watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:50:5928/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 21-30 - Trang 17
Chỉ mục bài viết
Tập 2 - Động Đình Hồ Ngoại Sử - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 21-30
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 17 trong tổng số 21

Hồi 29a

Ngọc tỷ truyền quốc

Phan Anh thở dài:
- A Di không hiểu ta cũng phải. Bấy lâu nay ra dấu A Di. Bây giờ nói ra cũng không muộn. Ta nói cho A Di biết một điều tối mật: Phụ hoàng ta vẫn còn sống.
Tiểu Lan kinh ngạc:
- Thực sao?
Phan Anh quả quyết:
- Sau trận đánh Trường-sa, ai cũng tưởng phụ hoàng băng hà. Sự thực người vẫn còn sống trên thế gian này.
Tiểu Lan ngạc nhiên:
- Hoàng thượng vẫn còn tại thế à? Tiểu tỳ không tin. Không thể như thế được. Hiện hoàng thượng ở đâu.
Phan Anh đáp:
- Trận đánh Trường-sa, phụ vương ta võ công cao gấp bội Nghiêm Sơn. Nhưng Nghiêm dùng binh giỏi hơn. Người bị bại. Người lên núi, cho một tên quân mặc quần áo của người. Người đánh y chết. Thân thể nát bấy. Vì vậy Đặng Vũ đuổi tới, nghĩ rằng phụ vương ta đã qua đời. Kỳ thực người vẫn ở ẩn trong Hoàng cung Lạc-dương.
Tiểu Lan ngơ ngác:
- Sao lại ẩn ở Lạc-dương?
Phan Anh đáp:
- Người thử nghĩ coi, phụ vương ta ở ẩn để tránh con mắt truy lùng của Quang-Vũ, ngay tại Hoàng cung ai còn nghi ngờ?
Phan Anh ngừng một lát tiếp:
- Hành tung của phụ vương ta, không ai biết được. Ta là con, mà gặp cũng rất khó khăn, nữa là người khác. Phụ vương ta khống chế Mã thái hậu. Dùng Mã thái-hậu áp đảo Tam-công, triều đình. Người cử Trần Lữ đầu quân theo Đặng Vũ. Dùng độc chưởng khống chế y. Người cử Tạ Thanh Minh đầu quân với Tần-vương Lưu Nghi ở Trường-an, dọ biết tình hình. Một ngày kia, chúng ta áp chế được quần thần nhà Hán. Nếu A Di nói cho ta biết việc đó, thì đại sự lo gì không xong?
Tiểu Lan lắc đầu:
- Đợi diện kiến hoàng-thượng, tiểu tỳ mới nói. Tiểu tỳ nhất quyết không đổi ý. Tiểu tỳ cũng không tin Mao lão gia. Tiểu tỳ chỉ nói với thái-tử mà thôi. Thái tử ơi! Khi nào thoát khỏi đây. Tiểu tỳ sẽ nói với thái-tử.
Mao Đông Các cười:
- Có vậy mà ngươi cũng hẹp hòi. Ta là thái sư phụ của thái-tử, mà ngươi cũng không tin sao? Thôi được ta đi ra, để ngươi nói với thái-tử.
Mao Đông Các móc trong bọc ra năm viên thuốc đưa cho Phan Anh:
- Đây là thuốc giải, nếu thị nói rồi thái-tử cho thị uống.
Nói rồi y đi ra.
Tiểu Lan nói vào tai Phan Anh:
- Hoàng-thượng bị Mao lão giết chết từ năm năm rồi. Việc đó tiểu tỳ biết hết. Thái tử chỉ biết hoàng-thượng băng hà, mà không biết nguyên do tại sao phải không?
Phan Anh lắc đầu:
- Ta không tin.
Tiểu Lan nói với Phan Anh:
- Thái tử! Ngươi đã biết cách đây hơn ngàn năm, Chu Võ Vương phạt Trụ, thu được kho tàng đầy vàng bạc châu báu, cất dấu ở trong cung. Nhà Chu trải tám trăm năm, các chư hầu tiến cống không biết bao nhiêu mà kể. Vàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành kho tàng lớn. Kho tàng ngọc truyền đến cuối đời Chu gom góp lại thành bảy nước, lại thu thêm được châu báu. Tần bại, Hạng Vũ vào Hàm-dương trước, lấy được. Sở bị diệt. Kho tàng thuộc Lưu Bang. Lưu Bang đem chôn ở một nơi thực bí mật. Rồi suốt đời Hán, của cải súc tích được bao nhiêu, lại cũng đem chôn cùng vào một chỗ với kho tàng, mà không sao biết chỗ. Khi hoàng-thượng đánh Vương Mãng, nô tỳ theo hầu. May mắn tìm được hộp đựng Ngọc-tỷ truyền quốc, dưới cái giếng sâu. Dưới đáy hộp có tấm bản đồ ghi chú nơi chôn kho tàng. Hoàng thượng không ngờ Mao Đông Các phản hoàng-thượng. Lão tiên sinh này báo tin cho Mã Thái Hậu biết. Mã-hậu thuyết phục Mao lão-gia phản hoàng-thượng, để độc chiếm kho tàng một mình. Mao lão gia nghe theo.
