watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:25:4518/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 12 - Hết - Trang 3
Chỉ mục bài viết
Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 12 - Hết
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Tất cả các trang
Trang 3 trong tổng số 12

Chương 14

Thẩm Vấn Chiếc Tẩu Thuốc


Thuốc phiện vốn là thuốc độc
Thạch tín cũng chẳng độc bằng
Ai ơi, chớ nên hút xách.
Kẻo mà thuốc độc giết người.

Khoa Giáp Tý năm Đồng Trị thứ ba, huyện An Nhạc xảy ra một vụ án. Ở Vương Gia Câu thuộc huyện An Nhạc quản hạt, có một người là Vương Minh Sơn, nhà giàu có, tính tình giảo hoạt, nói năng thông thạo. Trong làng xảy ra việc gì thường hay đi dàn xếp, mọi người cử ông ta đứng ra giải quyết những rắc rối trong làng. Ông ta kết giao với quan trường, xúi bẩy người khác kiện tụng để kiếm tiền. ông ta lấy Ngữ thị, mãi mà không sinh đẻ. Về sau cầu trời khấn Phật, năm mười bốn tuổi mới sinh được một mụn con trai, đặt tên là Thiên Hỷ, vợ chồng quý nó như vàng. Ngay từ khi còn bé, Vương Minh Sơn đã nhờ Lẫm sinh Lý Thiệu Nho khai tâm. Thiên Hỷ tuy khôi ngô tuấn tú, nhưng rất tối dạ, Minh Sơn lại rất keo kiệt, hằng năm cũng mời mấy ông đồ rỗi việc tới dạy, Ngũ thị lại không cho phép các ông quở trách nó. Mười lăm tuổi đầu vẫn chưa học hết Tứ thư.
Gần đó có Thôi tiên sinh, là người ti tiện, thô bỉ, vô đạo đức, ông ta quen nịnh hót bợ đỡ để kiếm chỗ dạy học. Nghe thấy nhà ấy có con đi học, bèn lân la đến cầu cạnh làm quen. Ông ta lên phố mua quà, đến chúc mừng năm mới, xin dạy học. Minh Sơn nhận quà hai ba lần, nể quá đành cho Thiên Hỷ tới học. Ai ngờ Thôi tiên sinh đọc sách không thông, nhưng có rất nhiều bài văn mẫu, ra đề chữa văn đều theo những bài văn đó sửa chữa đôi chút cho học sinh chép, rồi cho điểm tốt, để học sinh về đánh lừa cha mẹ. Ông ta lại nghiện phiện, phàm là những bạn bè nghiện hút, bất kể tốt hay xấu, đều tới lớp học của ông, có khi ở tới mấy ngày, quyện quanh chiếc bàn đèn. Thượng bất chính, hạ tắc loạn, thầy đã nghiện thì trò cũng hút. Không những ông ta không ngăn cấm mà ngược lại còn bảo học trò đi lấy nhựa thông, rồi làm bài hộ. Thiên Hỷ cũng nghiện thuốc, lúc đầu hút sái, sau hút thuốc tốt, dần dà mua thuốc hút. Ngũ thị quá chiều con, lấy trộm tiền cho con mua thuốc. Học ba năm thì nghiện nặng, cha biết được thường luôn khuyên bảo. Ai ngờ thuốc phiện không giống các thứ khác, nói bỏ là bỏ thẳng được đâu. Không hút thì lúc nào cũng nghĩ tới nó, mà người lại sinh bệnh, nước mắt nước mũi lúc nào cũng chảy ra, đứng ngồi không yên, thì sao mà bỏ ngay được. Dù cho Minh Sơn khuyên rát cổ bỏng họng nhưng Thiên Hỷ nào có chịu nghe cho. Thấy con không bỏ được, Minh Sơn lại nhờ thầy quản chặt. Thầy Thôi vốn dựa vào Thiên Hỷ để hút, nên ông ta cũng sợ Thiên Hỷ bỏ thuốc, thế thì quản làm sao được. Không còn cách nào khác, Minh Sơn đành gọi con về, hết lời dạy bảo con:
“Người ta sống trên đời phải có chí, đừng để cuộc đời phí hoài. Phải làm những việc ngay thẳng theo lẽ trời, đừng sống phóng đãng bệ rạc. Tình yêu tuổi trẻ vừa chớm nở. Đáng sợ là trên bàn còn nhiều quân cờ mà mình đi sai một nước. Phải phân biệt rõ xấu tốt, chính tà, phải học điều hay, ngăn ngừa điều dở, đừng mềm yếu. Đừng nghiện rượu, đừng tham của thì không bị khốn khó, đừng hiếu sắc hoang dâm với vợ con người. Kiếm tiền phải có nghĩa, khi tức giận phải biết nhẫn nại thì tự nhiên thấy thảnh thơi. Còn thuốc phiện thì tệ hại vô cùng, phải hết sức ngăn ngừa, đừng hút xách. Nếu như ngươi động vào nó thì sẽ mê nó như mê gái. Mới hút thì thấy tinh thần sảng khoái đê mê, nếu ho hay cảm sốt là khỏi ngay không phải mời thầy thuốc. Hút một điếu, thì muốn hút hai ba điếu. Hút một lần thì muốn hút hai ba lần, không thể nào xa rời nó được.

