Cho đến khi trời hừng sáng, con beo vẫn còn nằm trên cháng ba chưa leo xuống. Nàng lấy cái nỏ nhỏ trong bọc ra, nhắm ngay con beo buông một phát, mũi tên bắn xuyên qua lưng con beo, quá đau đớn, nó gầm thét lên dữ đội, tụt nhanh xuống, chạy tới tấn công, nàng nhanh chóng cho thêm một phát nữa trúng nhằm vai trái, beo mất thăng bằng, chân trái trước bị ảnh hưởng vết thương, nó phải dừng lại, lấy đà ba chân phóng tới, nhưng đã trễ, mũi thứ ba cắm sâu vào ức nó, khiến nó té lăn xuống đất bún bún mấy chân và hả miệng ra có thở hơi mệt nhọc cố lật mình nằm sấp xuống, trong lúc Thu Hương tiến tới gần quan sát coi nó hết chưa, nhưng nó vẫn còn sức tung lên lần chót vương chân mặt nhào tới mong móc họng nàng, Thu Hương vội né sang một bên, sẵn trớn phóng ra một chưởng vào mạng sườn nó, làm nó lật nhào xuống hộc máu miệng ra, dẫy lên mấy cái nữa mới từ từ im lần chết hẳn trong tư thế nằm sấp bụng xuống đất. Nàng ung dung nhổ ba mũi tên chùi máu vào bộ lông đen mướt của nó cho sạch sẽ, bỏ vào túi nỏ nhét vào bọc hành lý, trở lại con đường cũ gặp ai cũng cho biết con hắc báo đã đền tội rồi. Mọi người chưa tin nên nàng phải dẫn họ đến tận nơi con hắc báo nằm chết cho họ thấy. Họ vui mừng thoát nạn xúm lại bầm thây con hắc báo ra nát như tương mới hả dạ thân nhơn họ đã bỏ mạng bởi nó mà quên đi ân nhân đã rời xa hiện trường trên con đường rừng núi hiểm trở, họ lo đi tìm những bộ xương rải rác gom về lập một ngôi mộ tập thể lo tế lễ xong xuôi mới nhớ chực lại ân nhân, không còn thấy bóng dáng đâu nữa với tư tưởng bội phục cô gái tài ba xuất chúng, thi ân bất cầu báo. Họ vẽ lại bức ảnh truyền thần của Thu Hương tôn kính thờ phượng nơi nhà mồ ngôi mộ tập thể để mỗi lần viếng mộ là mỗi lần chiêm ngưỡng nữ hiệp tế khổn phò nguy cho toàn dân địa phương. Thu Hương tiếp tục con đường đi tới Hải Ninh, hỏi thăm kiến họ Quan cũng hoài công thôi, nên tiếp trở sang con đường hướng về hướng Tây theo quy ước với bào huynh hầu mong có chút ít tin tức gì không? Tới làng Hương Canh thấy ngôi chùa cổ, nơi cổng chùa có tên Tích Thiện Tự, nằm trên đỉnh đồi cao giữa nhiều bản làng người Nùng, nàng vào lễ Phật, cúng dường và tham dự bữa cơm chay thân mật cùng bổn đạo đến cúng chùa. Thu Hương cũng theo những người lễ Phật đến bàn thờ Hậu tổ vong linh, nhiều người tìm bài vị thân nhân đem ra lau chùi sạch sẽ, đem đặt vào y chỗ cũ. Động tánh tò mò, nàng thấy có mấy bài vị cũ nằm sát bên trong vách bàn thờ, bụi bám đầy không ai chăm sóc, hình như lâu đời lắm, có nhiều bài vị giấy đã phai màu mực, chỉ còn lờ mờ nét chữ không rõ, nàng cố gắng đem ra từng cái lau chùi bụi bậm cho sạch sẽ, bất ngờ với cặp mắt tinh anh, nàng thấy lò mò họ Quan, cố gắng dò lần tới tên thấy có Quan Long Thanh, Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương... mới nhớ lại trong gia phả ghi đến đời cao tổ có chi Cao Bá Tổ tên Quan Long Thanh là hết, như vậy có thể Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương là hậu duệ của Quan Long Thanh, để gặp lại bào huynh bàn tính lại mới được, nàng đặt y lại vị trí cũ và cúng lễ hậu hĩ thêm cho quỹ Phước sương của chùa, bái từ quí vị sư vội vã lên đường, không mất thì giờ dò la tông tích kiến họ Quan nữa. Nửa tháng sau đến vùng trận chiến khốc liệt xảy ra giữa hai bản làng, máu vẫn còn