Phan Anh hỏi:
- Mao lão tiên sinh là thái sư phụ ta. Tại sao người lại phản phụ hoàng ta?
Tiểu Lan thở dài:
- Điều đó dễ hiểu lắm. Trường-sa vương trước kia chỉ sủng ái Hàn Tú Anh. Vì vậy Mã Vương-phi buồn rầu, cô độc. Không hiểu cơ duyên nào đó, Mao lão-gia gặp Mã vương-phi. Hai người trở thành tình nhân. Trường-sa vương bị Vương Mãng giết chết. Mao lão gia cứu Vương phi ra ngoài thôn dã ở ẩn. Chờ tới khi Quang-Vũ trung hưng, cho người tìm Mã vương-phi vào cung. Phong làm thái-hậu. Mao lão gia theo Mã thái-hậu về Lạc-dương. Thỉnh thoảng lão gia thăm hoàng-thượng. Hoàng thượng nhờ Mao lão gia đào kho tàng. Mao lão gia nhận lời. Không ngờ trong lúc ân ái mặn nồng với Mã thái-hậu, Mao lão gia nói ra hết. Tiểu tỳ còn biết rõ: Mao lão gia với Mã thái-hậu có hai người con gái. Thái-tử có biết hai cô gái đó ở đâu không?
Phan Anh lắc đầu:
- Ta không biết. Hai đứa trẻ đó hiện ở đâu?
Tiểu Lan chỉ vào Hồng Hoa, Thanh Hoa:
- Là hai vị cô nương nầy.
Tiểu Lan tiếp:
- Mã thái-hậu thụ thai, dấu kín, sinh đẻ xong, đưa ra ngoài cho Mao lão gia nuôi. Vì vậy thái-tử thấy, Hồng Hoa, Thanh Hoa tuy họ khác nhau, mà mặt giống nhau như hai giọt nước. Mao lão gia hiện giả làm vệ sĩ trong cung, đi lại với Mã thái-hậu. Mã thái-hậu khám phá ra chuyện Nghiêm Sơn là con nuôi Hàn thái-hậu, bà muốn nhờ tay Mao lão-gia giết Hàn thái-hậu, sau giết Quang-Vũ để cho Mao lão gia lên làm hoàng đế.
Tiểu Lan buồn bã tiếp:
- Hoàng thượng bại trận Trường-sa. Lúc quân tan, thế cùng, tiểu-tỳ ở bên cạnh, hoàng-thượng dặn tiểu tỳ giả câm, ẩn trong thành, trông coi chỗ cất Ngọc-tỷ truyền quốc với bản đồ kho tàng. Vì vậy tiểu tỳ mới cố sống đến ngày nay.
Phan Anh hỏi:
- Từ hồi đến giờ. Phụ-hoàng có liên lạc với ngươi không?
Tiểu Lan đáp:
- Có. Cứ mấy tháng một lần. Người tự rạch mặt cho thành sẹo. Người đến Lạc-dương đầu quân làm thị vệ. Từ đấy người ở ẩn trong cung, dùng độc chưởng kiềm chế quần thần. Cho đến một ngày kia. Hoàng-thượng kiềm chế Mã thái-hậu. Không ngờ Mã thái-hậu không sợ độc chưởng, vì bà được Mao lão gia dạy cách chế thuốc giải. Bà vờ sợ hãi, rồi nhờ Mao lão-gia giết Hoàng-thượng.
Phan Anh hỏi:
- Ngươi có biết di thể phụ-hoàng ta chôn ở đâu không?
Tiểu Lan đáp:
- Dĩ nhiên là biết. Chính tiểu tỳ đem người chôn ở ngoài thành Lạc-dương.
Hồng Hoa xem vào:
- Tiểu Lan, truyện có thực hay không?
Tiểu Lan cười:
- Thực hay không thì cô nương tự biết. Cô nương là đệ tử của Mao lão gia. Tức khâm phạm của triều đình, sao lại được lão gia bí mật dẫn vào cung triều kiến thái-hậu? Tại sao Mã thái-hậu lại yêu thương hai vị cô nương như vậy?
Hông Hoa, Thanh Hoa nhớ lại một đêm, hai nàng được thái sư phụ dẫn vào cung yết kiến Mã thái-hậu. Mã thái-hậu ôm lấy hai nàng, nước mắt trào ra, rồi tặng cho hai nàng không biết bao nhiêu vàng bạc châu báu. Từ đó cứ mỗi tháng một lần, hai nàng nhập cung yết kiến Mã thái-hậu. Hai nàng nhớ lại: Cứ mỗi lần hỏi thái sư phụ, cha mẹ là ai, Mao Đông Các đều lắc đầu không trả lời. Thì ra thái sư phụ là cha hai nàng. Còn Mã thái-hậu là Mẫu-thân. Việc đời thực lắm éo le.
Tiểu Lan nói với Phan Anh:
- Đợi ra khỏi nơi đây, tiểu tỳ sẽ nói cho thái-tử biết rõ chỗ cất Ngọc tỷ.
Bỗng một bóng nhảy vào cười rộ lên:
- Phan Anh, Tiểu Lan! Đáng lẽ ta không giết các ngươi. Nhưng chuyện bí mật của ta, các ngươi đã biết rồi, ta phải ra tay.
