watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
15:42:4618/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Đoán Án Kỳ Quan Tập 3 14 - Hết - Trang 9
Chỉ mục bài viết
Đoán Án Kỳ Quan Tập 3 14 - Hết
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Tất cả các trang
Trang 9 trong tổng số 23

Chương 19 (B)

Lập tức ông cùng nhiều người tới chùa Thúy Phong, đào dưới gốc cây đại đông, nào ngờ vừa đào được mấy thước đã thấy xác một người đàn bà mới bị giết. Ngài Chu liền thẩm vấn từng hòa thượng một. Hỏi tới hai gã hòa thượng trẻ, thì mặt chúng đỏ bừng, chân tay run cầm cập, khai ra sự thực. Trước hết ngài lệnh cho đánh tám chục gậy, khép vào tội chết. Soát kỹ trong chùa, thấy lợn, dê, gà, vịt hàng đàn, phòng nào cũng đầy ắp rượu thịt. Ngài đùng đùng nổi giận đánh cho mỗi hòa thượng ba chục gậy, giải về nguyên quán, phá hủy toàn bộ ngôi chùa, ruộng vườn tịch thu bán đi để cứu dân nghèo. Có thơ rằng:
Lợn dê gà vịt có đầy đàn,
Cửa Phật toàn là sư hổ mang.
Hoang dâm tàn ác như quỷ đói,
Đàn bà chúng giết chẳng ghê tay.

Lại có một người làm nghề buôn bán tên là Thạch Ngưỡng Đường, làm ăn xa lâu ngày nên góp được hai trăm lạng bạc. Chưa về tới nhà thì trời gần tối, sợ đi một mình sẽ bị hãm hại, nên khi đi qua miếu Yến Công đã len lén giấu bạc dưới đáy chiếc lư hương đá. Đến khuya mới về tới nhà gọi mở cửa, vợ trông thấy nói:
- Đi làm ăn lâu ngày, kiếm được bao nhiêu lạng bạc?
- Kiếm được hai trăm lạng. - Thạch Ngưỡng Đường nói. - Tôi định mang về, nhưng thấy trời tối lại đi một mình sợ mất, tôi giấu nó ở dưới đáy lư hương đá miếu Yến Công, không ai biết, sáng sớm mai đi lấy.
Nói xong họ ăn cơm rồi lên giường ngủ. Sáng sớm hôm sau đến rờ đáy lư hương đá thì khốn khổ thay, không biết kẻ nào biết được lấy mất. Thạch Ngưỡng Đường đành tới chỗ ngài Chu bẩm việc này. Ngài Chu nói:
- Trong đêm tối, ngươi giấu bạc có ai biết không?
- Thưa ngài, chẳng có một ai biết.
- Ngươi có nói với ai không?
- Thưa ngài, về nhà con chỉ nói với vợ con, không ai biết cả.
- Đúng là, - ngài Chu cười nói, - vợ ngươi thông dâm, tên gian phu nghe thấy, đến lấy trước mất rồi.
Lập tức ngài bắt vợ người đó tới công đường xét hỏi, thì đúng là thị thông dâm. Hôm ấy khi Thạch Ngưỡng Đường về, tên gian phu hốt hoảng chui xuống gầm giường. Thạch Ngưỡng Đường nói, tên gian phu nghe thấy. Khi Thạch Ngưỡng Đường ra ngoài, thừa cơ vợ anh đưa tên gian phu trốn ra lối cửa sau. Hắn tới ngay miếu Yến Công lấy hai trăm lạng bạc dưới đáy lư hương đá, rồi khấp khởi về nhà. Quả là:
Biết đâu tai vách mạch rừng,
Ngờ đâu người dưới gầm giường đã nghe.

Thế rồi ngài luận tội dâm phu dâm phụ, truy hoàn số bạc. Hai trăm lạng vẫn còn nguyên vẹn, hắn chưa kịp tiêu một đồng nào.
Lại có một tù nhân bị giam trong nhà tù Hàng Châu đã nhiều năm, bỗng nhiên hắn tố cáo Phạm Điển, một người dân quê từng đi ăn trộm với hắn. Ngài Chu biết đây là lừa dối, bèn gọi Phạm Điển đến thẩm vấn tỉ mỉ. Phạm Điển kêu oan, nói:
- Thưa ngài, con chưa từng biết mặt tên trộm này, thì làm sao mà con cùng hắn đi ăn trộm được.

Ngài Chu biết chắc đó là vu cáo, bèn cho Phạm Điển mặc áo chít khăn của nha lệ và bảo nha lệ mặc quần áo của Phạm Điển quỳ trước sân, dặn anh không được lên tiếng. Sau đó đột nhiên dẫn tên phạm nhân kia tới quỳ bên cạnh Phạm Điển. Ngài Chu hỏi:
- Ngươi cáo giác hắn cùng đi ăn trộm với ngươi, nhưng hắn không nhận.
Tên tù nhìn Phạm Điển giả nói:
- Ngươi từng đi ăn trộm với ta, sao bây giờ ngươi còn chối?
Phạm Điển giả chỉ cúi đầu không nói. Ngài Chu lại cố ý nói:
- Thế thì không phải hắn rồi.
Tên tù nhìn một lượt nói:
- Không phải hắn ư? Hắn là Phạm Điển, ngụ tại X. Năm X, làm bạn với con, ngày... tháng... năm... cùng con tới nhà X. Ăn trộm, lấy được... rồi chia nhau. Ngày... tháng... năm... vào nhà lấy trộm chia nhau những gì... Con đã làm bạn với hắn nhiều năm, tại sao lại không phải là hắn?
Hắn nói như đinh đóng cột. Ngài Chu cười nói:
- Ngươi chẳng quen biết gì Phạm Điển, ta đã cho lính lệ đóng giả Phạm Điển. Việc này ắt có kẻ xúi bẩy.
Ngài cho người tra tấn tên tù, biết được Lương Trưởng thù phạm Điển, rồi mua chuộc tên tù cáo giác bừa. Ngài Chu đùng đùng nổi giận, bèn đánh chết hai tên này. Từ đó về sau không còn tên tù nào dám vu cáo hãm hại dân lành nữa. Có bài thơ làm chứng:
Tù nhân thường hay hại người ngay,
Hẳn có kẻ nào xúi bẩy đây.
Gian manh quỷ quyệt, cần xét kỹ,
Đừng cho kẻ xấu hại người ngay.  