vương lại trên những gốc cây tảng đá sầm sì, thi thể đã mang đi hết rồi, lấy làm lạ tìm người hỏi thăm mới biết có trợ thủ Trung Nguyên, tài ba xuất chúng đã giúp bản làng thắng trận vẻ vang, với tên cung kính Quan đại hiệp, hiện ngụ tạm tại Linh Gia Trang, họ chỉ đường đến Linh Gia Trang cho Thu Hương vào xin bái yết Linh Trang chủ. - Kính thưa Trang chủ, bào huynh Quan Thích Đản còn tạm trú nơi đây không? - Quí nương là ai mà biết Quan đại hiệp? - Kính thưa, tiện nữ là bào muội của Quan Thích Đản. - A! Nói vậy quí nương là Quan Thu Hương đấy à? - Đích thị! - Quí nương tìm Quan đại hiệp có việc chi? - Kính thưa, trong chương trình truy tầm kiến họ quá xa Quan, anh em tiện nữ có giao ước ai truy ra tông tích thân nhân họ Quan phải tìm gặp nhau thông báo, nay tiện nữ đã phanh phui ra được, nên vội vã đi tìm bào huynh thông đạt. - Đúng rồi! Quan đại hiệp có cho lão gia biết việc truy tầm kiến họ Quan, nên phải lên đường trực chỉ về hướng Đông cách đây hai ngày rồi. - Kính cảm ơn Trang chủ chỉ dẫn, tiện nữ kính xin giã từ truy tầm bào huynh! - Chúc quí nương thành công! Nàng ngày đi đêm nghỉ, vất vả dặm trường, lòng nơm nớp lo ngại bào huynh đi quá xa khó tìm gặp lại, tới làng Hà Cối, hỏi thăm người ta được biết mới rời khỏi ngày hôm qua, sau khi giết chết con rắn mãng xà phá hại dân làng, Quan thiếu hiệp tới đâu cũng dò hỏi kiến họ Quan thất lạc từ nhiều đời, đã lên đường trực chỉ về hướng Đông. Nàng mừng lắm tức tốc đuổi theo vì đã thâu ngắn được khoảng cách một ngày đường. Tới làng Bình Liêu, hỏi thăm không ai nghe thấy dấu vết của Quan Thích Đản, một thiếu hiệp trang nghiêm oai phong lẫm liệt cả, khiến cho Thu Hương nhớ lại từ hôm rời làng Hà Cối ra đi tới ngã ba, có một ngả quẹo lên vùng rừng núi để đến làng Đầm Hà, như vậy mình đã đi lạc đường sang ngã Bình Liêu, vội vã trở lại ngã ba rẽ sang ngã Đầm Hà, như thế đã làm trễ mất tới ba ngày xa cách. Nàng càng nôn nóng bao nhiêu chân càng bước nhanh bấy nhiêu, vượt suối trèo đèo, leo dốc cheo leo hẻo lánh, chim rừng tỏa cánh bay về tận mút chân trời xa thẫm... Tới làng Đầm Hà, hỏi thăm được biết Quan đại hiệp đã rời nơi đây trên ba ngày, sau khi đã giúp dân bản làng triệt hạ con cọp bạch dữ dằn, họ còn đem khoe bộ da cọp mới phơi khô xong làm kỷ niệm trận tranh hùng cùng ác thú, phần thắng vẻ vang cho Quan đại hiệp. Thu Hương kiên nhẫn hỏi thăm đường đi của bào huynh, bương bả chạy theo mãi. Nhơn ngày rằm trăng tỏ, nàng cố gắng đi cả ban đêm, bóng hình trải dài trên lộ đá sỏi hy vọng thu ngắn quãng đường xa cách, chỉ nghỉ ngơi khi dừng bước ăn uống, vận công điều tức bình phục sức khỏe, lại tiếp tục ruổi rong, nơm nớp lo sợ thất lạc bào huynh truy tầm khó nhọc. Trong lúc đó Quan Thích Đản vẫn thong dong tiến bước và gặp ai cũng hỏi thăm kiến họ Quan, nghỉ đêm dưỡng sức. Một buổi chiều tà đến bìa rừng, nhìn trước sau không thấy khói lam chiều ẻo lả, cảnh vật đìu hiu vắng vẻ, chim rừng bắt đầu về tổ líu lo chuyện trò trên cành cây kẽ lá, Thích Đản chọn một cây cổ thụ, leo lên bẻ nhánh cây kết tum ở cháng ba nằm nghỉ, mơ màng tưởng lại những việc làm vừa qua, mới nhận thấy «Đi một ngày đàng, học một sàng khôn». Có lưu lạc giang hồ, mới rõ cái khốn khó của kiếp sống giang hồ kỳ hiệp, không sướng ích gì, dầm sương dãi nắng, đội gió tắm