Mặt trời từ từ hạ xuống thấp, cách ngọn núi Tây chừng nửa con sào. Sương mờ đã bắt đâu dâng lên, xoá dần những vùng nắng chiều loang lổ trên ngọn cây đỉnh dốc. Cả một miền biên giới hoang sơ quạnh vắng chìm mau trong ánh hoe vàng và vùng không gian cô tịch thỉnh thoảng lại dao động vì những tiếng gà rừng eo óc, buồn tênh. Đột nhiên, giữa cảnh im lìm của núi đồi biên giới, chợt bật lên nhưng tiếng động gấp gấp. Tiếng vó ngựa khua mạnh trên đường mòn sạo gợn, khô cằn, chuyển nhanh về nẻo biên giới Việt... chợt nổi, chợt chìm giữa hẻm núi. Thoáng cái trên đỉnh đèo cao ở phía biên giới, vụt nhô ra hai bóng người cưỡi ngựa, in vào nền trời úa hai hình thể lắc lư, sừng sững, trong nắng chiều. Xuống tới chân đèo, hai người lại mải miết cưỡi ngang qua một giải thung lũng hẹp, vượt lên một ngọn đồi đất mới ngừng lại cách nhau chừng nửa đầu ngựa. Người trước là một ông già Việt, chừng ngót sáu mươi, mặt quắc thước, mắt sáng, râu năm chòm, khổ người béo lẳn ẩn sau bộ quần áo chàm xanh. Chân lão đi giày tàu vải, súng lục đeo ở hai bên sườn, bên trái giắt thềm một con dao thổ rừng bao khảm. Người cạnh sau là một người gốc Hoa tuổi khoảng bốn mươi, mắt diều hâu râu quai nón, mặt mũi coi có vẻ dữ tợn, nhất là có một vết sẹo chạy dài từ thái dương tới quai hàm trái, hằn lên như chiếc đũa, trắng bóng trên nền da sạm nắng. Người này cao lớn vạm vỡ, cũng mặc quần áo chàm xanh, đeo bên sườn một khẩu pạc hoọc lớn, vai lại còn khoác chéo một băng đạn và ngay bên yên ngựa còn giắt thêm một khẩu súng trận, ngoài ra còn hai cái sắc khá to buộc trên lưng ngựa ô. Cả hai người yên lặng trên yên, đảo mắt nhìn khắp vùng biên giới đầy bất trắc. Lát sau ông già Việt quay bảo người gốc Hoa: - A Voòng à! Đang mải nhìn về phía sau lưng, nghe bảo, hắn vội quay lại: - Dạ đại vương... Hắn chợt dừng phắt lại, chớp mắt nhìn ông già có dáng e sợ vì lỡ lời. Nhưng ông già chỉ hơi đưa mắt một cái đoạn chỉ tay về phía thung lũng trước đầu ngựa. - Hình như đã tới vùng cỏ phân mao rồi thì phải? A Voòng Lầu! Voòng nhìn theo, nói luôn: - Dạ phải! Ông già khẽ gật đầu, đoạn im lặng nhìn về nẻo đất Việt, đôi mắt trở nên bâng khuâng, sâu thẳm. Không thấy ông già nhúc nhích, Voòng Lầu cũng ngồi im nhưng thỉnh thoảng lại đảo mắt nhìn quanh mình, có vẻ nóng ruột... bồn chồn... Hắn khẽ lên tiếng: - Thầy à! Ta vượt thôi, khỏi chờ tối. Ông già quay nhìn người thuộc hạ, rồi lại quay về nẻo cũ, đứng im. - Thầy à... Đây là đất nhiều giặc cỏ lắm. Ta không nên ở lâu... Ông già chưa kịp trả lời thì đột nhiên, một tiếng súng từ phía trước mặt nổi lên, tiếp theo là từng loạt súng dồn dập tới. Hai người vội nheo mắt, lắng tai nghe: - Tiếng súng từ bên kia biên giới. Nhiều tiếng pạc hoọc lắm. Có lẽ tụi giặc Thoòng... Vừa nói, Voòng Lầu vừa nhích ngựa lên cạnh ông già. Hắn rút phắt trong sắc ra một cái ống nhòm nhỏ, trao cho ông già Việt. Lão hướng về phía súng nổ chát chúa quan sát, đoạn trao ống nhòm cho Voòng: - Đánh nhau lớn. Có quân tuần chạm súng