Chuyện kể rằng ở Hồ Châu có một người tên là Hồng Nhị, mang đi một số vốn lớn, định đến Tô Châu mua hàng về Hồ Châu bán. Hồng Nhị ngồi một mình trên thuyền đợi thằng nhỏ, mãi vẫn không thấy nó tới, người canh sào là Vương Thất thấy túi tiền của Hồng Nhị khá nặng, nơi này lại vắng không ai trông thấy, hắn bèn rắp tâm mưu hại, đẫy Hồng Nhị lăn đùm xuống sông chết, mang túi bạc về nhà. Sau đó hắn đến nhà Hồng Nhị gõ cửa, hỏi:
- Chị ơi, sao anh ấy vẫn chưa xuống thuyền?
Vợ Hồng Nhị ngạc nhiên nói:
- Đi lâu rồi!
- Tôi nghĩ rằng đến giờ vẫn chưa xuống thuyền, vậy thì nhất định anh ấy đã đi nơi khác rồi.
Một lát sau thấy thằng nhỏ về nói:
- Con tới thuyền không thấy ông chủ, không biết ông đã đi đâu rồi, mà cũng không thấy hành lý đâu cả.
- Anh ấy mang hành lý đi, - người vợ nói, - tất nhiên là ra thuyền, làm gì còn thời gian mà đi chỗ khác.
- Vì tôi chờ mãi không thấy anh ấy xuống thuyền, - Vương Thất nói, - nên tôi tới đây tìm anh ấy.
Hai bên cứ cãi nhau, bên nọ đổ bên kia mà Hồng Nhị vẫn biệt vô âm tính. Cuối cùng phải báo lên quan để truy tìm. Ngài Chu thấy Vương Thất dáng người hung ác, hỏi kín vợ Hồng Nhị rằng:
- Khi vừa tới nhà thuyền nói thế nào?
Vợ Hồng Nhị nói:
- Thưa ngài, chồng con mang hành lý đi từ lâu lắm rồi, thì nhà thuyền tới gõ cửa, cửa vẫn còn đóng, bèn nói là: "Chị ơi sao anh ấy vẫn chưa xuống thuyền?"
Ngài Chu gọi hai nhà láng giềng của Hồng Nhị tới, hỏi:
- Khi Vương Thất đến gọi, ngươi nghe thấy anh ta nói thế nào?
Hai người láng giềng trả lời:
- Con nghe thấy Vương Thất gõ cửa hỏi: "Chị ơi, sao anh ấy vẫn chưa xuống thuyền?".
Ngài Chu đập bàn quát:
- Vương Thất chính mày giết chết. Mày đã tự thừa nhận rồi, sao còm dám cãi bừa?
Vương Thất cố biện bạch. Ngài Chu nói:
- Ngươi biết chắc chắn Hồng Nhị không có ở nhà cho nên gõ cửa, bèn gọi chị ơi. Cửa vẫn đóng, mà nếu ngươi không giết thì tại sao ngươi không gọi anh ơi, mà lại gọi chị ơi? Đích thị là mày giết chứ ai giết vào đây nữa.
Vương Thất bị nói đúng tim đen, hồn xiêu phách lạc, mặt đỏ bừng, run cầm cập, biết ngay là hắn giết chết. Hắn đã khai hết sự thật. Bắt hắn trả lại hành lý, tất cả còn nguyên vẹn. Hắn bị khép vào tội chết. Có bài thơ làm chứng:
Xử án xưa nay khó lắm thay,
Sắc mặt lời khai lộ rõ ngay.
Lòng dạ kẻ gian cần xét kỹ,
Chết oan ắt có kẻ phải đền.

