có người đen đến như thế này?
Trưng Nhị đọc sách nhiều, nàng đáp:
- Tôi nghe phía Tây-nam Trung-nguyên có một xứ tên là Tây-trúc, người ở đây hiền hậu, đời sống văn minh như Trung-nguyên, nước da của họ đen bóng như tượng đồng thoa mỡ, người này chắc thuộc xứ Tây-trúc đây? Thôi chúng ta đi, không nên quấy phá cuộc luyện công của người.
Ngao Sơn Vi Đại-Lâm bàn:
- Người này nước da đen bóng, người không ra người, quỉ không ra quỉ, vậy lão để cho con Thần-ngao lên đánh hơi, hễ là người chân chính hay ma quỉ thì biết ngay.
Hồ Đề chợt nhớ ra, đàn Thần-ngao của Tây-vu rất giỏi trong việc phân loại người, gian tế hoặc tà môn, chúng sẽ sủa ầm lên, còn người chính phái thì nó vẫy đuôi mừng. Đi đâu mỗi người trong Ngao-sơn tứ lão đều mang theo một Thần-ngao sai khiến, Vị Đại-Lâm chỉ vào pho tượng huýt sáo, con Thần-ngao nhảy vọt lên bệ, mọi người im lặng quam sát, nó đi quanh pho tượng ngửi một lúc, rồi nằm phục xuống bên cạnh, đuôi vẫy liên tiếp. Cử chỉ này nó muốn tỏ ra quì lạy, nó chỉ làm việc đó với Hồ Đề và Ngao-sơn tứ lão mà thôi, bây giờ nó cũng làm với pho tượng.
Vi Đại-Lâm đến trước pho tượng quì xuống lạy tám lạy, rồi ông khấn một loạt tiếng Mường.
Mọi người cùng nhìn Hồ Đề, nàng giải thích:
- Thông thường ở Tây-vu thần linh giáng nhập vào người nào, thì Thần-ngao cũng cúi đầu tuân phục, hành lễ như vậy. Vi Đại-Lâm thấy Thần-ngao quì gối hành lễ, thì biết rằng người này là Thần-nhân.
Lại Thế-Cường là người cao niên nhất, ông chắp tay hướng người Tây-trúc vái chào:
- Chúng tôi người Lĩnh Nam qua dây vô tình gặp tôn-giá, quấy nhiễu tôn-giá, thật đắc tội, mong tôn-giá lượng thứ cho.
Cả bọn lại theo sườn núi đi trở xuống, họ không ngớt bàn truyện Tây-trúc, Trần Năng nói:
- Người này nội công cao hơn Sư-phụ với Đào sư-thúc nhiều, không hiểu họ thuộc võ lâm Trung-nguyên hay võ lâm Tây-trúc, chúng ta nói năng bàn tán mà tuyệt nhiên người đó không động đậy. Trấn nhiếp tâm thần như vậy, quả thật hiếm có trên đời.
Cả bọn theo tấm ván cầu xuống thuyền, Phật-Nguyệt đi đầu tiên, bỗng nàng kêu lên một tiếng:
- Ái chà!
Rồi nhảy lùi trở lại, mọi người nhìn theo tay nàng chỉ, thấy pho tượng Tây-trúc đang ngồi giữa sàn chiến thuyền. Trưng Nhị kinh ngạc đến ngẩn người ra, vì lúc cả bọn xuống núi thì tượng đồng vẫn còn ngồi đó, thế mà thoáng một cái đã xuống thuyền từ hồi nào? Trên thuyền đầy thủy thủ mà tượng đồng xuống không ai phát giác ra.
Trưng Nhị biết người này võ công kinh công tuyệt trần, nhưng không có ác ý, nàng chắp tay nói:
- Tôn giá quá bộ tới đây chơi, chúng tôi chậm chân về trễ không tiếp đãi chu đáo, mong tôn giá thứ lỗi.