Nếu như mắc nghiện sẽ thành thói quen, thiếu một chút, chậm một chút đều không chịu được. Mà khi đã hút thì sinh ra đủ các thứ bệnh tật, nước mắt nước mũi chảy ra, rời bỏ nó dù có nhân sâm cũng chẳng sao mà gượng dậy được. Người khỏe mạnh cũng trở thành ốm yếu, người béo tốt cũng trở thành gầy còm, người thông minh cũng trở thành ngu đần, người siêng năng cũng trở thành lười nhác. Người giàu có phải bán ruộng bán vườn, người nghèo khổ thì bán vợ đợ con. Người đọc sách thì rớt khỏi bảng vàng, người phú quý thì lầu son gác tía tiêu tan. Nhà có đàn bà thì mọi việc chẳng ai giúp đỡ, nhà có con gái thì chẳng ai đến hỏi. Nhà có nghề nghiệp cũng chẳng còn cơm ăn áo mặc. Nó làm cho mặt bủng da chì, không còn sinh khí, đến lúc ấy thì nó mời anh về Tây Trúc. Xuống âm ti địa ngục nằm giường sắt, đốt đèn lên, ngươi muốn bỏ nó, nó vẫn không buông tha. Đốt ngươi chảy thành keo, làm ngươi chịu biết bao thê thảm. Lượng tính trên thế gian ngươi đã hút bao nhiêu, chờ tới khi nào ngươi nhả hết ra, nó mới buông tha. Trời ơi!

Rõ ràng thuốc độc hung ác vô cùng, hãy suy nghĩ kỹ đến nỗi khổ và sự tàn hại của nó mà bỏ ngay lập tức. Dù đã trót nghiện rồi thì phải cai ngay, phải cắt một nhát dao vào chỗ đau để dừng lại. Con ơi! Hãy xem những người chính trực thật hãnh diện biết bao, bữa cỗ họ được mời ngồi mâm trên. Còn những người nghiện hút, không biết dơ mặt dương dương tự đắc, song bị người ta chửi sau lưng. Con ơi, làm người phải đấu tranh với cái xấu phải ngăn ngừa thuốc phiện, thì mới hạnh phúc và sống lâu”.
Từ đó Vương Minh Sơn không cho Thiên Hỷ đến trường, giữ ở nhà cai nghiện, cho con uống thêm một ít thuốc bổ, mua gà vịt và trứng về cho con tẩm bổ. Qua hai tháng đã thấy đỏ da thắm thịt, béo tốt khỏe mạnh. Sợ rằng nó tới trường lại hút, Minh Sơn cho người gánh vở về, rồi bảo con ở nhà làm việc. Song Thiên Hỷ cứ rỗi rãi là mò ra phố, một số bạn bè xấu lại rủ rê tới ngõ liễu đường hoa, hút một vài lần, rồi tái nghiện, và lại thêm khoản chơi gái. Sợ cha mẹ biết được, sáng nó đi lối này, chiều nó đi lối khác, đi hút ở nhiều nơi, không muốn về nhà. Lâu sau nó giấu cha mẹ, cứ đêm đến chờ mọi người ngủ say nó mới dậy thắp đèn hút thuốc. Cha nó biết rõ, cũng chẳng làm sao được. Thế rồi Ngũ thị bàn với chồng, chọn ngày hai mươi sáu tháng Tư năm Đồng Trị thứ ba, nhờ bà mối mang danh thiếp tới nhà họ Lý xin cưới. Lý Thiệu Nho nhận lời, vội sắm sanh đồ cưới đưa dâu về nhà chồng.