Có hai người tranh nhau một chiếc ô, không ai chịu ai rồi dẫn đến đánh nhau. Trương Tam nói: "Ô của tôi". Lý Tứ cũng nói: "Ô của tôi". Hai người không ai chịu ai, liền đưa nhau đến phủ quan. Ngài Chu bèn đập chiếc ô, đưa cho mỗi người một nửa, rồi bí mật sai người theo dõi. Trương Tam nói:
- Lúc đầu tôi đòi anh hai đồng, nếu anh đưa ngay cho tôi thì có phải tốt không? Bây giờ thì hai đồng cũng không có nữa.
- Ồ của tôi, - Lý Tứ nói, - sao anh bắt tôi phải đưa cho anh hai đồng!
Thế là người đi sau theo dõi bèn tóm ngay Trương Tam, đưa về phủ. Ngài Chu cho đánh hai mươi gậy và bắt phải mua ô đền Lý Tứ.
Lại có hai người tranh nhau con trâu, hai bên giằng co nhau không sao giải quyết được. Ngài Chu nổi giận quát:
- Hãy nhập con trâu này về dinh quan.
Một người cười hí hí không nói.
Một người tức tối cãi lại.
Ngài Chu lập tức bảo người nổi nóng cãi lại rằng:
- Con trâu này chính là của ngươi, bởi thế ngươi hết sức tức giận. Con trâu này không liên quan gì đến tên kia, nên gã cười hí hí không nói gì.
Ngài lập tức phạt tội anh ta. Quả thật ngài phát hiện ra sự gian dối rất tài tình. Còn rất nhiều chuyện như thế nữa, không sao kể hết được.
Thời ấy, trong nha môn có người thư ký lâu năm tên là Mạc Lão Hổ, chuyên bợ đỡ phủ quan, dò ý quan trên, dùng văn chương xuyên tạc pháp luật, xúi bẩy kiện tụng, không việc gì là hắn không làm. Ngài Chu thăm dò biết hắn vô cùng ác độc, hại người không sao kể xiết, tài sản có tới hàng trăm vạn, những người trong nha môn không người nào là không thông đồng với hắn làm điều xấu. Ngài Chu nói:
- Đây là nơi tập trung bọn sâu mọt vùng Đông Nam. Bọn sâu mọt trong nha môn không trừ khử thì dân lành không thể sống được.
Thế rồi đem chôn Mạc Lão Hổ trong ngục, bán tài sản của hắn mua thóc lúa nhập vào các phủ huyện để cứu đói khi mất mùa, còn những kẻ độc ác khác trong nha môn đáng tù thì bỏ tù đáng sung làm lính thì sung vào lính, không chút tha thứ. Từ đó về sau, dân lành mới được yên ổn làm ăn. Hình pháp tỉnh Chiết Giang nghiêm minh trong sạch đều do công lao của ngài Chu vậy. Ngài Chu thường nói:
- Muốn cho thiên hạ thái bình thì tất phải trừ khử bọn tham quan. Bọn tham quan hại dân phải có vây cánh, cho nên quan trên được ba thì bọn tay chân ở dưới được bảy. Muốn diệt tham quan thì phải làm cho nha dịch trong sạch, cho nên không thể tha thứ bọn này.

Thời ấy Diệp Tông Hành là tri huyện Tiền Đường, người Tùng Giang làm quan hết sức liêm khiết. Ông không bao giờ nịnh nọt quan trên, nên ngài Chu vô cùng kính trọng. Về sau Diệp Tông Hành chết, ngài Chu đích thân làm bài văn tế tế ông. ấy là tôn trọng sự liêm khiết và dùng việc này để giáo dục các quan. Mỗi khi đi tuần thú các huyện, ông hay mặc thường phục, khích cho quan huyện tức giận giam ông vào ngục, ông chuyện trò với tù nhân, họ nói cho ông biết nỗi khổ của cả huyện. Hôm sau thuộc quan của ông tới nghênh đón ông từ ngục ra, quan huyện sợ hãi phủ phục dưới đất xin tạ tội, song ông vẫn theo tội mà xét xử. Bởi thế quan lại các huyện nghe thấy tiếng ông đều run sợ, chẳng ai dám tham ô. Khi mới bắt đầu vào địa hạt vùng này, ở đó có một con hổ dữ đã ăn thịt rất nhiều người , ngài Chu tự làm một bài ăn tế cúng thần hoàng, thì con hổ tự dưng đến dinh quan án sát, nằm phủ phục bất động, ngài bèn lệnh cho tay chân đánh chết con hổ ấy ngay tại chỗ. Có bài thơ làm chứng:
Chu Tân đúc nghiêm,
Khuất phục hổ dữ.
Nay là thành hoàng,
Xưa là quan phủ.