Người Tây-trúc đứng dậy, chắp tay xá mọi người, ông nói chậm chạp:
- Các vị thí chủ với bần tăng vốn có tiền duyên, cộng nghiệp thì phải gặp nhau, đã là tiền duyên đâu cần phải đón, lễ nghi?
Lời nói ôn nhu, ngụ ý cao xa, huyền bí, khiến Trưng Nhị thêm kính trọng, nàng mời ông vào khoang thuyền, truyền pha trà đãi khách, Trưng Nhị chắp tay:
- Chẳng hay tôn giá quí tánh cao danh là gì?
Người Tây Trúc chắp tay nói:
- Bần tăng đi tu thì cái tên cái họ đều bỏ hết, khi mặc áo Như Lai vào nhà Như Lai chỉ còn pháp-danh mà thôi, bần tăng pháp danh Tăng Giả Nan Đà, bần tăng mới từ Tây-trúc qua Trung-thổ hoằng dương đạo pháp của Đức Thế Tôn, bần tăng mới học viết chữ Hán, nói năng còn ngượng ngập.
Tất cả đều ngạc nhiên, vì thời bấy giờ là năm thứ ba mươi chín sau Tây lịch, đạo Phật chưa truyền qua Trung-thổ cũng như Lĩnh Nam. Người nổi tiếng kiến văn quảng bác như Trưng Nhị mà cũng chưa nghe qua.
Trưng Nhị hỏi:
- Tăng Giả Nan Đà tiên-sinh, tiểu nữ chưa từng nghe trên thế gian này có một tôn-giáo của Đức Thế Tôn, mong tiên sinh thuyết giảng cho. Đạo của Đức Thế Tôn gọi là gì?
- Tiếng bình dân gọi là đạo Phật.
Phật-Nguyệt liếc nhìn Tăng Giả Nan Đà, tự nhiên trong tâm nàng mở rộng ra một cách kỳ lạ, nàng chắp tay hướng về ông lạy ba lạy:
- Sư phụ! Sư phụ, nói giữa chúng con có tiền duyên, có cộng nghiêp. Vậy thế nào là tiền duyên, thế nào là cộng nghiệp?
Tăng Giả Nan Đà nói:
- Thí chủ ngồi xuống!
Phật-Nguyệt ngồi xuống ván thuyền, xếp chân bàn tròn như Tăng Giả Nan Đà, hai tay chắp lại trước ngực.
- Được rồi, thí chủ nhắm mắt lại.
Phật Nguyệt nhắm mắt lại.
- Bây giờ thí chủ buông lỏng cơ thể, cố quên đi mọi vật xung quanh, từ hình dáng đến mầu sắc sự vật, rồi bỏ ra ngoài âm thanh của chúng ta.
Ông nói đến đâu Phật-Nguyệt làm theo đến đó, tự nhiên trước mắt hiện lên một vườn đầy hoa thơm cỏ lạ, có chim ca hót líu lo, trong đó có đủ mọi người quen biết, từ sư phụ Nguyễn Phan cho đến Khất đại-phu, Trưng Trắc, Trưng Nhị, Công-tôn Thuật v.v..., không thiếu một ai, nàng nhìn về phía xa xa một người khoác áo vải trên lưng giống như Tăng Giả Nan Đà, ông ngồi trên bệ đá tham thiền, tư thái ung dung nhàn hạ, nàng đến trước mặt ông quì xuống lạy:
- Sư phụ! Sư phụ! Thương xót đệ tử, giảng cho con ý nghĩa cao sâu của Đức Thế Tôn.
Tăng Giả Nan Đà vẫy tay nói:
- A Di Đà Phật. Thiện tai! Thiện tai!, người đã xin ta như vậy là đã có duyên với nhau, kiếp sau dù thế nào chăng nữa cũng lại tái ngộ.
Bất thình lình Tăng Giả Nan Đà quát một tiếng, Phật-Nguyệt tỉnh giấc, mở mắt ra, thở phào một cái, nàng đứng dậy nói:
- Đệ tử hiểu rồi, Sư phụ! Có phải lúc ở trên núi Tam-sơn, sư phụ đã dùng phép này để trấn nhiếp tâm hồn, khiến cho bao nhiêu người đánh vào không làm cho sư phụ chuyển động, có phải thế không? Phép này gọi là phép gì mà huyền diệu như vậy?