Lý Thiệu Nho có một người con gái tên là Trinh Tú, dáng người xinh đẹp, vợ chồng ông rất yêu quý, dạy con học từ thuở nhỏ Trinh Tú rất thông minh, học được mấy năm đã biết ngâm vịnh Thiệu Nho lại giảng giải Nội tắc, Nữ liệt cho con, để con biết đạo làm con gái. Khi lớn lên, Trinh Tú đoan trang, thùy mị, có hiếu với cha mẹ, chăm chỉ vá may. Khi về nhà chồng ai ai cũng khen ngợi, vợ chồng Minh Sơn cũng rất vui mừng. Song phong tục nơi này rất thích vui chơi trong ngày cưới. Đêm ấy, khách dẫn chàng rể vào phòng, rồi gái trai nô đùa, cười cợt, chơi trò phạt rượu, lại đòi cô dâu chuốc rượu. Không sao được, Trinh Tú rót cho mỗi người một chén, sau đó vờ say bỏ đi.

Thiên Hỷ uống nhiều rượu, lên cơn nghiện, vội đóng cửa, dọn giường chiếu, lấy bàn đèn. Thiên Hỷ đã giấu tẩu dưới nền nhà, lấy ra tiêm thuốc vào hút, thấy không thông, rít thuốc hai lần vẫn thấy như thế. Thiên Hỷ mới biết tẩu bị tắc, tìm chiếc thông tre thông rồi mới hút. Trinh Tú thở dài. Thiên Hỷ nói:
- Tôi không nhịn được nữa đành phải hút, đã cai nhưng cai không nổi. Cha không cho hút, tha thiết mong nàng hết sức giữ kín cho, đừng nói với cha tôi. Nếu ông ấy mà biết được thì tôi sẽ phải đòn, mà nàng cũng không thoát khổ, hôm nay ta nhận tội trước với nàng.

Thiên Hỷ hút một lèo, rồi cất tẩu vào chỗ cũ, cởi áo đi ngủ. Trịnh Tú thấy Thiên Hỷ trằn trọc trên giường, cứ thở dài luôn, sau đó đập xuống phản mấy chiếc. Trịnh Tú ngỡ rằng chồng thấy cô không ngủ, không tiện gọi, mới làm như thế để gọi cô, cô bèn tháo trang sức, cởi đai bó chân đi ngu. Thấy chồng quay mặt vào tường, cho rằng chồng giận cô đi ngủ muộn, cô cũng không lên tiếng. Khi gà gáy sáng, cô trở dậy trang điểm xong. Khách khứa đã dậy hết mà chồng vẫn chưa dậy. Cô sợ rằng khách vào phòng sẽ chê cười, muốn gọi lại thấy ngượng. Bên ngoài có tiếng gọi nhau bày cỗ, nên cô đành phải gọi.
- Anh vẫn không dậy ư?