với thổ phỉ! Tiếng súng vọng về mỗi phút một thêm nhiều, quật vào những vách đá, vang truyền đi, náo động. Ông già đảo mắt nhìn địa thế, đoạn xốc nhanh lại bao súng, chuyển tay cương: - Để ta xuống xem sao? Nhưng người thuộc hạ vội giơ tay cản: - Để tôi! Thầy cứ đứng đây! Dứt lời, hắn đánh ngựa xuống đường mòn, phóng về nẻo thung lũng có tiếng súng nổ. Trên ngọn đồi, ông già cho ngựa nhích khuất sau một cành lá um tùm và nhìn về phía thung lũng, đợi chờ, khuôn mặt như không có vẻ xúc cảm. Chỉ mươi phút sau, Voòng Lầu đã phóng ngựa về nói nhanh: - Thầy ạ! Bọn giặc Thoòng. Bên kia hình như không phải lính tuần. Tôi nghe tiếng quát toàn tiếng Việt. Ông già khẽ hất hàm: - Bên nào bị đánh? - Có lẽ bọn nào đó bị giặc Thoòng phục đánh. Bọn chúng đông lắm, phải đến hàng trăm. Hai thầy trò lại im nghe. Tiếng súng dội lên và đột nhiên thưa dần. Ông già mím chặt vành môi, mắt thoáng như bốc cháy. - Một bên tháo chạy rồi. Súng nổ đuổi về nội địa Việt, có lẽ Thoòng... Đang nói, lão ngừng phắt và nói gọn: - Xuống cả! Như đã quen đoán những quyết định trong óc chủ, Voòng rút phắt súng trận cầm tay và thúc mạnh gót chân vào hông ngựa, cùng lúc, hai con vật chồm lên, và Voòng lao đi trước. Vó câu khua động rừng chiều, gấp gấp, vượt qua đường mòn liến về phía biên giới. Vào sâu nội địa Việt Nam, hai người cho ngựa băng rừng, vào một đường mòn vắt qua một hẻm núi đá dựng như thành. Vừa lúc đó, tiếng súng phía trước chợt thưa dần rồi im bặt. Đang đi, Voòng Lầu dừng phắt ngựa lại, ngoảnh mặt lại phía sau. Đánh ngựa lên sát bên Voòng, ông già Việt vội ghìm cương, lắng tai nghe đoạn đưa mắt nhìn quanh. Rừng chiều đã trở lại cảnh im lặng mênh mông và hoàng hôn đang đổ mau xuống vùng biên giới. Voòng chỉ tay xuống đường mòn đầy dấu chân ngựa giẫm nhầu cỏ dại: - Quân Thoòng vừa kéo qua đây, a thầy! Chúng phục đánh ngay bên kia hẻm núi! Ông già lặng lẽ cúi nhìn vùng cỏ nát dưới chân ngựa, đoạn ngoảnh mặt về phía trước: - Súng im hẳn, chắc bọn chúng đang rút về nẻo khác rồi. Người thuộc hạ vội trỏ hướng Tây Bắc chếch, đầu gật luôn mấy cái: - Da.... da..... Lối đó có đường xuyên núi về Tàu gần lắm a thầy! Ông già hơi gật đầu không đáp, liền giật mạnh tay cương cho ngựa tiến qua hẻm núi. Tới chỗ hai bên mở ra thoai thoải, ôm lấy một vùng cỏ nhàu nát loang lổ máu tươi, ông già quay bảo người bộ hạ: - Đám bị phục đánh có lẽ bị tử thương nhiều, a Voòng! Người bộ hạ đưa mắt nhìn những vung máu loang trên cỏ, chưa kịp nói, thì ông già đã tiếp luôn: - Đón đường rút của bọn giặc Thoòng xem sao? Hình như đã quen với những quyết định chớp nhoáng của người trên, Voòng vội đảo mắt một vòng quan sát nhanh địa thế đoạn thúc ngựa vượt lên trước, ra ngoài hẻm, phóng thẳng lên một ngọn đồi khá cao, ngay phía trước. Hai người ghé sát bên nhau, Voòng đưa tay chỉ trỏ về nẻo Tây Bắc, mấy khắc sau, hai con ngựa bỏ đường mòn, tắt qua thung lũng, quay đuôi lại hướng Nam, băng rừng xuyên sơn. Khi hai người đảo sâu vào nội địa chừng hai cây