Có một hôm người đồng liêu biếu ông một con ngỗng quay. Ngài Chu treo nó trong nhà, về sau có người biếu gì ông chỉ vào con ngỗng ấy. Ngài Chu nhà rất nghèo. Vợ ngài sống bằng nghề cày cấy. Một hôm bà vợ đi dự tiệc cùng với vợ các quan lại khác họ ăn diện rất sang trọng, chỉ có phu nhân ngài Chu là quần nâu áo vải như người đàn bà dân quê. Những người ăn mặc sang trọng rất ngượng ngùng, về sau họ sống rất giản dị. Phong thái của ông là như thế đó. Bởi thế thời ấy tên tuổi Chu hiến sứ lẫy lừng thiên hạ, ngay cả đứa trẻ lên ba cũng biết đức tính tốt đẹp của ngài. Thời ấy, Cẩm y vệ chỉ huy là Kỷ Cương, sai Thiên Hộ tới Chiết Giang, tác oai tác quái làm hại dân không sao kể xiết. Ngài Chu Tân bắt Thiên Hộ đánh cho một trận nên thân. Thiên Hộ lập tức về kinh khóc lóc kể với Kỷ Cương. Kỷ Cương dâng sớ nói rằng Chu Tân tự tiện bắt người trị tội. Ngài Vĩnh Lạc sai quan bắt Chu Tân về cung điện. Chu Tân khảng khái vạch tội Thiên Hộ. Ngài nói:
- Án sát sứ làm việc cũng giống như Nội đô sát viện, đều là vâng theo chiếu chỉ của bệ hạ. Thần phụng chiếu bắt kẻ gian ác, thì sao lại khép tội cho thần? Thần có chết cũng không hối hận.
Lời nói của ông vô cùng bất khuất, ngài Vĩnh Lạc đùng đùng nổi giận, ra lệnh giết ông. Lúc sắp hành hình, Chu Tân thét lên nói:
- Ta sống làm bề tôi ngay thẳng, chết đi ta làm ma ngay thẳng.
Đêm ấy, Thái sử dâng sớ nói rằng ngôi sao Văn Tinh bị rơi, ngài Vĩnh Lạc mới hiểu rằng ông chết oan và vô cùng hối hận, lập tức xử Thiên Hộ để đền mạng, rồi ngài Vĩnh Lạc hỏi quần thần:
- Tân là người ở đâu?
Quần thần đáp rằng:
- Ông là người Quảng Đông.
Ngài Vĩnh Lạc nhiều lần than vãn rằng:
- Quảng Đông có người tốt như thế mà ta đã giết oan.
Ngài Vĩnh Lạc cứ thương tiếc mãi. Về sau thường thấy ông hiện hình tại miếu. Một hôm giữa ban ngày bỗng thấy một người mặc áo hồng bào, Vĩnh Lạc quát lớn, thì người ấy nói rằng:
- Thần là Chu Tân, án sát sứ Chiết Giang, phụng mệnh thượng đế, thấy thần là người trung trực, cho thần làm thần thành hoàng Chiết Giang, trị những kẻ tham quan ô lại cho bệ hạ.
Nói xong biến mất. Ngài Vĩnh Lạc cứ than thở mãi. Về sau Chu Tân nhập vào người trước miếu thờ thành hoàng Chiết Giang nói:
- Ta vốn là án sát sứ Chu Tân, thượng đế cho ta là người trung trực, phong ta làm thần hoàng, hãy đắp tượng ta để thờ, ngày sinh của ta là ngày mười bảy tháng Năm.
Dân chúng thấy ông linh thiêng hiển hách, bèn sửa sang miếu mạo, rước tượng Thành Hoàng cũ tới Dương Thị. Có bài thơ làm chứng:
Uy danh hiển hách ấy thành hoàng,
Chưa biết uy danh đã lẫy lừng.
Thần ngay quỷ thẳng đều là một.
Những người trung trực quả phi thường.
Lại có bài thơ ca ngợi như sau:
Chu Tân chết thành thần Chiết Giang,
Vu Khiên chết thành thần Bắc Đô.
Xưa nay người ta ai chẳng chết,
Chết vẩn lưu danh mãi ngàn thu.
Chương 20

Đưa Hối Lộ Sống Chết Thành Oan Trái
Sống Từ Bi Quên Hẳn Mối Thù Xưa


Thơ rằng:
Được mất mông lung chẳng thể cầu,
Huống hồ bí mật lắm quyền mưu,
Công danh được mất do trời đất,
Phú quý còn đây cháu con lo.
Đất trời lồng lộng như gương sáng,
Chí công không thể uốn cong lưng.
Tướng quân vỗ ngực khoe thắng trận,
Hướng tới Đông Lăng lễ cố hầu.


Người ta thường ăn ăn làm lành, tất cả đều như đã định sẵn, không thể cứ cố cầu mong mà được. Nếu như cầu mà được thì tinh thần phải hết sức kiên định. Nếu là người có phúc thì không cầu cũng được. Cho nên nói hai chữ "tiền định" (đã định sẵn từ trước) đã làm phai nhạt những ham muốn không chính đáng, làm tiêu tan những thủ đoạn nóng vội. Người đời có khi cầu mà được, nên cứ cầu bừa đến khi không sao thu xếp nổi, lúc ấy mới hối hận thì đã muộn.
Chẳng hạn như người đi buôn, đã có vốn nhưng vẫn phải nhờ vào vận đỏ, duyên may. Dù có mở cửa hàng ngay tại nhà cũng kiếm được hàng ngàn hàng vạn. Nếu không gặp vận đỏ duyên may thì muốn kiếm vài ba đồng cũng phải hao tâm tổn trí mà vẫn không được. Đừng nói kiếm lấy vài ba đồng mà ngay vốn liếng cũng mất sạch. Huống hồ hai chữ công danh có quan hệ rất lớn, được hưởng rất nhiều lợi lộc.
Có một tú tài nghèo, không đầy nửa năm mà trúng cử nhân tiến sĩ, mũ áo xênh xang, ngồi giữa công đường, sai bảo bách quan, thống trị muôn dân, làm rạng danh tổ tông, vợ được phong thưởng, con được nối dõi. Điều này có phải do may rủi mà được chăng. Không, đó là kẻ hối lộ để mua chuộc, từ khi khai thiên lập địa đã có rồi. Xưa nay cũng có người đưa hối lộ mà được lợi, nói chung họ được quan cao lộc hậu, con cháu đời đời là dòng dõi trâm anh. Há đấy chẳng phải là tấm gương do cố cầu xin mà được đó sao? Dân gian có câu: "Mua khoa cử thì phải đúng vào năm trúng cử". Câu nói này có nghĩa là có thể cầu được và cũng không thể cầu được. Chẳng hạn như năm không trúng cử mà cứ cầu bừa thì cũng chẳng có phúc, việc làm không tính toán chi li chặt chẽ, một khi đã bại lộ thì danh và thực đều mất. Lúc ấy muốn làm tú tài như cũ, cũng không được nữa. Tóm lại công danh không thể hại người, công danh do mình tạo nên, đó là điều tối quan trọng.