Tăng Giả Nan Đà đáp:
- Đó là phép Thiền của nhà Phật, thiền là pháp môn tối cao để đi vào Vô Thượng Bồ Đề, tức thoát khỏi cảnh luân hồi. Pháp môn này lấy yếu chỉ từ kinh Kim Cương, Lăng Gìa, nếu có thiện duyên bần tăng sẽ giảng cho thí chủ nghe.
Trần Năng hỏi:
- Sư phụ! Lúc ở trên núi, tiểu nữ chỉ vận khí, đụng vào đầu sư phụ, mà bị kình lực hất đến bay vọt lên cao. Dường như sư phụ không biết dùng cách hất lên, mà chỉ do chân khí tự động phản ứng mà thôi.
Tăng Giả Nan Đà đáp:
- Phu nhân ngộ tính thật cao, bần tăng có ba phép Thiền, một Thiền Tuệ đi đến giác ngộ, vào được Vô Thượng Bồ Đề Đắc quả, hai Thiền Lực làm cho sức khỏe con người tăng lên gấp bội, giống như cô nương luyện nội lực vậy. Ba Thiền Y, người mới tập sẽ chữa được bệnh mình, người luyện tới mức cao có thể dùng chân khí của mình trị bệnh cho người. Bần tăng biết luyện cho thân thể khỏe mạnh, chứ không biết cách xử dụng hất người lên cao.
Trưng Nhị thông minh tuyệt đỉnh, nàng nghĩ ra một điều:
- Chúng ta luyện nội lực, nội công cao có thể dùng khí lực tấn công người, vì chúng ta ở trong thế giới chém giết, tàn hại nhau. Còn đại-sư không bao giờ nghĩ tới, tưởng tới, dùng chân khí mà đánh người, vì đại-sư ở trong thế giới từ bi bác ái, chỉ luyện công tự giải thoát, nếu chúng ta học được pháp môn Thiền của đại-sư rồi áp dụng vào nội công, chiêu thức sẽ trở thành anh hùng vô địch trong thiên hạ. Tiếc rằng Khất đại-phu và Đào tam-lang không có ở đây, bằng không họ có thể hợp Thiền với đại sư, với nội công Văn-Lang làm một. Nàng nói:
- Đại-sư đệ tử dám thỉnh nguyện đại sư thuyết giảng cho bọn ngu tối chúng tôi những lẽ huyền vi của đạo Phật.
Tăng Giả Nan Đà chắp tay đáp lễ:
- A Di Đà Phật, phúc đức quá, các vị với bần tăng có cộng nghiệp với nhau từ tiền kiếp, hôm nay bần tăng xin thuyết về nguồn gốc đạo Phật. Trước hết đạo Phật không có chỗ khởi đầu, cũng không có chỗ cuối cùng, để hiểu rõ hơn, các vị hãy nghe về lịch sử Đức Thích Ca Mâu Ni, ngài là Giáo-chủ của thế giới chúng ta ở, trong đạo Phật gọi thế giới này là thế giới Ta Bà.
Hồ Đề là người thực tế, nàng hỏi:
- Bạch đại-sư, thế giới Ta Bà gồm có Trung-nguyên, Lĩnh Nam, Tây-trúc hay có nhiều xứ khác nữa?
- Hồ cô-nương hỏi thực phải, Trung-nguyên, Tây-trúc, Lĩnh Nam v.v..., thuộc về mặt đất, mặt đất nằm trong thế giới Ta Bà, trên mặt đất này có đến mấy trăm nước khác nhau mà cô nương chưa biết đó thôi, nào là: Trung-nguyên, Tây-trúc, Lão-qua, Hồ-tôn, Cao-ly, Mông-cổ, tất cả các xứ đó cô nương có thể dùng ngựa dùng xe, dùng chân đi tới, mặt đất chỉ là một phần rất nhỏ của thế giới Ta Bà, thế giới Ta Bà có nhiều mặt đất khác, mà cô nương không thể dùng chân, dùng xe, dùng thuyền đi tới được.