Gọi liền mấy tiếng không thấy thưa, cô mở màn ra, thấy chồng vẫn quay mặt vào tường ngủ, cô lay dậy thì thấy người lạnh toát lay thật mạnh thì người đã cứng rồi. Cô sợ quá hồn xiêu phách lạc, gọi không thành tiếng. Nhũng khách con gái đều đã đi ăn cỗ, cô chạy ra ngoài gọi mẹ chồng:
- Mẹ ơi, anh ấy đã lạnh toát rồi, không biết vì sao?
Minh Sơn vội vã vào phòng, thấy mồm mũi mắt tai Thiên Hỷ đều chảy máu, đã chết cứng rồi, ông gọi:
- Con ơi! Vì sao mà con chết!
Thế rồi ông đấm ngực mình, ngã lăn ra đất. Lúc ấy khách khứa ùa cả tới, vội lấy nước gừng đổ vào mồm, mãi ông mới tỉnh dậy, nói:
- Con ơi, con chết đi thì cha sống làm sao được.
Ông bà già vỗ về xác con khóc:
Cha: - Vừa nhìn đã biết con tôi mất rồi.
Mẹ: - Mẹ đau lòng lắm con ơi!
Cha: - Trước đây cha hận rằng chưa có con.
Mẹ: - Cầu Thần khấn Phật mãi.
Cha: - Sinh được đứa con mới an tâm.
Mẹ: - Tôi quý nó như vàng.
Cha: - Nghe thấy cưới vợ, nó rất mừng.
Mẹ: - Mong vợ chồng con bách niên giai lão.
Cha: - Đêm qua nó còn vào phòng.
Mẹ: - Không biết vì sao sáng nay nó đã bỏ đi.
Cha: - Tiếc thay nó khôi ngô tuấn tú.
Mẹ: - Tiếc thay tôi chỉ có mình nó.
Cha: - Hằng ngày nó sống rất hiếu thuận.
Mẹ: - Mẹ mong con, đông con nhiều cháu.
Cha: - Tuổi đã già, mất con thật là bất hạnh.
Mẹ: - Trăm năm về nơi suối vàng ai chôn cất!
Cha: - Từ nay trở đi ai là người hương khói tổ tiên.
Mẹ: - Nhà họ Vương từ đây tuyệt tự.
Cha: - Không biết con tôi mắc bệnh gì?
Mẹ: - Nếu nó ốm thì phải nói với cha mẹ.
Cha: - Mồm, mũi, mắt, tai nó còn vết máu.
Mẹ: - Vậy thì nó chết là do duyên cớ khác chăng?
Cha: - Phải hỏi con dâu cho ra lẽ.
Mẹ: - Nó chết oan phải được minh oan.