mưa, nhưng bù lại thu hoạch được nhiều kinh nghiệm quí báu, hiếu biết nhiều phong tục tập quán của từng vùng, với bao ân oán giang hồ, với bao tình cảm đậm đà thắm thiết, nếu không vì sứ mạng thiêng liêng cao cả, nằm trụ với nàng tiên sơn nữ an hưởng, hạnh phúc biết bao! Những trận chiến hãi hùng, máu chảy thịt rơi, đầu bay thây ngã, những cuộc tranh hùng cùng ác thú giúp đỡ dân chúng bản làng tránh tai ương thảm khốc, gây nhiều biệt cảm với sắc dân Nùng, đã trên sáu tháng qua chưa tìm ra tông tích thân nhân, còn em mình không biết bây giờ đi đến đâu rồi, có phanh phui manh mối gì chưa? Bỗng nghe tiếng động chân thú chạy từ xa vọng lại trong bóng đêm mờ mờ, chàng vội vàng tụt xuống gốc cây đứng thủ thế, tay lườm lườm lưỡi gươm bén đề phòng, nhìn trước ngó sau quan sát kỹ lưỡng, mới thấy một con hoẳng chạy hết tốc lực coi bộ gần đuối sức, đàng sau một con beo đen thùi lùi không rõ loại beo gì, đuổi theo ráo riết. Chàng thương hại con hoẳng hiền lành thường bị làm mồi cho ác thú ăn thịt, vọt ra hươi kiếm chận đường con beo, chém một nhát thần tốc vào đầu beo khi nó vừa chớp đến, nó vội nhảy tránh sang bên khi nhác thấy ánh quang kiếm chớp lòe, vô tình tránh được đường kiếm hiểm nguy, nó hoành lại cặp mắt tinh quang xanh lè chiếu thẳng vào Thích Đản, chàng đã có tiêu điểm tấn công, vội phi thân tới chém nhứ một đường kiếm, khiến con beo nhảy sang phía tả để tránh, nhưng nó không ngờ chàng hoành kiếm nhanh nhẹn phạt về cánh tả một nhát, chém bay miếng da trên lưng con beo, miếng da tung lên ra xa, như miếng vải rách bị ném đi. Con beo bị thương máu ròng róng chảy ra, nó điên tiết lên không còn tránh né gì nữa hết, phóng mình vào tấn công ráo riết mong giành thế thượng phong, chàng định thần nhìn kỹ cặp mắt xanh lè làm đích điểm vừa né tránh vừa chém tới tấp vào giữa cặp tinh quang nhiều nhát kiếm, con beo phóng qua phóng lại nên chưa có nhát nào trúng đích, chàng đổi thế, thân mình nó thon dài, bóng đen thậm thọt có thể làm đích điểm hơn cặp mắt, nên chém vào thân mình beo có hiệu quả hơn, một nhát trúng vào cạnh sườn, khiến beo đau đớn nhảy lui dứng thủ thế, không còn hung hăng tấn công nữa. Tương kế tựu kế, phóng tới chém nhứ mấy nhát bên trái, con beo nghe hơi gió nhảy sang bên phải tránh đòn, nhưng chậm mất rồi, lưỡi kiếm bẻ quặt sang bên phải thọc sâu tới, cũng vừa đúng lúc con beo nhảy tới lãnh trọn ngọn gươm vào yết hầu, giẫy lên dữ dội, muốn xệ cánh tay, chàng vội rút mạnh lưỡi gươm ra, nhảy sang một bên tránh đòn cuối cùng của con beo chồm tới vươn móng móc họng với tàn lực, không trúng vào đâu cả chỉ vớ vào vạt áo rách toạc một đường dài, sẵn trớn chàng hoành kiếm thọc mạnh vào hông beo trúng ngay quả tim, khiến nó ngã xuống máu tràn ra run rẩy vài chập và im lìm với thân hình lù lù một đống, đưa tay rờ vào vạt áo bị tét ra làm hai, kéo lên buộc thắt vào lưng, suy nghiệm về một bài học quí giá về vố cảm tử trước khi chết của con beo. Ngồi dựa gốc cây định thần vận chuyển nội lực điều tức lại sức khỏe, đoạn leo lên cây nằm nghỉ, nhìn xuống thấy bóng dáng con hoẳng đã không trốn chạy, còn trở lại đến bên thi thể con beo, sát thủ của nó, ngắm nghía, dường như hả dạ, hay thầm cảm tạ an nhân đã cứu tủ cho nó. Tần ngần một hồi lâu, nó từ từ đi khuất dạng trong màn sương rừng dày