Mao Đông Các, thò tay vào bọc rút ra cây búa. Y vung lên một cái, xích trói Hồng Hoa, Thanh Hoa đứt rời ra. Y hướng vào Tiểu Lan phóng một chưởng. Nhanh như chớp Tiểu Lan lăn người ra xa tránh khỏi chưởng đó. Thân pháp bà nhanh không thể tưởng tượng được. Ngoài sự ước đoán của Mao Đông Các. Mao Đông Các cười gằn:
- Thì ra ngươi cũng biết võ? Võ công ngươi là võ công Lĩnh Nam.
Tiểu Lan đứng thẳng người dậy cười:
- Mao Đông Các! Ngươi có mắt như mù! Ta họ Trần, tên Thiếu Lan, người phái Tản-viên đất Lĩnh Nam. Ta chủ trương phản Hán phục Việt, khởi binh phục quốc. Chẳng may mất thế, bị người Hán bắt làm nô tỳ. Ta theo Xích Mi, xúi Xích Mi tàn hại nhà Hán, khiến Trung-nguyên loạn lạc. Có thế Lĩnh Nam ta mới nổi lên đuổi người Hán dễ dàng. Ta đâu có phải thứ nữ tỳ hèn hạ.
Mao Đông Các lại vung chưởng tấn công Thiếu Lan. Thiếu Lan nhảy sang phải tránh, rồi phản công. Chưởng của bà chưa phát ra hết, gió lộng ào ào. Bình một tiếng đánh trúng ngực Mao Đông Các. Mao đông Các không phòng bị, trúng một chưởng như trời giáng. Người y lảo đảo, ngã ngồi xuống. Thiếu Lan phóng tiếp chưởng thứ nhì. Hồng Hoa, Thanh Hoa quát lên, tấn công vào hai bên. Thiếu Lan đẩy chưởng của Hồng Hoa vào Thanh Hoa, lùi lại tấn công Mao Đông Các. Mao đã phục hồi được sức lực. Hai người tái diễn cuộc đấu.
Trưng Nhị đứng ngoài kinh ngạc:
- Võ công Trần Thiếu Lan mạnh muốn hơn Lê Đạo Sinh, chỉ kém Khất đại-phu với Đào Kỳ. Vậy nàng là đệ tử của ai trong bản phái?
Thình lình Mao Đông Các nhảy ra khỏi nhà tù. Tay y liệng một vật tròn vào trong. Tia lửa lóe ra như chớp. Một tiếng nổ kinh hồn phát ra.
Trưng Nhị la lên:
- Gian tế, gian tế, bắt gian tế mau.
Lập tức các nơi trống chiêng đánh vang lên. Mao Đông Các vội cùng với Hồng Hoa, Thanh Hoa vọt mình ra khỏi nhà ngục. Vừa ra khỏi, thì đã thấy đèn đuốc sáng trưng. Bên ngoài nhà ngục, quân sĩ đã dàn ra từ bao giờ. Mao Đông Các cùng Hồng Hoa, Thanh Hoa vung chưởng tấn công, họ chỉ nhô lên thụp xuống mấy cái, đã mất tích vào đêm tối.
Vũ Chu tiến tới trước Trưng Nhị nói:
- Tiểu tướng bất lực để gian tế chạy thoát, mong quân sư trị tội.
Trưng Nhị cười:
- Vũ Thứ-sử! Tất cả chúng ta đây, không ai là đối thủ của một trong hai người con gái đó. Chứ đừng nói là đối thủ của lão già. Cứ để chúng chạy, chúng không thoát khỏi tay tôi đâu.
Trưng Nhị vào nhà tù, thấy Tiểu Lan chỉ còn thoi thóp thở. Nàng sai mở còng cho vợ chồng Phan Anh, nói:
- Phan thái-tử, ngươi đi thôi. Nếu ngươi muốn về Lạc Dương giết Mã thái-hậu trả thù cho cha mẹ, môn hộ thì cứ đi. Thiếu Lan có tôi chiếu cố.
Phan Anh cúi lạy Thiếu Lan, vái Trưng Nhị nói:
- Trưng cô nương, kẻ thù của kẻ thù là bạn ta. Cô nương với chúng tôi, cũng như Quang Vũ đều có chung kẻ thù là Mã thái-hậu với Mao Đông Các. Vậy chúng ta là bạn. Bọn chúng tôi đi đây.
Hai người hú lên một tiếng, phóng mình vào đêm tối.
Trưng Nhị lại bên Thiếu Lan, cầm mạch, thấy khi có khi không. Bỗng Thiếu Lan mở mắt ra nhìn Trưng Nhị. Nàng nói bằng tiếng Việt:
- Trưng Nhị! Ngươi có phải là Trưng Nhị không?
Trưng Nhị đáp:
- Đúng! Đệ tử là Trưng Nhị đây.
Thiếu Lan nói:
- Những người biết tiếng Việt ở đây có thể tin được không?
Trưng Nhị quả quyết:
- Ở đây chỉ có ba người. Một là đệ tử. Hai là Lê Chân ba là Hồ Đề. Tất cả đều đáng tín nhiệm.
Thiếu Lan nói:
- Trưng Nhị! Ngươi mau bồng ta vào căn phòng cũ của ta. Ta có cái này cần trao cho ngươi. Nếu không e trễ mất.
Máu miệng bà lại ri rỉ chảy ra. Người bà run lên bần bật. Hồ Đề tính mau mắn, bồng Thiếu Lan rời ngục, trở về căn phòng cũ của bà. Bà nói:
- Hồ Đề cô nương. Cô nương có Thần-ưng, mau gọi chúng đến gác xung quanh cẩn thận. Lê cô nương gác cửa ngoài, cầm kiếm đứng canh. Còn cháu Trưng Nhị ở đây. Ta trao cho cháu một vật tối quan trọng.
Hồ Đề huýt sáo gọi Thần-ưng, rồi cầm kiếm đứng gác cạnh Trưng Nhị. Thiếu Lan mệt nhọc, thở phều phào:
- Cháu ơi! Ta họ Trần. Cha ta tên Trần Đại Sinh, thường được đời gọi là Khất đại-phu.
Trưng Nhị, Lê Chân kêu lên ngạc nhiên:
- Úi cha! Thì ra sư thúc là con của thái sư thúc đây à? Hèn gì võ công người cao gần ngang với thái sư-thúc.
Thiếu Lan tiếp:
- Ta tên Trần Thiếu Lan. Cha ta chỉ có một mình ta. Lớn lên người gả ta cho đệ tử của người là Trần Anh. Chúng ta có với nhau hai đứa con gái sinh đôi là Quế Hoa, Quỳnh Hoa. Chúng ta gửi con cho người nuôi dùm, để chuyên tâm lo phục quốc. Thất bại, chồng ta tuẫn quốc. Ta bị cầm tù đưa sang Trung-nguyên làm cung nữ của Trường-sa vương. Ta thừa dịp trốn đi, theo Xích Mi. Ta dùng đủ cách khích Xích Mi làm loạn Trung-nguyên, hầu anh hùng Lĩnh Nam có thể phục quốc.
Thiếu Lan thở một lát rồi nói:
- Khi Xích Mi chết. Ta đang giữ Ngọc Tỷ và bản đồ kho vàng. Từ đấy để tránh sự săn đuổi của phái Trường-bạch. Ta giả câm ở thành Trường-sa coi việc nấu ăn cho tù nhân. Ta theo dõi, biết mọi điều diễn biến ở Giao-chỉ. Ta nghe cha và hai con ta đang theo quân đánh Thục. Hy vọng đạo quân đó qua đây, ta làm nội ứng chiếm thành. Không ngờ… không ngờ Mao Đông Các và Phan Anh tìm được tông tích ta.
Nàng mỉm cười tiếp:
- Ta sắp chết rồi! Trưng Nhị nói với cha ta hãy trả thù cho ta. Ban nãy ta nói chỗ cất Ngọc-tỷ cho Phan Anh, Nghi Gia là nói láo. Ta bảo Ngọc-tỷ cất dưới nền nhà của điện Vị-ương. Mục đích đưa Phan Anh với Mao Đông Các chém giết nhau. Chứ thực sự ta vẫn giữ bên mình, đâu có rời ta?
Trưng Nhị ngạc nhiên, vì hôm ở trên hồ Động-đình nàng bắt được Thiếu Lan, đã cho khám xét thật kỹ, đâu còn gì mà bảo Ngọc-tỷ?
Thiếu Lan bảo Trưng Nhị:
- Ta chết đến nơi rồi. Hãy đưa cho ta con dao nhỏ.
Hồ Đề đưa con dao cho Thiếu Lan, bà cầm lấy đâm vào bụng, rạch ra một cái thực dài.
Hồ Đề, Trưng Nhị tuyệt không ngờ Thiếu Lan làm vậy. Hai người muốn cản thì đã muộn. Thiếu Lan mổ bụng, moi ra cái bọc vải. Bà mở bọc vải ra, bên trong có một vật bằng ngọc khá lớn. Bà đưa cho Trưng Nhị:
- Đây, Ngọc-tỷ truyền quốc đây. Cháu hãy cầm lấy tùy tiện xử dụng. Còn miếng vải này, vẽ sơ đồ nơi chôn cất kho tàng. Cháu cùng các anh hùng Lĩnh Nam đào lên, dùng vào việc phục quốc.
Trưng Nhị cầm lấy miếng vải, gấp lại bỏ vào bọc. Nàng ngắm nghía Ngọc-tỷ, thấy vuông vức, bốn cạnh, mỗi cạnh bốn tấc. Mặt ấn có khắc tám chữ triện:
Thụ mệnh vu thiên, thọ ký vĩnh xương.