Vợ chồng Minh Sơn khóc xong, quay sang hỏi Trinh Tú:
- Con ơi, vì sao chồng con chết?
- Con không biết vì sao. - Trinh Tú nói. - Đêm qua anh ấy đi ngủ trước, con thấy anh ấy trằn trọc không ngủ, rồi cứ thở dài luôn. Sau đó con đi ngủ, thấy anh ấy quay mặt vào tường ngủ rất say, sáng ra con gọi, mới biết anh ấy chết.
- Mày đừng che giấu nữa, - Minh Sơn nói, - hãy nói thực ra.
- Con nói thực đấy, - Trinh Tú nói, - con hoàn toàn không nói sai.
- Rõ ràng là mày đã dùng thuốc độc đầu độc con ta, mày còn giả vờ không biết ư?
- Cha đừng đổ oan cho con, con tuy ngu đần, song cũng biết lễ nghĩa, đàn bà vốn phải nhờ chồng, lẽ nào lại giết chồng đi?
- Rõ ràng là mày ở nhà có tình nhân, đã tình sâu nghĩa nặng với nó, không muốn về nhà tao, cho nên mày giết con tao để lấy nó, mày giấu tao sao được? Bây giờ ta không thèm nói với mày nữa, phải đưa đến công đường cho ra lẽ.
Rồi ông bảo mọi người vào thành đệ đơn tố cáo con dâu gian dâm đầu độc chồng, xin khám nghiệm tử thi.
Quan xem đơn, ngày hôm sau đích thân tới khám nghiệm. Nhũng người khám nghiệm kết luận chết vì thuốc độc. Quan hỏi Minh Sơn:
- Đêm hôm qua trong phòng con ông có người không?
- Đêm hoa chúc, sao lại không có người - Minh Sơn nói.
Quan hỏi Trinh Tú:
- Chồng người chết thế nào?
Trinh Tú nói, đêm ấy bạn bè thân thích vui chơi trong phòng, đòi anh ấy chuốc rượu, khách ra khỏi phòng thì chồng hút thuốc phiện.
Quan hỏi Minh Sơn:
- Trước đây con ông có hút thuốc phiện không?
- Con tôi nghiện phiện. - Minh Sơn nói.
- Cho dù có nghiện, thì thuốc phiện cũng không làm chết người được - Quan nói. - Cho nên cái chết này không phải chết do chất độc của thuốc phiện.
Quan hỏi mọi người thì ai cũng bảo, đêm qua vào phòng anh không có bệnh tật gì. Quan bèn cho giải Minh Sơn và Trinh
Tú về huyện, rồi gọi Trinh Tú hỏi:
- Bố chồng ngươi tố cáo ngươi gian dâm, giết chồng, nay gặp quan huyện sao không khai thực?
Trinh Tú cúi đầu vừa khóc vừa nói:
- Thưa ngài đèn trời soi sét, con xin nói rõ nỗi oan ức của con. Cha con Lý Thiệu Nho được bổ làm Lẫm sinh, mẹ con là Lưu thị, được người làng khen ngợi là hiền thục. Con từ nhỏ cũng được học hành, biết giữ gìn phép tắc của phận đàn bà, biết thế nào là "tam tòng tứ đức"(1) cần cù chịu thương chịu khó.
(1) Tam tòng: ở nhà theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết theo con.
- Đã biết tam tòng tứ đúc, tại sao còn đầu độc chồng?
- Không biết kiếp trước con có lỗi lầm gì, kiếp này mới về nhà chồng thì chồng chết. Lúc ấy con chỉ biết khóc, tiếc rằng vợ chồng mới lấy nhau được một đêm đã chia lìa đôi ngả. Bố mẹ chồng thấy chồng con chết sinh nghi, rồi kiện con. Cha mẹ chồng nói rằng con đã ngấm ngầm thông dâm rồi đầu độc chồng.
- Đúng rồi, chồng ngươi vào phòng vẫn khỏe mạnh, ngươi không đầu độc thì còn ai nữa! Hãy khai mau, để khỏi phải tra tấn.
- Trời ơi, thưa ngài, con van ngài vì lòng nhân ái mà suy xét kĩ cho tình cảnh của con, quả là con oan uổng, thì làm sao mà con nhận được.
- Ta hỏi ngươi tử tế, mà ngươi không khai, quân bay đâu, hãy vả nó bốn mươi cái cho ta.
- Trời ơi, thưa ngài, cho dù con đã mưu hại chồng con, thì xin hỏi ngài con lấy thuốc độc ở đâu?
- Mày đã làm sẵn thuốc độc ở nhà mẹ đẻ, mày còn chối cãi gì nữa.
- Trời ơi, thưa ngài, vợ chồng trẻ mới cưới, chúng con chẳng có thù hận gì, làm sao có chuyện vừa về nhà chồng đã hại anh ấy!
- Ngươi ở nhà mẹ đẻ đã thông dâm, giết chồng để lấy chồng khác. Ta đã biết rõ rồi, ngươi không khai ư? Đánh, đánh, đánh đi cho ta.
- Trời ơi, thưa ngài, cái quan trọng của người làm quan là đức hạnh, sao ngài lại vu tiếng xấu cho con. Người đời thường nói: cái danh giá của người đàn bà là rất quan trọng, nếu mang tiếng thất tiết thì làm nhục cha mẹ, tổ tiên.
- Con dâm phụ này to gan thật, ngươi dám bảo ta vu oan cho ngươi, quân bay đâu kẹp mười đầu ngón tay nó cho ta.
- Trời ơi, thưa ngài, từ khi đẻ đến nay, con luôn luôn sống ngay thẳng thật thà, cho dù con chết làm ma không đầu con vẫn không khai.
- Con dâm đãng! Mày cố tình ngoan cố không khai, ta cũng không sợ mày già mồm. Quân bay đâu, hãy mang đinh tre ra đây đóng vào mười ngón tay nó cho ta.
- Trời ơi, con đau đến nỗi hồn xiêu phách lạc, chẳng khác gì xuống địa ngục Diêm vương. Không khai thì quan tra tấn, không chịu được đau đớn con phải gào lên kêu trời. Pháp đường ghép con vào tội giết người, con không oán hận, song vu cho con gian dâm thì con chết không nhắm mắt.
- Vì sao ngươi lại đầu độc chồng, đầu độc bằng cách nào?
- Con chê anh ấy xấu, cho nên đã bỏ thuốc độc vào đường cho anh ấy ăn.
- Kẻ gian dâm là đứa nào?
- Trời ơi, thưa ngài con không gian dâm thì sao con dám nhận. Dù có bị lăng trì con cũng không hủy hoại danh tiết.
Quan thấy việc gian dâm là không có bằng chứng, chỉ kết luận là vì ghét chồng mà đầu độc chồng, chẳng cần gì thêm. Thế rồi quan lệnh thôi không tra khảo nữa, bắt điểm chỉ vào lời khai, rồi giam vào ngục, viết bản tường trình đệ lên tỉnh.
Những người khách đưa dâu giận tím mặt, họ buồn rầu thấy quan giải Trinh Tú đi, họ trở về gặp Lý Thiệu Nho. Đúng lúc Lý Thiệu Nho bị cảm phong hàn, nằm trên giường không sao dậy được, nghe thấy được tin con gái bị oan ức rất lo lắng, nói:
- Nhà họ Vương thường rất hay nói đến công bằng ngay thẳng, sao họ lại hồ đồ như thế, chẳng có căn cứ nào mà vu cáo cho Trinh Tú gian dâm.