đặc. Chàng nằm dưỡng thần và lịm vào giấc ngủ an nhiên tự tại cho tới sáng, những tia sáng thái dương xuyên qua kẽ lá chiếu thẳng vào mặt chàng, giựt nình thức giấc, ngó xuống chỗ con beo chết hồi hôm, không còn thấy xác nó nữa, đinh ninh thân xác đã bị chó sói hay cọp đến tha di mất rồi, cũng chẳng bận tâm, tụt xuống đi tìm dòng suối mát lạnh tươi tỉnh lại, súc miệng rửa mặt, uống vài ngụm nước suối trong vắt, bỗng nhiên chàng có cảm giác như ai đang nhìn trộm mình, vội ngẩng đầu lên, thấy bên kia bờ suối nơi bụi rậm lá cây còn nhúc nhích vội vã lên tiếng: - Kính mời vị nào đó ra mặt để tại hạ thi lễ tương kiến sơ giao. Phía sau bụi rậm từ từ đứng dậy một thiếu nữ nhoẻn nụ cười tươi thắm: - Kính chào bào huynh! - Ồ bào muội! Em làm sao biết anh ở đây mà tìm đến? – Vừa nói vừa phi thân ngang qua dòng suối, đến bên Thu Hương mừng rỡ, bắt tay em hớn hở vui cười. - Em vẫn khỏe khoắn như vầy anh thầm phục em lắm. - Tiểu muội lặn lội theo anh suốt nửa tháng nay muốn hụt hơi, từ bản làng Bình Liêu, chạy theo anh, chỉ sợ lạc bước không gặp anh, hoài công sức vô ích - Như vậy em đã ghé Linh Gia Trang rồi à? - Đúng vậy! Em đi ngang qua bãi chiến trường đẫm máu của hai bản làng kịch chiến nhau nữa. Thiệt anh cũng là tay chọc trời khuấy nước, đi tới đâu làm hùm làm hổ tới đó. Người ta đã nói cho em nghe sạch không trơn, lại còn tôn xưng anh lên Quan đại hiệp nữa, hách dữ vậy sao anh? - Có gì đâu mà hách xì xằng như em tưởng, chẳng qua là ra sức giúp người thôi, cũng để rút tỉa kinh nghiệm giang hồ kỳ hiệp. Còn chuyện của em ra sao mà bỏ đi tìm anh? - Có chuyện em mới lặn lội đi tìm anh chớ. - Chuyện gì nói cho anh nghe coi! - Em đi tới chùa Tích Thiện Tự, tìm gặp những bài vị cũ của Cao Bá Tổ cùng hậu duệ cũng họ Quan mà không được biết vì trong gia phả không có tên. - Có phải Quan Long Thanh không? - Đúng rồi! Em đã từng cùng anh giở gia phả ra thấy ghi tông chi tới Cao Bá Tổ Quan Long Thanh là hết, như vậy tử tôn của Cao Bá Tổ chắc là những người kế tiếp theo các bài vị mà em không biết đến. - Như vậy, chúng mình gấp rút trở về Tích Thiện Tự, truy tầm kiến họ Quan, không cần phải dò la vất vả nữa. Cả hai anh em thẳng đường trở lại Hải Ninh lên tới Tích Thiện Tự vào lễ bái quí sư trong chùa: - A Di Đà Phật! Quí thí chủ đến hành hương tam bảo quí giá vô cùng. - Kinh thưa sư cụ, bài vị Quan Long Thanh ở Hậu tổ vong linh ngày trước có làm tông đồ cho chùa không ạ? - Đúng đấy! Quan Long Thanh ngày xưa là đệ tử bổn đạo của chùa, thường lo tiếp giúp trùng tu, làm công quả, con cháu tiếp nối Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương vẫn tiếp tục công quả đắc lực cho chùa, nên sau khi mãn phần, nhà chùa đưa linh và đem bài vị về thờ nơi Hậu tổ vong linh. - Bạch sư cụ, gia đình họ Quan ở đâu, xin chỉ giùm? - A Di Đà Phật! Nhà rất dễ tìm, nội vùng nầy chỉ có Quan Gia Trang là cổ kính hơn hết, cố cựu nhứt, nhị vị hỏi ai cũng biết danh tiếng kiến họ Quan khí phách hùng anh đã từng giúp dân bổn địa trừ khử cướp bóc được mọi người kính nể, chỉ cách đây hai mươi dặm về phía Tây Nam, tuy nhiên ít người bén mãng đến do có nhiều thú dữ và độc xà cùng con quái long dữ tợn. Dân chúng bản địa kính cẩn Quan Gia Trang lắm vì quí vị họ Quan đều là những anh hùng hảo hớn, cứu khổn phò nguy, danh tiếng nổi như cồn. A Di Đà Phật! Kính chúc nhị vị thí chủ thành công!