Thiếu Lan nói:
- Nguyên đời Sở vương, có người thợ ngọc là Biện Hòa, đi qua núi Kỳ-sơn, thấy phụng đậu trên tảng đá mà gáy. Biện Hòa đem tảng đá về, đập ra bên trong tìm được khối ngọc lớn, dâng cho vua Sở. Sau ngọc đó về tay Tần Thủy Hoàng. Đời Tần Thủy Hoàng năm thứ 25, thừa tướng Lý Tư chính tay viết 8 chữ trên vào phiến ngọc, sai khắc thành ấn. Niên hiệu thứ hai mươi tám đời Tần Thủy Hoàng, nhân nhà vua du hồ Động Đình gặp sóng lên, thuyền muốn chìm. Nhà vua sai ném ấn ngọc xuống hồ, sóng tự nhiên im. Niên hiệu thứ 38 Tần Thủy Hoàng qua Hoa-âm gặp dị nhân đem dâng cái hộp. Mở ra thấy cái ấn này. Sau con Thủy Hoàng là Tử Anh dâng cho Cao-tổ nhà Hán. Nhà Hán dùng làm Ngọc-tỷ truyền quốc. Đến đời Hán Bình Đế, Vương Mãng cướp ngôi. Y sai Vương Tam, Tô Hiến vào cung đoạt ấn. Bà Hiếu-nguyên hoàng thái-hậu cầm ấn ném Vương Mãng, Ngọc tỷ mẻ một góc. Xích Mi lấy lại của Vương Mãng, y dùng vàng bịt lại góc bị bể. Xích Mi giao cho ta giữ. Y đâu có biết ta ghi lòng phục quốc, chiếm Ngọc Tỷ và bản đồ kho tàng. Bây giờ các ngươi hãy giữ Ngọc-tỷ, đào kho tàng lên, làm phương tiện phục hồi Lĩnh Nam.
Đến đó Thiếu Lan, thở hắt ra một cái, rồi nước mắt chảy ròng ròng. Bên cạnh nàng, tiếng sáo tỉ tê như khóc như than cho người liệt nữ bạc mệnh của Lê Chân thổi lên trong đêm trường tịch mịch.
Trưng Nhị sai chôn cất Thiếu Lan thật cẩn thận bên ghềnh sông Tương-giang đổ vào hồ Động-đình. Khắc trên mộ:
Liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan chi mộ.
Sau khi giành được độc lập, phục hồi Lĩnh Nam, Trưng đế phong cho Trần Thiếu Lan: Anh thư bảo quốc, diệu tài, đại lược, linh-ứng công chúa. Và cho cất đền thờ. Dân chúng quanh vùng cầu gì được nấy.
Chú giải
Sau này các sứ thần Đại Việt đời Đinh, Lê, Lý, Trần nhân đi qua Động-đình hồ đều có ghé miểu thắp hương, tưởng nhớ người Việt-nữ có tấc lòng với tổ quốc. Trước đền thờ, một tấm bia đá đề:
Lĩnh Nam liệt nữ, Bảo quốc anh thư miếu.
Trải qua các đời Đinh, Lê, Lý, Trần, Trương Phụ thu ngọc phả mang về Kim-lăng (1407). Vì vậy không biết đời Lê, Nguyễn, các sử gia Đại Việt có còn tế lễ như những đời trước không?
Đầu năm 1981, cuối năm Canh Thân, thuật giả từ Paris đi Bắc-kinh. Đổi máy bay từ Bắc-kinh đi Trường-sa tìm di tích về anh hùng Lĩnh Nam, đã tìm được di tích của bà. Trong một cuốn sách nói về tỉnh Hồ-nam, có đoạn ghi:
“Miếu thờ liệt nữ Lĩnh Nam Trần Thiếu Lan ở ghềnh sông Tương-giang. Hồi cách mạng văn hóa bị phá hủy. Nay chỉ còn cái nền”.
Thuật giả thuê xe đến cửa Tương-giang, lần mò hỏi thăm dân chúng. Họ chỉ vào khu đất bằng phẳng, cách bờ sông khoảng hai trăm thước, đó là một khu vườn. Tôi nói với chủ vườn rằng: Ngôi mộ, miếu của một vị tổ cô xa đời. Chúng tôi ở ngoại quốc, trở về thăm mộ người.
Chủ vườn vui vẻ, hướng dẫn thuật giả ra xem mộ. Mộ xây bằng đá ong. Trải bao thỏ lặn ác tà bị sứt mẻ, nhưng vẫn còn nguyên. Bia trên mộ không còn nữa. Chủ vườn cho biết, hồi Cách Mạng Văn Hoá, bọn Vệ binh đỏ kéo đến đập phá miếu, gỡ tấm bia trên mộ mang đi mất. Còn tảng đá dùng làm bệ thờ trên ghi sắc phong của Trưng Đế, nặng quá, bọn chúng để lại.
Thuật giả tới cạnh tảng đá, trên còn lờ mờ đọc được:
“ ….bảo quốc,linh ứng….”.
Hồi năm 1981, du khách tới Trung-quốc, muốn chụp hình, quay phim, phải xin phép rất khó khăn. Thành ra thuật giả muốn chụp hình kỷ niệm, mà không được. Thuật giả cũng muốn tu bổ mộ bà nhưng vì thời gian ở Trường-sa giới hạn, và còn phải xin phép với nhiều thủ tục nên không kịp. Sau này bạn đọc có ai muốn viếng mộ ngài xin theo chỉ dẫn nói trên, tất vẫn còn thấy mộ.
Sa Giang đã thuật về cuộc chiến Kinh Châu cho Phương Dung nghe xong.
Phương Dung nghe Sa Giang kể truyện, nàng hỏi:
- Sư muội, thế sư thúc Trần Năng đâu?