Vi Đại-Lâm hỏi:
- Mặt trăng, mặt trời, có thuộc về thế giới Ta Bà không?
- Có chứ, mặt trời là một khối lửa, cháy trong thế giới Ta Bà, cứ mỗi 365 ngày 11 giờ, 98% của giờ, mặt trời đi hết một vòng trở lại chỗ cũ, vòng của mặt trời cách xa mặt đất không đều, nên chúng ta có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông, còn mặt trăng là một khối đất giống như chúng ta, trên đó không có người ở.
Sa-Giang hỏi:
- Như vậy trong thế gian có nhiều thế giới, thế giới Ta Bà là một, trong thế giới Ta Bà có nhiều mặt đất?
Tăng Giả Nan Đà gật đầu:
- Đúng thế, thế giới Ta Bà dịch sang tiếng Hán là: Nhẫn, đại nhẫn, kham nhẫn trong thế giới Ta Bà nhà tu phải kham nhẫn, chịu sự nhẫn nhục, vì thế giới có đủ sự trược ác mà chúng sinh phải chịu. Trong thế giới Ta Bà có năm giới chúng sinh ở với nhau: Địa ngục, Ngạ-quỉ, Súc-sinh, Thiên và Nhân, đạo Phật nói tới cõi Liên-hoa có hai chục tầng thế giới, cõi Ta Bà ở tầng thứ mười ba, gồm nhiều thế giới nhỏ, trong mỗi thế giới nhỏ có ba cõi Dục giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới, chia làm bốn Châu: Thánh-thần châu, Tây-ngưu hoa châu, Nam-thiện bô châu, Bặc-cư lư-châu và một núi Tu-di, tổng cộng thế giới Ta Bà có một ngàn triệu thế giới nhỏ.
Phật Nguyệt thở dài:
- Thưa đại sư, đúng như đại-sư nói, chúng ta ở thế giới Ta-Bà này khổ quá, mới sinh ra đã khóc oe oe. Bệnh tật, đói khổ, thương nhớ, bệnh giết người, thiên tai giết người, người giết người, có thế giới nào mà ta không khổ như thế giới Ta Bà không? Khi lên đó không cần chém giết nhau nữa, người người thương nhau.
Nan Đà đáp:
-Có, thế giới đó là thế giới Tịnh-độ.
- Ở như vậy thành Tiên rồi còn gì nữa, thỉnh đại-sư nói về thế giới đó, dạy bọn đệ tử có thể đến được.
Nan Đà vẫn cười tủm tỉm:
- Tịnh nghĩa là sạch, đó là cõi đất tinh sạch, Quốc Độ Nghiêm Tịnh do Phật cai quản, nơi trú ngụ của hàng thánh giả: La Hán, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật. Ấy là cõi không nhiễm nhơ bẩn Ngũ Trược, trong kinh Phật gọi là Phật-địa, Phật-giới, Phật-quốc, Phật-độ, Tịnh-sát, Thanh-tịnh-độ, Tịnh-điều-quốc-độ. Trong thập phương phế giới nhà Phật có nhiều cõi Tịnh-độ và cũng có nhiều giới Uế-độ, Trược-độ như chúng ta, thế giới cực lạc nghĩa là sung sướng vô cùng, thế giới này là của Phật A Di Đà tức là thế giới Tịnh-độ, còn thế giới Ta-bà là của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Hồ Đề gật đầu:
- Nghe đại sư nói về thế giới Tịnh-độ đệ tử thấy thèm quá, vậy có cách nào về thế giới ấy không? Đại-sư giúp đệ tử về thế giới Tịnh-độ đó đi.
- Bần tăng không giúp được cô nương, bần tăng cũng không giúp được ai cả.