V. Quái Long Đầm
Hai anh em từ giã nhà chùa, theo hướng Tây Nam trực chỉ, đi mới trên mười dặm đường, nghe tiếng cọp hùm béo dữ dội, không hẹn cả hai cùng nhanh chóng phóng mình về phía cọp gầm, qua khỏi rặng cây rừng, đến bờ đầm, thấy một cô thôn nữ đang lả lướt quần thảo với cọp như đùa giỡn. Cô gái tránh né những vố chụp, móc, hoành, vồ của cọp thần tình và nhanh nhẹn, tà áo phất phơ theo từng động tác thao diễn ngoạn mục. Thu Hương toan nhảy vào tiếp tay thanh toán gấp cuộc chiến, nhưng Thích Đản ngăn lại ra dấu chờ xem. Thích Đản ngạc nhiên không thấy cô gái hạ độc thủ, cố ý giỡn chơi với cọp giống như Linh Bửu Ngọc lúc trước, khiến cọp điên tiết lên gầm gừ dữ tợn, như muốn xé tan cô gái ra trăm mảnh, cô gái vẫn ung dung né tránh mãi thật là tuyệt kỹ, thân mình uốn lượn tới lui quanh con cọp như mèo vờn chuột, không lộ vẻ gì mệt nhọc cả, vội buộc miệng khen: - Hảo thủ! Xứng danh nữ kiệt núi rừng đả hổ! - Ai đó! Xin đừng động thủ, để bản cô nương bắt sống đem về dùng kê toa thuốc dầu thang phục dược cho mẫu thân. - Quí mẫu đau bịnh gì mà phải có cọp kê toa thuốc, xin cô nương cho biết, để có thể giúp cô nương hoàn thành sở nguyện. - Thân mẫu bị chứng huyết khiếm do trúng độc trùng cần phải có hổ huyết trợ dược diệt độc trùng. - Á ra thế! Tại hạ cảm phiền cô nương tha cho con cọp sống lập thiện duyên chữa trị bịnh của quí thân mẫu. - Các hạ có phải là Hoa Đà tái thế không mà dám làm chuyện cải tử hoàn sanh cho nhơn thế? - Hoa Đà đâu không biết, tại hạ có bầu Long Đàm Mật quí hiếm với y lý trị liệu Trung Nguyên, xin cô nương tha cho con cọp đi, tại hạ nguyện giữ đúng lời hứa «Nhứt ngôn ký xuất, tứ mã nan truy» của nam nhi chi chí! - Như vậy, bản cô nương bằng lòng tha cho con cọp nầy nhút phen theo lời thỉnh cầu của các hạ. – Tự nãy giờ vừa đối đáp vừa đối phó với cọp tránh né nhanh nhẹn qua đường tơ kẽ tóc. - Nè! Tránh mắt ta cho rảnh! – Vừa nói vừa tống một phi cước vào mong con cọp, nó hộc lên một tiếng lớn té lăn quay vòng ra phía trước hoành thân đứng vững ngó đối thủ với cặp mắt đỏ ngầu giận dữ sùi bọt mép, gầm lên một tiếng phóng chạy biến vào rừng mất dạng. - Phước đức vi chủ! Cô nương đã gieo hạt giống thiện điền, thời cô nương sẽ hướng phước điền là lẽ đương nhiên. - Kính thưa nhị vị! Giáng lâm có điều chi chỉ biểu? - Có chuyện phải hỏi, vô sự hơi đâu lo chuyện bao hàm. Xin lỗi cô nương, tại hạ Quan Thích Đản, còn em gái Quan Thu Hương, quê quán ở Hà Bắc lãnh sứ mạng truy tầm thân nhân thất lạc đa lâu đời, kính xin cô nương niệm tình chỉ cho biết Quan Gia Trang ở đâu để chúng tôi đến xin bái yết và nhờ hướng dẫn truy tầm thân nhân. - Bản cô nương cũng họ Quan tên Long Thùy Ninh, còn thân phụ tên Quan Long Định, kính mời nhị vị vui lòng cùng bản cô nương về Quan Gia Trang. Hân hạnh! Nói xong Thùy Ninh vọt mình đi trước, hai anh em khinh thân nối gót theo sau, trong khoảnh khắc, cả ba về tới cổng Quan Gia Trang, một cảnh trí đẹp vô cùng trang nhã. Gia trang nằm cạnh một dòng suối, lơ ngơ tơ liễu dài theo hai bờ rũ nhành thướt tha, soi bóng rập rờn tạo thành một bức tranh thủy mạc tuyệt vời bao quát cả rừng núi chập chững phía sau, với nhịp cầu nho nhỏ bắt ngang qua rọi bóng lung linh xuống dòng nước chảy lững lờ thoáng qua, những con cá vàng bơi lội nhởn nhơ thong dong đớp mấy cọng rong rêu bám noi dòng suối với vẻ vô tư lự, thỉnh thoảng vài bóng chim chằn chài xanh biếc phóng xuống, như mũi tên xẹt, làm mặt suối lăn tăn gợn sóng rập rình luôn bóng dài của hàng dương liễu rủ cành soi bóng nước. - Phong cảnh hữu tình thơ mộng quá! Quan Gia Trang ở Hồ Bắc chỉ bằng một góc ở đây thôi! - Các hạ quá khen, nơi quê mùa sơn dã, làm gì dám sánh cùng thập tuyệt Trung Nguyên. – Thùy Ninh huýt sáo ra hiệu - Hơn nữa lại bé nhỏ làm sao so bì với Quan Gia Trang của các hạ? Vệ sĩ ra mở cổng, cúi mọp kính chào nữ chủ cùng tân khách, hai anh em vội vàng thi lễ đáp lại. Vào bên trong, đường đi trải đá sỏi trắng, cẩn đá riềm bờ với những luống hoa tưng bừng rực rỡ chào đón ánh dương quang, tỏa hương thơm thoang thoảng, làm ngây ngất lòng viễn khách. Vào nhà, phân ngôi chủ khách mời ngồi, gia nhân rót trà thết đãi, xuất hiện một ông lão quắt thướt bước ra tươi cười, hai anh em vội vã quì xuống thi đại lễ: - Chúng con xin bái yết tôn nhân! - Ha! Ha! Lão phu đức bạc tài hèn, đâu xứng cho nhị vị khiêm nghinh đại lễ, không dám, không dám... kính mời! Hai anh em bình thân đứng đợi cho ông lão an vị, mới nhỏ nhẹ ngồi xuống thủ lấy khoanh tay thưa: - Kính thưa tôn nhân, chúng con lặn lội đường xa ngàn dậm truy tầm tông tích thân nhân thất lạc đã lâu đời, nay được biết tôn danh Quan Long Định, chẳng hay tôn nhân, xin lỗi, có biết Quan Long Thanh không? - Quan Long Thanh là tằng tổ của lão phu. - Như thế tôn nhân là bá phụ của chúng cháu đây. Kính xin bá phụ vui lòng nhận đại lễ ra mắt của hậu sinh. Hai anh em bước xuống thì thụp lễ bái tám lễ trang nghiêm. Long Định vui mừng vuốt chòm râu bạc dễ hả lắm, đưa hai tay ra đỡ hai anh em Thích Đản lên: - Hai cháu có lòng truy tầm thân tộc, thật là quí giá lắm thay! - Thưa cha! Con đã sắp đặt yến tiệc xong, con cũng đã thông báo thân mẫu, thân mẫu vui mừng lắm, tươi tỉnh lại, đang chuẩn bị ra bàn tiệc cung hỉ thân nhân quyến tộc. - Kính thưa bá phụ! Xin phép cho chúng cháu vào bái yết bá mẫu, vấn an và có thể quan sát hiện trạng bệnh tình của bá mẫu ra sao để kịp thời cứu chữa. Chữa bịnh như chữa lửa, còn yến tiệc chừng nào chả được. - Các cháu muốn thế cũng tốt thôi, cứ tự tiện. Thùy Ninh con đưa hai em vào vấn an mẹ con đi. - Dạ thưa vâng! Thùy Ninh dẫn hai anh em vào hậu liêu tiến đến cửa phòng mẹ, gõ cửa nhè nhẹ chờ lịnh. - Ai đó? - Dạ thưa con và hai em con vào vấn an thân mẫu. - Cứ tự nhiên! Cả ba bước vào phòng, sực nức mùi quế khâu ấm cúng, một bà lão tiều tụy, da nhăn nhíu, má cóp, đầu tóc bạc phơ lưa thưa, tay chân run bây bẩy, chỉ còn cặp mắt linh động chứng tỏ đã từng là nữ kiệt oai hùng trên rừng núi. - Chúng con kính chào mừng bá mẫu! Cả hai thì thụp đại lễ sáu lễ kính nghiêm, Thùy Ninh khoanh tay ứng hầu bên mẹ. - Các cháu quá tận tâm đại lễ, già càng ái ngại muôn phần! Thôi hãy bình thân. - Kính thưa bá mẫu, xin bá mẫu nằm xuống cho phép cháu chẩn mạch, tìm hiểu triệu chứng bịnh tình do chị Thùy Ninh đã nói cho cháu biết, vì cha cháu đã truyền ngả võ y trị liệu cho cháu và quí dược Long Đàm Mật. Thùy Ninh vội đỡ mẹ nằm xuống, lấy gối nhỏ đặt bên cạnh, kéo cánh tay còn da bọc xương, nổi gân máu chằng chịt trông thảm não lắm, đặt lên đấy để cho Thích Đản ngồi