Sa Giang nói:
- Khi rời Trường-sa được ít dặm, bọn tiểu muội gặp Tăng Giả Nan Đà. Ngài muốn đến Trường-an cùng với bọn tiểu muội. Bọn tiểu muội thấy mình đã có tiên ông Khất đại-phu, thêm một vị Bồ-tát sẽ vui lắm. Vì vậy trên đường đi chúng em có thêm ngài. Ngài chỉ ăn hoa quả như chim không ăn cá thịt. Sư tỷ, không ai ngờ ngài ăn uống như vậy mà công lực cao dường ấy. Suốt dọc đường ngài giảng thiền cho Trần sư tỷ nghe. Em chẳng hiểu gì cả. Ngài giảng những gì nào là Nhân ngã tứ tướng rồi giảng kinh Lăng-già, Kim-cang. Em nghe câu hiểu câu không. Còn Trần sư tỷ thì khoan khoái trong lòng. Trần sư tỷ nói, nhờ có ngài dạy dỗ, mà trên đường từ Trường-sa về đây, công lực của sư tỷ cao gấp bội. Trần sư tỷ bảo em đi trước gặp sư tỷ trình bày mọi sự. Không biết bao giờ Trần sư-tỷ với vị Bồ-tát sẽ đến.
Bỗng tiếng Trần Năng nói vọng lại:
- Bồ-tát và Trần sư tỷ đến từ lâu rồi. Sư muội khỏi lo lắng nữa.
Phương Dung là người cực kỳ thông minh. Tuy nàng chưa biết Phật-giáo. Chỉ nghe Sa Giang kể, nàng đã biết được một phần nào cách xưng hô với Tăng Giả Nan Đà. Nàng chắp tay hướng ngài hành lễ:
- A Di Đà Phật. Đệ tử Phương Dung, kính cẩn tham kiến Bồ-tát.
Nàng nhìn ngài: Nước da đen bóng, đầu không tóc. Lưng quấn tấm cà sa mầu đại hồng. Khuôn mặt cười mà không cười. Ánh mắt chiếu ra vẻ từ bi. Chỉ nhìn đã thấy ấm áp dễ chịu:
Tăng Giả Nan Đà đáp lễ Phương Dung:
- A Di Đà Phật! Đại phúc. Đào phu nhân sao lại muốn khóc thế kia?
Phương Dung giật mình. Quả thực nàng gặp hai thất bại: Thiều Hoa bị bắt, không hiểu tình trạng ra sao. Đó là thất bại thứ nhất. Thứ nhì, Tiên-yên nữ hiệp bị trúng Huyền-âm độc chưởng, đau đớn chết đi sống lại. Hiện đang nằm hấp hối. Nàng bó tay, không biết làm cách nào chữa trị.
Phương Dung chắp tay:
- Bạch Bồ-tát. Đệ tử quả đang có mối ưu phiền trong lòng không nguôi. Vì vậy không ngăn cấm được nước mắt. Mong Bồ-tát hóa giải cho.
Tăng Giả Nan Đà mở to mắt nhìn Phương Dung. Ngài không ngờ một thiếu nữ trẻ xinh đẹp nhu mì, gặp ngài lần đầu đã biết cách xưng hô như những Phật-tử chính tông thuận thành.
Phương Dung là người cực kỳ thông minh, chỉ nghe Sa Giang thuật truyện, nàng đã ghi nhớ được một số thuật ngữ trong nhà Phật, đem ra ứng dụng, khiến cho vị Bồ-tát phải ngạc nhiên.
Lục Sún nghe tin Sa Giang đến. Chúng ào vào trướng Phương Dung gặp nàng. Giữa Sa Giang với Lục Sún tuổi ngang nhau. Gặp nhau là đùa giỡn vui vẻ.
Sún Lé nói:
- Nầy chị Sa Giang! Chị thua cuộc rồi đấy nhé! Bọn nầy đã đọc được sách binh thư rồi!
Phương Dung hỏi:
- Thua cuộc gì vậy?
Sún Rỗ nói:
- Chị Sa Giang chê bọn chúng em không biết chữ chẳng khác gì mù. Chúng em nói học chữ không khó. Chị Sa Giang đánh cuộc với em rằng: Trong vòng sáu tháng, nếu chúng em học chữ đến trình độ đọc được sách. Thì chị ấy phải về Lĩnh Nam phản Hán phục Việt với bọn em. Ngược lại bọn em thua cuộc, thì cả đời phải làm nô bộc cho chị ấy.
Phương Dung cười với Sa Giang:
- Sư muội! Em thua rồi. Từ hôm rời Dương-bình quan, chị ngạc nhiên tại sao Lục Sún lại chăm học chữ thế. Thì ra vì muốn thắng cuộc.
Sa Giang e thẹn:
- Trong thâm tâm em muốn được thua, để về Lĩnh Nam chống bọn Hán bốn chân. Sau nầy lịch sử Lĩnh Nam ghi: Niên hiệu Lĩnh Nam thứ… con gái người Hán tên Vương Sa Giang, đến Giao-chỉ, diệt bọn tham quan người Hán.
Sún Cao trầm ngâm hỏi Tăng Giả Nan Đà:
- Sư phụ! Có cách nào cháu chịu chết thay cho sư bá Tiên-yên không?