Tôi kể ra đây hai câu chuyện làm thí dụ để các bạn nghe. Xưa kia có một cậu tú tài, tính hiền lành trung hậu, luôn luôn làm điều thiện. Tổ tông xưa đều là những người hiền lành, an phận thủ thường, chỉ có điều nhà nghèo mà không học lên được. Năm ấy có khoa thi, cậu nhờ một gian phòng trong chùa để đọc sách. Một hôm gần tới ngày thi, vào buổi tối cậu nghe nhà bên có tiếng thì thầm rất lâu, sau đó thấy uống rượu rồi hát hò, cười nói oang oang, tỏ ra rất vui sướng. Một lát sau bỗng thấy vắng lặng tĩnh mịch. Cậu tú lúc ấy mới được yên tĩnh, nhưng vẫn không ngủ được, cậu tha thẩn dạo bước dưới hành lang, thì thấy một người con gái thướt tha đi lại, người ấy gần tới nơi thì cậu tú hỏi:
- Cô là ai?
- Chàng đừng sợ. - Cô gái nói. - Thiếp là ma, đến đây không phải để hại chàng. Thiếp thấy chàng có chí học hành lại cố gắng làm điều thiện nên đến nói cho chàng biết việc công danh đại sự. Vừa rồi thiếp thấy người tú tài bên kia uống rượu là vì đã mua được ý mấu chốt trong kỳ này và đã mặc cả với nhau tại đó. Thiếp đã nghe được xin báo cho chàng biết. Xưa kia cha thiếp buôn bán ở đây và thiếp cũng chết ở đây, linh cữu thiếp gửi ở chùa này. Nếu chàng đắc chí thiếp phiền chàng đến chỗ X, bảo với cha thiếp sớm đưa linh cữu thiếp về táng nơi quê hương thiếp. Thiếp biết chàng là người trung hậu, chắc chàng không phụ sự nhờ cậy của thiếp, cho nên thiếp mới dám phiền chàng.
Đoạn cô gái nói cho cậu tú tài biết những điểm mấu chốt của đề thi. Theo lời cô gái, quả nhiên cậu tú tài này đỗ cao. Đến ngày yết bảng, vị giám khảo thấy họ tên không phải là người mình đã mách bảo, ông rất ngạc nhiên. Khi gặp người đã thi đậu, ông hỏi vì sao, anh ta nói thực việc mình đã gặp ma như thế nào. Vị quan giám khảo ấy nói:
- Anh là người có nhiều âm đức, từ nay con đường thăng quan tiến chức của anh sẽ rộng mở, không thể lượng trước được.
Vị tú tài ấy quả nhiên thi đỗ liên tiếp tới tiến sĩ rồi được làm quan.
Tôi lại còn nghe thấy một vị cử nhân ở Bắc Kinh thi Hội. Vị cử nhân tuổi còn trẻ, tài cao, học vấn uyên thâm, cứ tự khoe rằng, nhất định sẽ đỗ. Hội nguyên, trạng nguyên cầm chắc trong tay. Hôm ấy là ngày vào trường thi. Vị cử nhân ấy đến chỗ ngồi của mình, vừa thu xếp xong xuôi thì thấy một cử nhân khác tới tìm chỗ ngồi. Cử nhân này cao to, nói tiếng miền Bắc, không thấy mang đồ đạc gì, chỉ thấy vai vác một chiếc nghiên to ước chừng bằng thớt cối. Chỗ ngồi của anh ngay bên cạnh vị cử nhân nọ. Vị cử nhân này cười thầm: "Trong trường thi không biết mang vào làm quái gì chiếc nghiên đá to đến thế. Chả lẽ là để tỏ rõ mình có sức khỏe ư? Nếu như dùng nó để đánh người thì chỉ cần huých các góc nhọn của nó vào thì người cũng nát ra như cám". Một lát sau đề bài được mang tới. Vị cử nhân đến trước cầm bút vừa nghĩ vừa viết, xong một thiên anh lại ghé mắt nhìn sang vị cử nhân lực lưỡng kia, chỉ thấy anh này ra sức mài mục. Thôi thì cứ mặc anh ta, vị cử nhân này lại cắm cúi viết xong thiên thứ hai. Vẫn cứ thấy vị cử nhân cao to ấy hì hục mài mực. Anh cười thầm nghĩ: "Giá mà vị cử nhân kia chưa cơm nước gì mà vào đây thì uống số mực ấy cũng no kềnh bụng". Anh lại làm xong thiên thứ ba. Người cử nhân cao lớn ấy vẫn cứ ngồi đó mài mực, anh nghĩ: "Người này cứ ngồi mài mực, không biết mài đến bao giờ mới thôi! Hãy xem anh ta làm thế nào, sau này mình sẽ có một câu chuyện cười lý thú ở trường thi để nói với bạn bè". Anh lại ngâm nga đọc lại thiên thứ ba của mình một lần nữa và cảm thấy rất đắc ý. Đang định làm tiếp thì người cử nhân lực lưỡng kia nhảy sang nói:
- Nghe anh đọc, thấy bài văn của anh hay quá, nhất định là đỗ rồi. Song tôi là người vùng Tây bắc, văn bài không thông thạo anh cho tôi bài văn ấy, anh làm bài khác, thế thì mọi sự đều tốt. Nếu không tôi sẽ đổ mực đen ngòm vào bài của anh, thế là cả hai đều trượt. Nếu anh cho bài tôi, thì anh là người tình nghĩa.