xuống ghế chẩn mạch hết sức kỹ lưỡng. - Kính thưa bá mẫu, độc trùng đang hoành hành trong huyết mạch của bá mẫu tới hồi dữ dội, chúng đã tiêu diệt hồng cầu và bạch cầu nhiều quá, chúng đang tiến dần về tim, xin bá mẫu sau khi uống thuốc Long đàm xong, để đại tỉ và em cháu đỡ bác ngồi dậy cùng tiếp với cháu chuyền công lực sang tẩy trừ độc trùng phụ hoa với thuốc mới chóng bình phục. Chàng liền lấy chai Long Đàm Mật ra, nhờ Thùy Ninh lấy cái chung nhỏ rót ra chín giọt, hòa với thuốc tán mang theo sẵn, mùi thơm của Long đàm mật tỏa rộng ra át cả mùi quế khâu, khín bà lão thở ra hít vào nhẹ nhàng, không còn khó nhọc như trước, Thùy Ninh lại chạy đi lấy chai rượu ngũ gia bì tửu chế vô hòa cùng với thuốc cho lỏng ra, đưa vào miệng bà lào uống hết, lại còn tráng sơ cho hết thuốc trong chung bằng nước trà sâm uống thêm. Thích Đản ra dấu cho hai chị em đỡ bà lão ngồi dậy, mỗi người vận nội lực truyền công lực vào hai huyệt Song Long ở bả vai, còn Thích Đã vận toàn bộ công lực chuyền vào huyệt Kiên Tĩnh sau lưng ngang với trái tim. Cả ba luồng chân lực chuyển vào huyệt mạch đẩy thuốc chuyển đi từ bao tử qua ruột non, xuyên qua hấp khẩu di chuyển trực tiếp vào huyết mạch chạy khắp châu thân, tấn công mãnh liệt độc trùng, khiến bà lão cảm thấy toàn thân một luồng điện gợn sóng tới đâu biết đến đó, tức là thuốc nhờ hùng lực tấn công, xung kích độc trùng từ ổ nầy đến ổ khác khắp ngũ tạng lục phủ làm cho da thịt và tay chân mình mẩy bà lão giựt lên từng cơn, lúc đầu còn nhiều, từ từ giảm dần cho đến lúc yên tịnh trở lại, độ một khắc sau nữa toàn thân mới thoái mái, bà lão không con uể oải nữa, mở mắt ra mỉm nụ cười tuy héo hắt nhưng đầy thỏa mãn, độc trùng không còn hoành hành trong cơ thễ nữa. Thích Đản ra dấu cho hai chị em ngưng chuyền nội lực, rút tay ra, để chàng điều nghiên lần chót, đến khi nhận thấy huyệt mạch điều hòa, mới ngưng truyền nội lực, rút tay ra, ra dấu cho bà lão nằm xuống tịnh dưỡng. Cả ba đều qua phòng khác ngồi vận công điều tức lấy lại công lục trong hai khắc mới ngưng. Bà lão vui mừng ngồi dậy, xỏ chân vào đôi hài đi chầm chậm tới bên Thích Đản đã đứng dây: - Bác thành thật ngợi khen y tài của cháu không thua Hoa Đà. - Dạ, bá mẫu dạy quá lời, cháu đâu dám sánh cùng Hoa Đà bậc danh y? Trong lúc đó, Long Định cũng vừa bước vô tới, thấy vợ thoát qua cơn bịnh ngặt nghèo, mừng lắm, nắm tay khen rối rít kéo qua phòng ăn nhập tiệc, đồng thời bà lão cũng cùng hai chị em Thùy Ninh vui vẻ ngồi vào bàn tiệc chuyện trò thân mật. - Thưa bá phụ, ở Tích Thiện Tự có những bài vị Quan Long Thanh, Quan Long Hiệp, Quan Long Mỹ, Quan Long Xương vai vế thân tộc ra sao? - Quan Long Thanh, Tằng tổ của bác, Quan Long Hiệp, Tổ phụ, Quan Long Mỹ, thân phụ, Quan Long Xương, bào huynh. - Thưa bác, trong gia phả Quan Long Thanh, Cao Bá Tổ của cháu, còn Quan Thích Nghi, Tằng tổ là hậu duệ bốn đời của Quan Long Tùng. Bác có nghe di tích của ngài Quan Long Tùng để lại cho con cháu không? - Khi thân phụ còn sinh tiền có cho biết dòng họ ở Trung Nguyên, khi xưa ở Nam Kinh vì bị giặc giã bỏ chạy di đâu thất lạc, không tìm về được nữa, nên Tằng tổ phải về lập thêm Quan Gia Trang nầy để làm tròn sứ mạng nhận lãnh từ thời Tổ phụ của ngài Quan Long Thanh, tức là Quan Long Điệp, trưởng nam của ngài Quan Long