Lý Thiệu Nho hỏi vì sao con rể mình chết, thì chẳng ai biết, nghĩ rằng việc này làm sao mà gỡ được? Ông muốn lên huyện gặp quan, thì người đang ốm, hơn nữa lại phải ê mặt, cho rằng việc này quan cũng không sao giải quyết được? Lưu thị vợ ông, thấy con gặp oan, gào lên khóc lóc, chỉ giận rằng không bay ngay tới huyện để thăm con, trời lại sắp tối, suốt đêm ấy bà chỉ gào khóc.

Chương 14 (B)

Ngày hôm sau bà gọi kiệu, mang Giảo Nhị mười tuổi tới Thành. Hỏi thăm đến nhà giam xin người gác ngục vào thăm, thấy Trinh Tú đeo gông, mắt sưng húp thâm quầng, ngủ trên sàn nhà tù, Lưu thị vừa kêu lên một tiếng "con ơi", thì ngã vật xuống. Trinh Tú vội đỡ mẹ dậy, kêu gào thảm thiết, lúc lâu sau mới nói nên lời.
- Thấy con, bỗng mẹ khóc sưng cả mắt, lòng mẹ đau như kim châm. Từ khi sinh con mẹ vô cùng hãnh diện, hằng ngày con luôn quẩn quanh bên mẹ. Con vừa thông minh vừa linh lợi lại biết vâng lời, coi mẹ như Phật sống. Mẹ luôn luôn dạy dỗ bảo ban con, biết thế nào là đạo tam tòng tứ đức, phẩm hạnh đoan trang. Từ nhỏ con đã bằng lòng về làm dâu nhà họ Vương. Mẹ chỉ mong vợ chồng con bách niên giai lão. Ai ngờ vừa mới về nhà chồng, đã gặp trắc trở. Chồng chết, khiến con phải giam cầm. Mẹ cầu mong con bước sang năm mới được mở mày mở mặt, mẹ mong con sau này lo ma chay cho mẹ lúc về già. Ai ngờ con gặp oan uổng, phải nhận là đã giết người. Mẹ sợ rằng chẳng bao lâu nữa con lìa bỏ cõi đời. Mẹ nhìn con không biết chán. Mẹ nghĩ con mà nát ruột nát gan. Mẹ nhìn con tiều tụy mà lòng đau như dao cắt, thôi thì mẹ ngồi tù cùng con.

Trinh Tú thấy mẹ khóc lóc hết sức thê thảm, lòng đau như vò xé, cô vừa khóc vừa nói cho mẹ nghe nỗi đau khổ của mình.
- Nhìn thấy mẹ con quặn đau như đứt từng khúc ruột, mẹ hãy nghe con kể hết số phận khổ đau của con. Mẹ nuôi con chịu biết bao vất vả nhọc nhằn, nhũng mong con hơn người, con nghĩ rằng kiếp trước tội con chồng chất. Chẳng biết vì sao chồng con chết. Không biết lòng dạ của bố chồng thế nào mà cứ đổ riệt cho con là "giết chồng để thông dâm".
- Bố mẹ chồng con quả là kẻ hồ đồ, - Lưu thị nói, - chưa chắc quan đã thấy rõ trắng đen.
- Quan không cho phân trần, đánh đập con hết sức tàn khốc bắt con phải khai.
- Con đừng khai nữa.
- Trời ơi, đau đớn lắm mẹ ơi! Lần đầu họ vả con bốn mươi cái sái cả quai hàm, máu túa ra, nói không thành tiếng. Con không khai, họ lại kẹp mười ngón tay con, đau thấu tận tim gan. Con nghĩ khai ra sợ rằng họ sẽ lột da chết thê thảm, con thà chết chứ không chịu nhận gian dâm. Quan lớn nổi giận lôi đình, đập bàn, đóng đinh tre vào mười đầu ngón tay con. Thật khốn khổ thân con, mẹ không tin hãy nhìn kĩ mười đầu ngón tay con mẹ, vết máu chưa khô. Con xin mẹ đừng lo lắng, hãy coi như con đã chết. Công mẹ sinh thành nuôi dưỡng con chưa chút báo đền, xin mẹ hãy tha thứ cho con, đao phủ tới buộc con phải chết. Khi mẹ về nhà đừng nói với cha là con đã khai, sợ rằng tuổi cha đã cao, tóc đã bạc, uất ức quá mà sinh bệnh. Em ngoan của chị lại đây chị bảo, em về nhà phải chịu khó học hành. Chị không thể thấy được ngày em vinh hiển, cầu mong tổ tiên phù hộ cho em sớm đỗ đạt. Nếu em nhớ đến chị thì em cho chị chén nước bát cơm, vào dịp năm mới em đốt ngoài cửa cho chị ít giấy tiền. Từ nay trở đi chị không còn được nhìn thấy mẹ và em nữa, trừ phi gặp nhau trong giấc mộng.