Tăng Giả Nan Đà nói:
- Tất cả đều là nghịch cảnh. Nghịch cảnh đã bày ra trước mắt thì phải chấp nhận. Muốn giải nghịch cảnh ấy phải trở về với mình. Tự lòng mình giải lấy, chứ không thể nhờ người khác được
Phương Dung nghe Tăng Giả Nan Đà nói một câu, bên trong bao hàm nhiều ý nghĩa cao siêu, nàng chỉ hiểu đại khái: Việc bày ra trước mắt ngoài ý muốn. Mỗi số phận con người đều bị những cái ngoài ý muốn đó. Phải chấp nhận. Còn buồn, vui do chính mình phải tháo bỏ ra, mới thoát được. Nàng cung kính mời ngài vào doanh, đem trái cây, hai tay cung kính dâng lên.
- Đệ tử thành tâm cúng dường. Mong Bồ-tát thu dụng cho.
Tăng Giả Nan Đà hai tay tiếp mâm trái cây, đáp:
- Thực là đại duyên.
Tiếng Tiên-yên nữ hiệp đau đớn, rên rỉ ở trong trướng vọng ra.
Trần Năng hỏi:
- Ai đau đớn vậy?
Phương Dung thở dài:
- Sư bá Trần Thị Phương Chi.
Trần Năng vào trướng. Người Tiên-yên nữ hiệp vàng vọt, chỉ còn xương bọc da, đang nằm vận công chống với cơn đau. Nàng cầm tay bà chẩn mạch. Mặt thất sắc nói:
- Sư tỷ đã giao chiến với người phái Trường-bạch ư?
Phương Dung gật đầu, kể chuyện Trần Lữ và Tạ Thành Minh. Trần Năng cũng kể chuyện Phan Anh, Trần Nghi Gia và Mao Đông Các. Nàng móc trong bọc ra một túi thuốc đưa cho Phương Dung:
- Túi thuốc này lấy được từ người Mao Đông Các. Chả biết có dùng được không? Nếu là thuốc giả, cho sư tỷ dùng thì tối nguy. Giá có sư phụ ở đây, người phân biệt được ngay.
Sún Lé ngồi đó nói:
- Có gì khó đâu, chúng ta có hàng vạn tù binh Hán, lấy thuốc này cho chúng uống. Nếu là thuốc độc thì chúng chết. Còn chúng không chết thì là thuốc giải, đem cho sư bá uống.
Tăng Giả Nan Đà chắp tay:
- A Di Đà Phật! Tội quá, tội quá! Cứu một mạng, giết một mạng như vậy cũnh như không. Thôi để bần tăng uống thử thuốc nầy cho.
Tiên-yên nữ hiệp đã bớt đau, tỉnh dậy. Bà nghe thấy nói vậy, lắc đầu:
- Xin Bồ-tát đừng làm thế. Tiểu nữ không tiêu thụ được ân đức này đâu.
Tăng Giả Nan Đà bảo Tiên-yên nữ hiệp:
- Mời thí chủ hãy ngồi kiết già theo bần tăng, để bần tăng nói về đạo của Đức Thế Tôn cho thí chủ nghe.
Tiên-yên nữ hiệp ngồi theo ngài. Ngài giảng về tiểu sử đức Phật. Sau đó ngài tiếp:
- Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, thì lăn mình vào mệnh hổ đói, xẻo thịt cho chim ưng ăn cũng không ngại. Đào phu nhân, đưa thuốc cho bần tăng.
Lời nói của ngài uy nghiêm quá. Phương Dung không chống được. Nàng đưa túi thuốc cho ngài.
Ngài lấy viên thuốc màu đỏ định bỏ vào miệng. Phương Dung thấy vậy lòng đầy bất nhẫn. Nàng chụp viên thuốc trong tay ngài. Tay nàng chạm vô bàn tay ngài. Nàng giật bắn người lên, vì một kình lực nhu hòa truyền vào người nàng. Tuy lấy được thuốc, nhưng người nàng bị rung động mạnh.
Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng giải:
- Để bần tăng nói cho Đào phu nhân nghe. Phàm người theo đạo Đức Thế Tôn, dù nhảy vào miệng cọp đói, xẻo thịt cho chim ăn cũng không từ.
Phương Dung thấy ngài chưa bỏ thuốc vào miệng. Nàng tìm cách kéo dài thời gian, may ra đoạt lại viên thuốc. Nàng khẩn khoản nói:
- Đại sư, đệ tử thật ngu tối, chưa từng nghe biết tại sao người theo đạo Phật, lại tự nguyện nhảy vào miệng cọp, xẻo thịt cho chim ưng ăn?
Trên mặt Tăng Giả Nan Đà thoáng hiện ra nét vui mừng:
- Đào phu nhân đã hỏi. Bần tăng xin vì phu nhân mà nói về pháp của Phật. Người tu đạo, nguyện nhảy vào miệng cọp đói, xẻ thịt cho chim ưng ăn được chép trong kinh Hiền-ngu. Câu truyện như thế này:
"Khoảng cách thời gian lúc Đức Thích Ca tại thế vô số kiếp. Ở Châu Diêm Phù Đề có một ông vua tên Ma Ha La Đàn Na, cai trị ba nghìn nước nhỏ, vua có ba con trai. Người thứ nhất tên Ma Ha Phù Na Bình. Người thứ nhì tên Ma Ha Đề Bà. Người thứ ba tên Ma Ha Tát Đoá.