Vị cử nhân này vừa buồn cười vừa tức giận. Thấy người ấy cao to lực lưỡng, mình có đánh cũng không thắng nổi, đành thở dài đưa ba bài văn ấy cho anh ta. Thế là anh ta mặt mày hớn hở trở về chỗ ngồi của mình, còn anh thì làm lại ba bài văn và làm luôn cả bài kinh văn. Thế rồi vị cử nhân lực lưỡng ấy lại tới nói:
- Anh vừa cho tôi mấy bài văn ấy, tôi nghĩ nhất định sẽ đỗ rồi, tôi lại không biết làm kinh văn, thật đáng tiếc là dù anh đã cho bài tôi nhưng cũng uổng công thôi. Nếu anh trọn tình trọn nghĩa với tôi, thì xin anh cho tôi bài kinh văn. Nếu đỗ, thì tôi không bao giờ dám quên ơn anh. Vị cử nhân ấy nghĩ rằng, ba bài trước hay đã cho anh ta rồi, nếu ba bài sau không khớp ý với nhau thì sẽ không đỗ, thế thì cho anh ta cũng vô ích. Thôi thì cho luôn anh ta. Mong rằng lần sau không gặp phải những tên hung đồ thế này nữa, rồi anh cho luôn người ấy và phất tay áo ra khỏi trường thi. Quả nhiên, vì anh người ấy đỗ tiến sĩ, sau này đã đến thăm và đền đáp công lao của anh. Các bạn thân mến, một đàng do ma mách bảo đề thi, một đàng là cướp văn. Hình như đây là hai chuyện hết sức lạ lùng trong trường ốc nhưng không phải ngấm ngầm làm việc ích kỷ hại người, cho nên không có một hận thù gì khắc cốt ghi xương. Tôi xin kể một câu chuyện, do ích kỷ, ngấm ngầm hại người mà sau này cháy nhà ra mặt chuột, khiến cho công lao cả dòng họ đổ xuống sông xuống bể, suýt nữa chết không có chỗ chôn.

Chuyện kể rằng, ở huyện Nhân Hòa phủ Hàng Châu, Chiết Giang có một người tú tài tên là Từ Tất Ngộ, tự Bằng Tử. Ông của anh ta làm tới đô ngự sử, vì thẳng thắn can gián mà mất chức trở về rừng núi dưỡng lão tới hai mươi năm. Do bản tính trong sạch và ngay thẳng nên việc thăng giáng chức luôn luôn xảy ra trong cuộc đời ông. Bởi thế cũng chẳng lấy gì làm giàu có cho lắm. Cha của anh ta là một tú tài, kiến thức uyên thâm nhưng con đường khoa cử thì lận đận, về sau được bổ làm lẫm sinh, chờ tiến cử. Sau làm huấn đạo được hai khóa. Chức quan thì thấp mà nơi làm việc lại hẻo lánh vắng vẻ, uất ức và bất đắc chí. Không lâu sau cũng cáo quan về nhà. Từ Bằng Tử sống trong cảnh nghèo túng. Đến năm mười tám tuổi anh được cử đi học và cùng năm ấy anh lấy vợ, vợ tên là Vương thị, vợ anh cũng thuộc dòng dõi con nhà quan lại, cũng biết việc đọc sách là cao thượng. Từ Bằng Tử sinh trưởng trong một gia đình quan lại, suốt ngày chỉ khư khư cầm quyển sách trong tay, không hề biết gì đến chuyện ham làm, miệng ăn núi lở, lâu ngày rồi cũng phải bán mấy ngôi nhà của người ông để lại khi còn làm quan. Rồi sau đó lại bán mấy mẫu ruộng của ông để lại. Cuối cùng chỉ còn trơ lại một ngôi nhà cổ, đấy là nơi dấy nghiệp của ông anh và gia đình anh đang sống, không thể động tới. Cũng mừng là hai kỳ thi nhất nhị trường anh không đến nỗi trượt. Song mấy kỳ thi sau anh cũng không được đứng đầu bảng. Nói đến tài văn chương thì anh cũng là người xuất sắc. Năm ấy có khoa thi, anh ở nhà đọc sách, tối đến nhân lúc nghỉ ngơi anh nói với vợ :
- Phen này nhất định đỗ.
- Làm sao mà anh biết được?
- Những đề về "Tứ Thư” anh đều chuẩn bị hết rồi, còn đề mục lớn nhỏ trong kinh "Xuân Thu” anh cũng làm rồi. Về phương diện này, bạn bè thi cử không ai hơn anh được. lần này không những đỗ mà anh còn đỗ cao, ít ra là xếp từ thứ năm trở lên, chứ không chịu đứng sau. Em hãy kiên tâm chờ hơn một tháng nữa, lúc đó em sẽ đàng hoàng là một bà cử.
Vương thị nói:
- Không biết vận nhà mình sẽ thế nào, thi mấy khoa liền mà không đỗ, lại không làm gì để sinh sôi nảy nở thêm được, ruộng vườn đã bán sạch chỉ còn lại ngôi nhà cũ. Khoa này mà không đỗ thì đành phải tìm người khác thay em. Em chỉ cầu mong anh phúc lộc và văn chương đều được cả đôi đàng. Anh sẽ làm rạng rỡ tổ tông, khiến cho vợ con thoát khỏi đói nghèo. Em nguyện suốt đời sống nâu sồng đạm bạc vì chàng.
Nói xong nước mắt chị giàn giụa. Bằng Tử nói:
- Em cứ yên tâm, anh bảo đảm với em chắc chắn khoa này anh sẽ đỗ. Anh sẽ đền em chức cử nhân, nếu không đỗ thì không còn mặt mũi nào gặp em và cũng chẳng còn mặt mũi nào gặp bạn bè, người thân trong dòng họ.
- Em mong được như thế, cầu trời khấn Phật phù hộ cho anh.
Đúng là:
Tài năng ta chăng kém ai,
Ngẫm ra mới biết vận may do người.
Những mong áo mão cân đai,
Ngờ đâu nghèo đói chẳng rời khỏi ta.