Tùng. Theo đúng sứ mạng là canh giữ bí mật kho tàng chôn giấu khi sang làm quan ở An Nam Quốc, bị Bình Định Vương An Nam Quốc đánh đuổi gấp rút quá, không thể chuyển tài sản về Trung Nguyên kịp, tính ra tới nay trên bốn trăm năm, phải lập ra kho tàng kỳ bí và để con ở lại gìn giữ, tính sau nầy sang khai quật mang về thụ hưởng cho toàn kiến họ Quan. - Thưa bác, theo lời gia truyền, kho tàng có Bí Mật Đồ hết sức kỳ bí đã giao cho ngài Quan Long Điệp gìn giữ. Nhưng vì cuối đời nhà Minh, giặc Mãn Châu tiến đánh thất lạc tông tộc, cho tới bây giờ kho tàng vẫn nằm yên tại chỗ, Bí Mật Đồ do ngài Quan Long Điệp cất giữ, bây giờ ra sao? - Theo chỗ bác biết, Tằng tổ Quan Long Thanh khi về Trung Nguyên tính giao trả Bí Mật Đồ cho trưởng tộc kiến họ Quan để khỏi phải canh giữ nữa vì quá khốn đốn với người ngoại cuộc, nhưng không gặp ai cả, đành mang về cất giấu kỹ Bí Mật Đồ, có làm những dấu hiệu đặc biệt di chúc phải lưu truyền cho con cháu biết để sau nầy gặp lại tông tộc cùng nhau khai quật đem về làm gia bảo, giúp đỡ kiến họ chấn hưng lên hầu giữ phẩm giá trong xã hội. Sứ mạng nầy rất đặc biệt thêm là thực thi kế hoạch bảo quản kho tàng tuyệt đối bí mật, nuôi rắn độc, hổ báo vòng ngoài để bảo vệ kho tàng chu đáo. Đến nay rắn độc đã làm hang ổ chung quanh bên trong, còn bên ngoài, những đàn cọp beo, heo rừng hung tợn không cho ai bén mãng đến vùng cấm địa. Đã có nhiều người bỏ mạng khi cố tình hay vô ý đến vùng cấm địa của kho tàng. - Nói vậy kho tàng ở gần đây thôi à? - Đúng vậy! Nhưng còn vào tới trong là bỏ mạng với thiên linh cái, ma chành, thần tài giữ kho tàng. Chính bác cũng chưa dám bén mãng đến nữa, có lần theo gót thân phụ, bác thấy xương người rải rác, ngán lắm. Vùng nầy ít người đi săn bắn, hay du hành ngang qua, họ phải tránh xa đi vòng qua ngã Hải Ninh, nếu muốn liên lạc giữa Lạng Sơn và Móng Cái. Hôm sau, trong lúc uống trà đàm đạo chuyện thân tộc, Thích Đản cầu xin với Long Định dẫn đi tìm bí mật đồ. Cả hai bác cháu lặn lội ra đi từ sáng sớm, theo triền núi đi dốc lên những mỏm đá cheo leo tới một cái đầm rộng có rất nhiều sen mọc rải rác gần bờ đang chuẩn bị sang hè trổ bông. Đầm rộng lớn nằm giữa những dãy núi cao vút, nhiều nơi trên mặt có mọc như trên mặt đất, với những bụi cây nho nhỏ, thường là bẫy cho những con vật háo mồi ra xa bị lún xuống chết làm mồi cho cá. Ở đầm cá rất nhiều, không ai dám đến câu hay đánh lưới do ác thú, rắn độc thị uy dữ dằn. - Cháu nên nhớ, mặt đầm trầm lặng, đừng tưởng nó hài hòa, vì còn con quái long do tiên tổ nuôi dưỡng đến nay trên bốn trăm năm, to lớn lực bạo khủng khiếp, thỉnh thoảng nó trườn lên bờ đầm rình bắt thú vật rừng kiếm ăn quanh bờ hay ra uống nước kể cả ác thú và voi nữa. Biết bao người táng mạng với nó nơi bờ đầm, do lòng tham muốn chiếm đoạt kho tàng hay du ngoạn hoặc săn bắn, cho nên người ta gọi là Quái Long Đầm và kiêng nể lắm, vì chưa có ai chống trả nổi quái long nầy. Thân thể nó to lớn dềnh dàng với lớp vẩy cứng bao phủ như tấm giáp sắt, đao kiếm không thủng qua được, chỉ có hai mắt và các nách, háng da mềm hơn thôi, móng vuốt và răng bén nhọn dễ sợ lắm, nội lực nó có thể lên tới mấy trăm thành công lực của con người, không thể quật ngã nó được. Hơn nữa cái đuôi có thể quật mạnh làm gẫy cây cối, rủi trúng ai kể như bỏ mạng.