Hồ Đề không chịu:
- Tại sao?
Nan Đà đáp:
- Muốn vãng sinh về thế giới đó, thì tự mình làm lấy, chứ không nhờ người khác giúp cho mà được, tự mình là tại sao? Là phải theo Pháp môn tịnh độ tông. Đó là một môn phái dạy niệm Phật được vãng sinh tịnh độ, tức sau khi chết, đức Phật A Di Đà đón chúng ta về thế giới đó. Chúng ta đầu thai làm hài nhi, lớn lên, sinh sống.
Trăng xuân chiếu xuống mặt hồ Động-đình lung linh như muôn ngàn ánh vàng, tiếng Tăng Giả Nan Đà thao thao bất tuyệt, giọng ngài sang sảng khiến anh hùng Lĩnh Nam say mê, không còn biết gì nữa, đám thủy thủ cũng kính cẩn chắp tay ngồi nghe.
Trời gần sáng Tăng Giả Nan Đà kết luận:
- Trung thổ có đạo Nho, đạo Nho nói phần xác, đạo Phật nói phần hồn, đạo nho dạy cách ăn ở lúc sống, đạo Phật dạy làm sao thoát khỏi cảnh luân hồi, sinh tử.
Tăng Giả Nan Đà thuyết thao thao bất tuyệt, mỗi câu, mỗi lời nói của ngài, đều khiến mọi người cảm thấy sảng khóai tâm hồn, người ngây ngất, muốn bay lên cao.
Trưng Nhị chắp tay nói:
- Hòa Thượng đã dạy giữa người với chúng con có tiền duyên, vậy xin người dời gót ngọc sang kia hồ Động-đình với chúng con, không biết có được không?
Tăng Giả Nan Đà cười tủm tỉm gật đầu.
- Được chứ! Được chứ! Bần tăng xin theo chư vị, để chúng ta đàm đạo Phật pháp.
Quần hùng gặp Tăng Giả Nan Đà, người nào cũng cảm thấy hào hứng, nhẹ nhàng lâng lâng như gặp buổi trời xuân bình minh.
Phật Nguyệt sai dọn riêng một lều cho ngài ở. Trần Năng kể cho Công-tôn Thiệu nghe về cuộc gặp gỡ kỳ lạ đêm qua, Công-tôn Thiệu vội vàng đến tham kiến Tăng Giả Nan Đà, truyền binh sĩ phụ trách hàng ngày cơm chay cúng dường. Thiệu dặn các tướng để ngài tự do muốn ra vào doanh trại, thuyết pháp cho tướng, sĩ mặc ý, ngài cần gì phải lễ phép cung ứng đầy đủ.
Công-tôn Thiệu bàn về cuộc tiến binh đánh Trường-sa, Linh-lăng, Phật-Nguyệt bảo Trưng Nhị:
- Sư tỷ! Bây giờ tôi với Trần Năng vào thành thám thính tình hình, Tượng-quận tam anh xem sự thể ra sao, trước khi tiến binh.
Trưng Nhị gật đầu đồng ý.
Phật-Nguyệt, Trần Năng hóa trang thành hai thiếu nữ vùng Trường-sa, lấy ngựa hướng thành tiến tới.
Từ xa hai người thấy binh sĩ đi lại trên thành, tuần phòng nghiêm ngặt, cửa thành vẫn mở giáp sĩ đi lại bên ngoài. Hai người đã quen với lối tổ chức, kiểm soát của quân Hán, thản nhiên đi tới, lính canh thấy hai thiếu nữ xinh đẹp, lưng đeo bảo kiếm, cỡi ngựa khoan thai vào thành, cho là tiểu thư con nhà quan nào đó, nên không hỏi han gì cả. Hai người cứ nhắm giữa thành đi vào, trong thành dân chúng tấp nập rất đông, nhà cửa xây bằng gạch hoặc bằng gỗ san sát nối nhau. Trai thanh gái lịch thản nhiên như không biết chiến tranh tới gần, hai người đi cửa Bắc đến cửa Nam rồi vòng sang cửa Đông rồi cửa Tây.