số, thì mặt trời đã gục hẳn xuống bên kia ngọn núi Tây từ lúc nào và những tia nắng tàn cũng tắt hẳn trên đỉnh dốc. Sương lam lên dày đặc và không gian đả bôi nhọ mặt người. Tới một vùng núi đồi trùng điệp, dựa lưng vào một thung lũng hẹp, Voòng Lầu dừng ngựa bảo ông già: - Trước mặt đây là con đường về sào huyệt bọn Thoòng. Chắc chúng sẽ qua đây. Ông già quan sát quanh mình, đoạn gật đầu bảo thuộc hạ: - Chỗ này đắc địa lắm? Đường cách bao xa? - Dạ, chỉ vài mươi thước thôi. Nếu ra nấp sườn hẻm có thể nhìn chúng qua trước mặt. Ông già nhảy phắt xuống đất: - Dắt ngựa buộc sau chỗ khuất. Nếu cần ta có thể luồn rừng, phục đánh chúng. Voòng Lầu ngó chủ, hơi ngạc nhiên về ý định của ông già nhưng vẫn lanh lẹ xuống ngựa, tìm chỗ buộc, đoạn theo sau lão, súng trận cầm tay. Tới sườn núi thấp, hai người tìm chố hốc đá ẩn kín, ngay khúc ngoặt, cách đường trước mặt chỉ độ mươi thước. Bốn bề im lặng sâu thẳm. Sương bốc mau căng bóng đêm. Con đường mòn trước mặt chỉ còn là một vệt mờ ẩn hiện trong cảnh tranh tối tranh sáng. Và bóng tối sụp xuống, trùm hết núi rừng. Không có tiếng động nào khác ngoài tiếng lá rì rào lẫn tiếng trùng đêm rên rỉ. Ông già có vẻ nóng ruột: - Sao lâu thế? Hay chúng không về đường này? - Thầy khỏi lo. Tôi thuộc khắp miền, nó sẽ đi qua đây mà. Ta đi tắt, tới trước hàng nửa giờ đó, a thầy. Ông già toan nói, chợt im. Như đáp lời Voòng, vừa khi đó, phía trước bỗng nổi lên tiếng vó câu khua rầm rập. Và không lâu, ánh lửa hắt lên sườn cây, rừng rực. Voòng Lầu thấp giọng: - Giặc Thoòng! Hình như đông lắm! Ông già không đáp, vẫn chăm chú nhìn về phía ánh lửa. Chỉ thoáng sau ánh lửa đuốc sáng rực đá ra khỏi bóng cây và hai thầy trò ông già đã trông thấy đám đông người ngựa lố nhố đi dưới ánh đuốc đỏ khè, tiến dần về phía hai người. Bọn giặc tới thật gần, cười nói líu lo, khi chúng tiến sát đến gần chỗ hai người nấp, thốt nhiên tên đi đầu giơ tay làm hiệu về phía sau, cho cả bọn dừng lại. Đoạn, tên đó chiếu đèn bấm loáng loáng khắp hai bên sườn núi, rồi mới ra hiệu cho đồng bọn tiến lên. Mấy chục tên thổ phỉ cưỡi ngựa đi trước chậm chạp tiến qua họng súng. Ông già ghé sát vào tai Voòng Lầu thì thầm hỏi: - Chủ tướng chúng là tên nào? Có phải tên cưỡi ngựa đen không? - Dạ không phải đâu! Chắc Thoòng đi phía sau. Đang nói, chợt Voòng Lầu khẽ giật tay ông già: - Thầy coi kìa! Lúc đó, ông già mới nhận ra, có mấy tên dắt ngựa, trên yên có mấy người bị trói ngồi chặt. Mấy người đàn ông kẻ mặc âu phục, người quần áo thổ, thảy đều bị thương, mặt mũi lem lước Và sau tốp đàn ông, là một cô gái quần áo tả tơi, môi mím chặt, mắt sắc như dao, vẻ mặt khinh khi giận dữ. Thoạt nhìn, đã nhận thấy ngay cô gái có một vẻ đẹp lạ lùng. Tuy bị bắt trói ngồi trên lưng ngựa, cô gái không hề lộ vẻ gì sợ sệt và những nét kiêu hãnh bướng bỉnh vẫn toát ra từ khuôn mặt, dáng dấp khác thường. Ngay xế sau lưng thiếu nữ là một gã xạ phang râu xồm, mặt mũi trông dữ tợn ngang tàng, hai tay luôn luôn tung bắt hai khẩu