Trong số những bạn học của anh cũng có một gã tú tài tên là Đinh Toàn, tự Hiệp Công, cũng thuộc dòng dõi gia thế. Cha làm tới chức Thị lang Bộ công, con đường thăng quan tiến chức của anh ta khá thuận lợi, đã tích cóp được khá nhiều tiền của. Đinh Hiệp Công lại giỏi làm ăn, hắn thường lui tới những học trò của cha kiếm chác, gia đình ngày càng trở nên giàu có.
Ngoài việc đánh bạc và chơi gái gã không tiêu phí một đồng nào. Vào năm thi cử, hắn đành phải tung tiền ra tiêu. Việc thứ nhất là mua giám khảo, việc thứ hai là dùng mánh lới trong trường thi. Kỳ thi nào hắn cũng luồn lọt tìm khe hở, mò mẫm thăm dò khắp nơi, cho tới ngày yết bảng hắn mới yên tâm. Từ khi hắn được vào trường huyện học, kỳ thi nào cũng thế, điều ấy chẳng có gì là lạ.

Năm ấy quan chủ khảo kỳ thi là quan tri phủ, người họ Mạc, cùng đỗ khoa với cha hắn. Ngay từ khi đến nhậm chức, Đinh Hiệp Công đã mang lễ hậu đến nhận là người thân. Hắn nghĩ quan đứng đầu phủ là tiến sĩ, tuổi còn trẻ, có danh vọng, nhất định sẽ làm giám khảo. Cũng không chờ đến khi có tên trong danh sách thi, hắn đã làm một bữa cỗ thịnh soạn mời quan tri phủ họ Mạc. Trong bữa rượu hắn đã ghé tai vào quan tri phủ nhờ vả việc thi cử, như thế làm sao mà quan tri phủ không vui vẻ nghe theo. Đinh Hiệp Công lại lấy ra bức văn tự một ngôi nhà với giá là ba ngàn lạng đưa cho tri phủ họ Mạc tạm thời làm vật thế chấp, khi yết bảng sẽ lập tức mang bạc đến chuộc lại. Tri phủ họ Mạc nói:
- Hai nhà xưa nay là bạn đồng khoa với nhau, có bổn phận giúp đỡ hết lòng, đâu dám nhận tạ ơn.
- Tuy là anh em con cháu của bạn đồng khoa, nhưng bây giờ là quan hệ thầy trò, vả lại việc công danh cũng phải tạ ơn nhau chứ, chỉ có chút ít thôi, có gì đáng suy nghĩ.
Tri phủ họ Mạc vui vẻ nhận lời.
Đúng là:
Có duyên ngàn dặm cũng gặp nhau,
Mưu người, trời có thắng được đâu.


Đến khi mở khoa thi, quả nhiên tri phủ họ Mạc được cử làm giám khảo. Ông lập tức viết những điểm quan trọng về đề thi, niêm phong cẩn mật, rồi sai người đưa cho Đinh Hiệp Côn Đinh Hiệp Công mừng quýnh. Tri phủ họ Mạc lại nghĩ, lão Đinh mặc mũi sáng sủa, nhưng không biết văn chương chữ nghĩa trong bụng lão thế nào, chẳng may vào trường thi lại nộp giấy trắng hoặc là làm được bài mà văn vẻ trúc trắc, khi ấy khó mà trình lên chánh chủ khảo, mình thật là khó xử, mà lại mất tới ba ngàn lạng. Tri phủ họ Mạc viết một phong thư mật, sai người mang đến. Đinh Hiệp Công nhận được mở ra xem, bức thư viết:
"Việc ngoài cửa (khổn ngoại) tướng quân phải làm chủ thì mới phục ngài không uổng công đọc (không độc) sách cha, dũng sĩ (hổ bí) vẫn về nội phủ. Chiếu sáng, chiếu sáng?”

Đinh Hiệp Công đọc những chữ ấy không hiểu ý nghĩa của nó, lại không thể đưa cho người khác xem. Ngẫm nghĩ mãi, lá thư ông ta gửi nhất định không phải việc gì khác, mà chắc chắn đây là việc thi cử, cách viết rất lờ mờ, khiến người ta khó nhận ra. Hắn lại tra tìm lại các chữ, lật đi lật lại, lần lượt đoán từng câu chữ, nghĩ "Ta đã hiểu rồi, khổn ngoại" là nói ngoài rèm; "Không độc" có nghĩa là không biết binh pháp; số của "hổ bí" có nghĩa là ba ngàn. Rõ ràng nói về việc thi cử, bảo ta phải tự làm bài. Nếu như bài văn mà không đạt yêu cầu thì cái nhà ba ngàn lạng phải trả lại cho ta". Thế rồi hắn đập tay xuống bàn đến "chát" một cái rồi nói: "Đúng rồi, đúng rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Song điều mà ông nói trong thư lại rất đúng vào chỗ yếu của mình. Chẳng may trong trường thi không thuận lợi, không đạt yêu cầu thì chẳng hóa ra mình mất toi ba ngàn lạng hay sao. Tuy thế, lão Mạc vẫn tính toán tỉ mỉ chắc chắn".
Đúng là:
Quân vương nếu hỏi kế biên cương.
Ắt lo lương đủ với binh cường.  