Trần Năng bàn:
- Nếu bây giờ chúng ta vào quán ăn uống thì bị Tế-Tác Hán phát giác ngay, vì vậy chúng ta kiếm một ngôi đền, miếu nào ẩn thân tối hãy hành sự thì hơn.
Phật-Nguyệt đồng ý đến một ngôi miếu bỏ hoang ở góc thành, miếu thờ vua Văn-Vương đời Chu. Trên bệ có ngôi tượng Văn-Vương ngồi giữa, hai bên có tượng Chu-Công, Khương Thái-công, Phật-Nguyệt lấy cơm nắm muối vừng của Trần Năng ăn, rồi cả hai nhắm mắt dưỡng thần, Phật-Nguyệt nhớ lại tư thức ngồi thở hít của Tăng Giả Nan Đà dạy, đầu tiên tập trung tinh thần, nhắm mắt bỏ ra ngoài những hình ảnh trong tư tưởng rồi tự trầm lại, không suy nghĩ nữa đến lúc đó nàng đã tự mình biến đi.
Nàng nhớ Tăng Giả Nan Đà đã giảng:
- Hãy bỏ ra ngoài những âm thanh, nghe mà không phân biệt đó là vong tỵ, tức mất đi cái mũi, không nói là vong thiệt, tức mất đi cái lưỡi, bỏ ra ngoài những hình ảnh trước mắt là vong nhãn, tức là mất đi cả con mắt. Khi đã không nói, không nghe, không thấy, thì cái thân cũng biến đi mất đó là vong thân thân biến đi rồi trầm lặng không nghĩ, đó là vong ý. Trong Kinh Kim Cương gọi là: Vô, nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý, tức là nhập đạo đi vào tới cái vô cùng của Bát Nhã Ba La Mật vậy.
Phật Nguyệt làm thử một lát không còn biết gì nữa, nàng trầm đi như vậy không biết bao nhiêu lần, thì Trần Năng vỗ vào lưng.
- Sư-tỷ! Ngủ vậy đủ rồi, chúng ta thám thính phủ Mã Anh đi.
Phật-Nguyệt tỉnh dậy, người khoan khoái nhẹ nhàng không bút nào tả xiết. Đầu óc minh mẫn sáng suốt, như vừa uống xong chung nước trà thơm tho, nàng nghĩ thầm:
- Tư thức thở hít, vận khí, dưỡng thần mà Tăng Giả Nan Đà dạy ta được gọi là phép thiền tuệ. Thiền Tuệ là pháp môn của nhà Phật thật huyền diệu, ta mới ngồi dưỡng thần một lúc mà đã vậy, nếu ngày nào ta cũng ngồi chỉ vài năm, con người trở thành thanh thản, không lo, không sợ, không buồn, không giận, có khác gì tiên không?
Nàng cùng Trần Năng hướng dinh Thái-thú đi tới, trước dinh vệ sĩ canh gác nghiêm mật, hai người nhảy qua hàng rào vào trong, rồi nhảy lên mái nhà, theo mái nhà truyền đến lầu cao có đèn sáng trưng từ trong nhà chiếu ra.
Hai người bám cửa sổ, lấy ngón tay nhúng vào miệng cho ướt, để vào cửa sổ giấy, giấy nhũn ra thành lỗ nhỏ, hai người ghé mắt nhìn vào trong. Một người ngồi giữa tướng mạo hùng vĩ giống Mã Viện như đúc, trẻ hơn một chút, chắc là Mã Anh, bên cạnh là ba người tuổi gần năm mươi, một người to béo, cao lớn, một người lùn tịt và một người cao nghệu.
Trần Năng nghĩ:
- Công-tôn Thiệu bảo rằng Tượng-quận tam anh ở vai sư thúc của Mã Viện, người to lớn kia chắc là Hàn Bạch, người cao nghệu kia chắc là Vương Hồng, còn người lùn tịt chắc là Chu Thanh.