pạc hoọc trông rất thiện nghệ. Sau gã, là đoàn ngựa thồ những bọc hàng lớn, kế là toán quân hậu tập. Cả bọn rầm rập tiến qua. Tới giữa hẻm núi, gã xạ phang râu xồm tiến ngựa lên phía trên cô gái bị bắt, nói một tràng tiếng Quan Hỏa và đột nhiên xả luôn mấy phát đạn về phía hai bên sườn núi. Nấp sau gốc đá, Voòng Lầu khẽ bảo ông già Việt: - Giặc Thoòng đó, a thầy! Ông già hơi cười chậm rãi: - Coi bộ thằng tướng thổ phỉ này đa nghi như Tào Tháo và kiêu ngạo về tay súng lắm! - Dạ. Bọn lạc thảo khắp vùng này đều gọi nó là “Đại Vương Pạc Hoọc” mà! - À ra thế! Ông già Việt vừa buông lời, Voòng Lầu chỉ kịp thấy một cánh tay lão thoáng khoa lên trong bóng tối, ngọn súng đã lóc như chớp giật, nhìn ra đã thấy khẩu súng của tướng thổ phỉ vừa tung lên đã bị hắt rơi xuống chân ngựa, còn bàn tay hắn đang xòe ra bắt... không khí. Tiếng súng từ hẻm núi bật lên, cả bọn giặc còn đang giật mình, đứng sững, chưa hiểu đầu đuôi, thì viên tướng rừng xanh đã vùng chột dạ, vừa thẹn, vừa tức, hắn đảo mắt nhìn lên và chỉa phắt tay súng trái toan xả vào chỗ phát ra tiếng súng. Nhưng tay hắn vừa vung lên, thì từ hang núi, một tia chớp lại lóe lên và bàn tay trái Thoòng bị đau dội thình lình như bị dùi đâm, khẩu pạc hoọc rụng luôn xuống đất. Biết gặp địch thủ, tướng Thoòng vội lẩn xuống nấp sau sườn ngựa, miệng quát lớn: - Có quân phục! Tắt đuốc đi! Nhưng từ vách núi, từng loạt đạn đã xả xuống đám quân Thoòng, khiến mấy tên nghã gục luôn. - Tắt đuốc mau! Tiếng tướng Thoòng quát lớn, qua mấy giây bàng hoàng những ánh đuốc mới tắt phụt, bọn thổ phỉ bắt đầu phản ứng luôn, bắn xối xả vào chỗ hai người nấp. - Vắt đầu, vắt đuôi lên sườn núi! Chúng bây! Quân phục không nhiều đâu! Mau lên! Trong bóng tối giữa tiếng súng nổ đạn reo, tiếng viên tướng thổ phỉ khẽ rít lên truyền lệnh cho bộ hạ, gấp gấp. Nhưng sau hốc đá, tiếng súng đã im bặt. Và khi đám quân Thoòng từ các ngả đánh thốc lên, chỉ còn gặp hốc đá vắng không. Ánh đuốc lại bật lên sáng rực cả một vùng. Tướng Thoòng ôm bàn tay bị đạn, nhìn những vỏ đạn rơi vãi khắp hốc núi, mắt giận muốn nảy lửa, răng nghiến chặt vào nhau: - Chỉ có mấy đứa! Hừ chúng đã rút mất rồi! Tụi nào lớn gan thật! Hắn đưa mắt vọ trừng nhìn đám bộ hạ xúm quanh và bất giác ngó về phía bọn người bị bắt. Vẫn ngồi trên lưng ngựa, thiếu nữ thấy bộ điệu của “Pạc Hoọc Đại Vương” chợt phá lên cười chế nhạo. Thoòng giận sôi lên, toan rút súng ra, nhưng nghi thế nào, hắn lại cố nén, quay đi khoát tay ra lệnh cho bộ hạ lên đường. Cả toán lại noi theo lối đường mòn, len lỏi giữa rừng sâu, tay súng lăm lăm, mặt mũi lầm lì dưới ánh đuốc. Trong đêm rừng hoang vắng chỉ có tiếng vó ngựa khua trên mặt đá dăm. Thoòng đi giữa đám bộ hạ, mắt luôn đảo nhìn khắp vùng, tới chỗ hơi khả nghi là vội cho quân tiến trước dò xét cẩn thận rồi mới tiến. Cứ tới đoạn nào có vẻ hiểm địa một chút là Thoòng lại ra lệnh dập đuốc, cho bộ hạ bỏ đường mòn, băng rừng đi một quãng xa, rồi mới lại bắt vào đường. Đám giặc Thoòng mỗi lúc càng