Người con thứ ba, có tính phúc đức, rộng lòng từ bi quảng đại, chí khí cao cả, hiền hậu hiếu thảo, thương dân, giúp vật. Một hôm vua dẫn hoàng hậu, thứ phi, cung nga và cả ba con vào rừng chơi. Nhân lúc nhà vua nằm nghỉ dưới gốc cây. Ba hoàng tử cùng nhau dạo bước. Tới khu rừng bên cạnh, thấy một con cọp mẹ và hai con cọp con. Cả ba gầy gò, chỉ còn da bọc xương, nằm thoi thóp thở. Chứng tỏ cả ba mẹ con cùng đói quá, kiệt sức. Cọp mẹ định ăn thịt hai con. Thấy thế Thái-tử Ma Ha Tát Đóa nói với hai anh:
- Các anh nhìn kìa! Cọp mẹ đói quá, đang muốn ăn thịt con, phải có súc vật máu nóng, giết thịt đem cho nó ăn.
Thái-tử Ma Ha Tát Đoá nghĩ: Ta sống thác trong bao kiếp đến nay. Bỏ thân cũng đã nhiều. Song trọng những thân ấy chỉ gây thêm tội nghiệp tham, sân, si chứ chưa từng đem thân ấy làm lợi cho chúng sinh. Tại sao không đem thân này đổi lấy trí tuệ từ bi bất diệt?
Nghĩ là làm. Thái-tử để hai anh đi trước. Còn mình chậm lại, rồi lui về sau. Ngài gieo mình vào miệng cho cọp ăn thịt. Cọp đói lâu ngày mất hết nghị lực, run rẩy không há mồm ăn được. Thái-tử dùng cây nhọn đâm cổ cho máu phọt vào miệng cọp. Ba mẹ con cọp liếm máu, dần dần có sức tỉnh dậy, cùng ăn thịt Thái-tử. Phút chốc chỉ còn lại mấy khúc xương.
Hai người anh dạo chơi một lúc, không thấy em, bèn quay trở lại thì chỉ còn thấy cái đầu và đống xương trên mặt đất. Hai ngài vội vàng báo cho vua và hoàng hậu. Ngài thương xót con vô cùng, khóc lóc thảm thiết. Còn thái-tử sau khi thác, hồn được sinh về cõi trời, tự nghĩ rằng: Ta được phép thiên nhãn, coi năm cõi như vật trên bàn tay. Chắc đời trước ta làm phúc gì, nay mới được như vậy.
Vị thái-tử đó là một trong những tiền thân của đức phật Thích Ca Mâu Ni vậy.
Trong khi Tăng Giả Nan Đà thuyết pháp, các anh hùng Lĩnh Nam hiện diện có Tiên-yên nữ hiệp, Phương Dung, Lục Sún. Tám người say mê theo dõi. Ngài thuật xong nói:
- Vì vậy, nay bần tăng chỉ thử nuốt viên thuốc, chưa hẳn là thuốc độc. Dù có là thuốc độc cũng không bằng gieo mình vào miệng cọp đói.
Trong lòng Sún Cao tự nhiên mở rộng, một ý nghĩ thoáng qua, nó kính cẩn chắp tay lễ Tăng Giả Nan Đà:
- Kính bạch Hoà-thượng. Nếu như đệ tử thấy một người bị rắn cắn. Đệ tử biết nếu để lâu, người đó sẽ chết. Đệ tử nguyện hút máu độc, cứu người như thế có nằm trong đạo lý Phật-gia không?
Tăng Giả Nan Đà liếc nhìn Sún Cao, ngài gật đầu:
- A Di Đà Phật. Tiểu thí chú có ngộ tính thực cao. Nếu tiểu thí chủ hút nọc độc cứu người đã có hạnh Bồ-tát rồi. Trường hợp tiểu thí chủ biết rằng hút nọc cứu người, mình sẽ chết, mà vẫn hút, quả thực tiểu thí chủ có trái tim Bồ-tát, thành Phật vậy.
Sún Lé chắp tay hỏi:
- Bạch sư phụ, còn chuyện xẻo thịt cho chim ăn nguồn gốc thế nào? Xin sư phụ từ bi dạy cho chúng đệ tử.
Tăng Giả Nan Đà khoan thai giảng:
- Tích nầy cũng lấy trong kinh Hiền-ngu. Chuyện như sau:
"Lại cũng trong thời quá khứ, tại cõi Diêm Phù Đề này, có một vị vua tên Thi Tỳ, ở thành Đề Bà Bạc Đề. Lúc đó nước mạnh, dân giầu. Nhà vua thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông. Nhà vua có hai muôn cung tần, thể nữ, năm trăm hoàng tử, một vạn đại thần. Vua có hạnh từ bi, thương dân như con.
Bấy giờ trên trời, vua Đế Thích gặp lúc năm đức ly thân, sắp tới ngày chết. Khí sắc ông âu sầu. Ông Tỳ Thủ Yết Ma thấy thế hỏi rằng:
- Tâu bệ hạ. Hồi này thần thấy khí sắc bệ hạ kém xưa nhiều lắm. Chẳng hay có chuyện chi? Xin nói cho hạ thần được rõ.

 

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 163
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com