Lúc ấy trong trường lại có một tú tài khác tên là Chu Đức, biệt hiệu là Bạch Nhật Quỷ. Tuy là tú tài song không theo đòi thi cử. Hắn la cà nay nhà này mai nhà khác để kiếm rượu uống. Người ta chơi cờ hắn sà vào tính nước. Người ta đánh bài hắn cũng len vào chia bài. Suốt ngày say bí tỉ, ăn không biết no. Nhà hắn có bếp cũng bằng thừa, thường đến những nhà giàu có thế lực để bợ đỡ lấy lòng. Hắn buôn bán tin tức, chuyên bắt mối với bọn con hầu đứa ở để nghe ngóng tình hình, xui nguyên dục bị để kiếm chút tiền còm cõi. Bởi thế những nhà tú tài, phàm có việc dù to hay nhỏ đều không bỏ qua hắn được. Còn như Đinh Hiệp Công là một tay giàu sang, thì chẳng phải bàn, ngày nào hắn cũng đến xin dạy bảo. Ngay như Từ Bằng Tử, cháu một vị quan nghèo, thấy anh thi cử thuận lợi, lại sáng dạ hắn cũng thường tới khoe khoan hão, vài ba ngày hắn lại đảo đến một lần. Còn như với Đinh Hiệp Công thì khác hẳn, hai người này ý hợp tâm đầu, gắn bó như keo sơn, không lúc nào rời nhau.

Định Hiệp Công xem tờ giấy, quả thực không khẳng định dứt khoát được, hắn suy nghĩ do dự suốt đêm. Sáng hôm sau hắn cho người mời Bạch Nhật Quỷ tới. Chu Đức nói:
- Tối qua tôi có chút việc không được gặp anh, thì đến nơi rồi mà tôi thấy vẻ mặt anh tươi rói. Khoa thi này nhất định anh đỗ cao. Xin hỏi gọi tôi tới đây để dạy bảo điều gì?
- Tôi có chuyện riêng. - Đinh Hiệp Công nói. - Không thể nói với người khác được. Song tôi với anh rất hợp nhau, việc lớn như thế không thể giấu anh được. Tôi có ý mời anh đến đỡ bàn bạc.
Chu Đức hoa chân múa tay, nói:
- Việc gì thế! Xin sẵn sàng nghe anh nói.
- Mạc Công Tổ, - Đinh Hiệp Công nói, - là con một người đồng khoa của cha tôi, chắc anh biết rồi. Gần đây ông ấy được cử vào làm quan giám khảo, khi đi ông ấy nói là rất mến mộ gia thế tài năng của tôi, có gửi cho tôi những điểm mấu chốt của đề thi, bảo rằng trong trường thi phải làm như thế, tôi không muốn khước từ lòng tốt của ông ấy, theo anh có nên làm hay không?
Bạch Nhật Quỷ vội chắp tay nói :
- Xin chúc mừng anh. Anh tài cao như thế lại có Mạc Công Tổ giúp đỡ bên trong, lần này anh trúng giải nguyên là chắc. Tại sao lại không làm?
- Tôi cũng nghĩ rằng nên làm, song thường ngày văn chương tôi còn có chỗ sai sót. Chắc anh cũng biết đấy. Một khi đề mục ra không thuận tay, sợ rằng sẽ không lưu loát. Theo tôi nghĩ, trừ phi có bài văn hết sức công phu mới không phụ lòng ông Mạc nếu được như thế thì tuyệt vời. Anh có cách gì hay không? Xin anh dạy bảo đôi điều.
- Điều ấy có gì khó lắm đâu. - Bạch Nhật Quỷ nói. - Tôi có một người anh họ là Trần Hựu Tân, anh ấy là tú tài kỳ cựu trong học phủ, kỳ thi nào anh cũng được ghi vào danh sách viết bài thi. Vì anh thi nhiều năm nên đáng tin cậy, những bài văn được khen đều do anh ấy viết và đưa cho thí sinh. Mỗi khoa thi anh hy vọng kiếm được một ngàn lạng. Nếu anh cần tôi sẽ nói với anh ấy, nhất định sẽ đỗ thôi.
Đinh Hiệp Công rất mừng, vội vàng sai người dọn một mâm rượu thịnh soạn tại nhà trong, thúc giục người đi mời Trần Hựu Tân. Tới nhà, được mời vào phòng riêng, Trần Hựu Tân nói:
- Tôi lâu nay đã ngưỡng mộ ông, ý định ông anh cho gọi tôi em họ tôi đã nói với tôi rồi, nhưng có điều không biết ông học kinh nào.
- Kinh "Xuân Thu”. - Đinh Hiệp Công nói.
- Thế thì càng tốt. - Trần Hựu Tân nói. - Chờ tôi vào trường thi chọn những bài văn hay nhất về "Xuân Thu”. Cắt phần phách đi, rồi cố gắng mà chép, và nhét vào tập bài thi thì mười phần đỗ chín. Song có đúng là Mạc Công Tổ làm chủ sự trường thi hay không?
- Tiếng tăm Mạc Công Tổ nổi như cồn làm giám trường ngự sử là cái chắc. Xin anh đừng ngại.
- Như thế thì tốt rồi, song Mạc Công Tổ có thể quan tâm suông cho mình đâu, còn tôi là kẻ sĩ nghèo, vậy ông anh phải nới rộng tay thì mới được.
- Điều ấy thì tất nhiên rồi. - Đinh Hiệp Công nói.

Nhân đó họ kéo cả Bạch Nhật Quỷ vào thương lượng. Trần Hựu Tân đòi một ngàn lạng, hai bên cò kè nâng lên gạt xuống, cuối cùng ngã giá là bốn trăm lạng. Hẹn tới lúc điểm danh vào trường thi mới cho biết phương pháp. Sau đó họ ra về. Lần này Bạch Nhật Quỷ gỡ gạc cả đôi bên.

HOMECHAT
1 | 1 | 182
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com