tiến sâu vào miền núi hiểm, không một bóng nhà sàn của thổ dân. Khoảng ba giờ sau, bọn chúng tới một dãy núi đá. Khu đường mòn thắt lại như cổ chày, phía trước mở ra một thung lũng chạy khá dài, đưa vào một dãy núi điệp trùng, cao ngất dựng ngang suốt chân trời. Có lẽ tới địa đầu sào huyệt rồi, nên tướng Thoòng cho bật đuốc thêm sáng rực, đoạn phóng ngựa ra phía cửa núi, hướng về nẻo núi dựng sau thung lũng, bắn luôn năm phát súng pạc hoọc. Từ phía xa, chợt nổi lên năm phát súng vang vọng trong đêm. Thoòng quay lại, hạ lệnh cho bộ hạ bịt mắt những người bị bắt lại. Bịt kín mắt đám người bị bắt xong, viên tướng thổ phỉ truyền bộ hạ lấy một cuộn thừng dài, buộc ngang lưng người nọ với người kia thành một hàng dọc, cách nhau chỉ vừa đầu ngựa. Xong, hắn mới ra lệnh tiến vào thung lũng, quân chia làm ba cánh, hai toán áp hai bên, còn Thoòng dẫn đầu toán giữa áp tải những người Việt bị bắt cùng tụi quân vừa bị thương. Đám giặc cỏ cứ thế băng rừng, tiến sâu vào thung lũng. Ánh lửa bập bùng thiêu cháy từng vòng bóng tối. Mặt mủi thổ phỉ trở nên lầm lì, không một tiếng nói cười giữa rừng sâu quạnh vắng, chỉ còn nổi lên những tiếng vó câu rầm rập khua không đều trên mặt đất gồ ghề. Thoòng ngồi yên trên ngựa, thânhình lực lưỡng lắc lư theo nhịp vó câu từng bước một, mắt lim dim ngủ gà ngủ vịt, có vẻ yên tâm đã có hai cánh quân tiến áp hai bên sườn cách đó không xa. Nhưng đột nhiên một tiếng súng nhỏ chợt nổ vang ngay phía cánh quân bên tả, tiếp theo đó liền nổ luôn mấy phát nữa. Viên tướng thổ phỉ mở choàng mắt ra, rút phắt súng cầm tay, đảo nhìn về chỗ súng nổ. Có tiếng quát tháo nổi lên và qua mấy khắc, từng loạt súng bật theo, loạn xạ. Thoòng chớp chớp mắt, chưa biết tính sao, thì mộl viên đạn đã réo xẹt mang tai, tiếng nổ ngay lên phía hữu cách đó chỉ chừng mười thước. Viên tướng thổ phỉ chỉ còn kip lăn xuống chân ngựa thì tiếng súng đã nổi lên. Đạn xoáy tới tấp vào đám quân áp tải, khiến hai ba tên chưa kịp xuống ngựa đã thét lên ngã dụi trên yên. Tướng thổ phỉ định thần nhận thấy ngay tiếng súng phát ra từ mấy cây cổ thụ um tùm gần đấy. Hắn vừa bắn xả về phía đó, vừa truyền bộ hạ ứng chiến, tìm chỗ nấp, đánh gọng kìm kẹp lại, và lửa đuốc lần này không cho tắt vì viên tướng giặc quen nghề xung trận, nghe tiếng súng, đoán rõ đó chỉ là một số ít tay súng gan dạ đánh luồn giữa mấy cánh quân hắn thôi. Trong lúc biến, mấy tên quân áp giải người bị bắt cũng tìm chỗ ẩn, những vẫn chĩa súng về bọn họ đề phòng. Cô gái và đồng bọn vẫn ngồi trên yên không nhúc nhích, lắng nghe đạn réo quanh mình. Bị trói xâu vào một chuỗi, cô gái còn đang suy tính ngược xuôi, chợt cảm thấy nhẹ bỗng hẳn trước sau. Nàng vội kín đáo xoay trở mình mới biết dây thừng buộc xâu đã đứt, không còn bị ràng buộc với trước sau nữa, chỉ còn hai tay bị trói chặt, mắt bịt bưng không rõ địa hình. Cô gái nghiêng đầu lắng nghe và cố lấy dáng bình thản của người ngoài cuộc. Có lẽ nàng dự đoán vẫn có những họng súng của giặc chĩa vào mình. Nhân lúc súng nổ loạn xạ, cô gái vùng kêu rú lên, rướn người lên một cái và lảo đảo ngã xuống bờm ngựa. Rồi chậm chạp đổ của người xuống đất quằn quại... theo hơi đuốc nóng rất gần đấy lăn tới. Tiếng súng vẫn nổ dồn, tiếng giặc quát tháo nghe đã hơi xa, khoảng đến hai mươi bước. Cô gái lăn thêm một vòng, cảm thấy đỉnh đầu nóng ran vì hơi lửa đuốc. Nhưng vừa nằm sấp, nàng vội ngưng cử động, vì một viên đạn đã réo sát bên mang tai, tiếp theo đó có tiếng xạ phang quát theo từ bụi rậm gần đấy: - Nằm im! Không vỡ sọ! Cô gái vội rên thêm to, và quằn mình, đưa dần hai cổ tay bị trói ra phía trước. Lửa cháy nóng bỏng, cô gái vẫn nằm im, trong cái dáng của người bị thương kiệt lực, riêng hai cổ tay nàng vẫn lựa hơ vào lửa, miệng mím chặt chịu đau rát, tai vẫn lắng nghe động tĩnh. - Cô gái đang bị lửa đốt! - Bị đạn lạc vào, hình như không nặng lắm! - Vào lôi ra mau, không chết cháy mất! Tiếng bộ hạ tụi Thoòng lao xao bàn tán gần đó đưa tới. Nhưng có lẽ sợ bị đạn, chưa tên nào dám rời chỗ nấp. Cô gái vẫn nằm im. Và hình như cách đó không xa, cặp mắt vô hình nào đó đã thấu suốt, nến tiếp tục bắn rát vào tụi giặc, như hỗ trợ cho cô gái. Bựt! Dây trói đứt tung, Cô gái quằn mình, xoay lưng lại lũ giặc, kín đáo giật khăn che mặt xuống. Khung cảnh rừng khuya bừng lên, thoáng cái, cô gái đã lượng được địa hình. Xuất kỳ bất ý, sau khi đã lăn vào bụi cây có con ngựa che cản họng súng giặc, cô gái chồm lên như một cái cần bật, lao mình vào thân cây. - Nó chạy kìa! Đứng lại! Tiếng quát và tiếng súng đuổi theo tới tấp, náo loạn. Nấp sau thân cây, cô gái chờ xong một loạt đạn đầu, và lao mình thẳng về tiếng súng đang bắn ngược lại phía quân Thoòng. - Nằm xuống! Vừa lao vừa chạy được mấy bước, chợt nghe có tiếng người kêu phía trước, thiếu nữ vội đâm sấp xoài trên mặt cỏ, trong lúc viên đạn réo ngay trên đầu, ngó lại sau vừa kịp thấy một tên thổ phỉ đuổi theo đang chới với buông rơi khẩu súng pạc hoọc, dúi vào một bụi cây cạnh đó. Và sau hàng chân ngựa thấp thoáng mấy bóng giặc Thoòng nhấp nhô trong đám lá thấp. Thiếu nữ đảo mắt một vòng, không chậm một giây, lăn mình sau một thân cây mé tay mặt. - Đây, lối này! Tiếng người lạ chợt cất lên, khiến thiếu nữ ngồi phắt dậy, ấp lưng vào thân cây, định thần tìm kiếm. Nhờ ánh lửa bập bùng từ chỗ bọn thổ phỉ hắt tới, nàng ngó thấy một tay súng vừa khoa lên trong cảnh tranh tối tranh sáng, ngay sau một thân cây lớn, có cành lá dây leo chằng chịt, cách chỗ nàng chừng mười lăm bước. Thiếu nữ lao mình qua từng thân cây để tránh đạn thoăn thoắt, thoáng cái, đã phóng tới chỗ người lạ. Thấy cô gái chạy tới quá đà, người lạ liền giơ một cánh tay ra cản ngang và kéo mạnh cô gái vào chỗ nấp. Sức chạy của thiếu nữ đang mạnh, gặp sức kéo bất thình lình, khiến thiếu nữ ngã ngồi ngay vào lòng người lạ, thở hào hển. Ngẩng mặt nhìn lên, trong vùng sáng tối lẫn lộn, nàng nhận ra ngay người lạ là một ông già quắc thước, hai tay cầm hai khẩu súng, và dáng dấp cũng thoáng vẻ lúng túng.