Ba mẹ con khóc đứt hơi khản cổ. Có hai người nữ phạm nhân tới khuyên giải:
- Bác Lý ơi, đừng khóc nữa, con gái bác đã khai rồi, khóc cũng chỉ vô ích, thôi thì hãy cho quan coi ngục ít tiền, để các ông ấy tháo cùm ra, cho chị ấy được dễ chịu một chút, rồi dần dần nghĩ cách cứu chị ấy, tất cả mọi việc trông nom chị đã có chúng tôi.

Thế rồi bà đi nói với những người coi nhà tù, song bọn họ lòng dạ xấu xa, họ bảo không tháo được. Khi ra đi Thiệu Nho đã bảo Lưu thị rằng: "Tôi và ngài Triệu ở hiệu tiền Nam Nhai rất thân nhau. Nếu vụ án chưa ổn, thì nhờ ông giúp đỡ”. Lúc đó Lưu thị đành phải đến nói với ngài Triệu, rồi lại nhờ một bà già đưa cơm. Trinh Tú khuyên mẹ trở về, đừng lo lắng nghĩ ngợi gì nữa, mẹ khóc lóc rồi từ biệt. Về nhà bà nói với chồng rằng, quan đánh đau quá, buộc nó phải khai, và giam vào nhà giam rồi. Tôi mượn tiền của ngài Triệu đút lót người coi ngục... Thiệu Nho nói:
- Trên đời này sao lại có những viên quan hồ đồ như thế, không xem xét lý tình, chẳng hỏi han hư thực, cứ muốn dùng hình phạt để kết án, họ không sợ báo ứng sao?
Ông định lên tỉnh minh oan cho con, nhưng bệnh tình chưa thuyên giảm. Đến tháng Sáu bệnh đã đỡ, nhưng kì thi lại sắp tới, chờ khỏe mạnh, thi xong sẽ đi cáo giác. Gần đó có một ngôi miếu thờ Thánh Đế Quân, hằng ngày Lưu thị đều đến trước tượng thánh khóc lóc cầu xin ngài hiển ứng, để con bà được minh oan thoát khổ.
Quan huyện bắt Trinh Tú phải khai. Trinh Tú chỉ khóc lóc kêu oan, quan nổi khùng, tát cho tám mươi cái. Mấy ngày sau lại hỏi, Trinh Tú không dám kêu oan, đành phải nói là chê chồng xấu rồi đầu độc chồng. Trước khi giải lên cấp trên thẩm vấn quan huyện dặn rằng:
- Nếu ngươi lên cấp trên phản cung, rồi bị trở về, thì bản huyện sẽ tra tấn ghê gớm hơn nhiều, khiến ngươi sống dở chết dở, thì lúc ấy hối không kịp nữa đâu. Ngươi chỉ có nhận tội thôi. Hồ sơ huyện gửi lên cũng đã giảm nhẹ tội cho ngươi rồi, ngươi đừng sợ.
Thế rồi quan huyện lập tức cho ba sai nha áp giải đi.
Biết tin, Thiệu Nho cùng vợ vào thành tiễn chân con, thuê một bà già đi theo hầu hạ, lại bảo người cháu họ cùng đi. Trinh Tú thấy cha mẹ òa lên khóc. Thiệu Nho nói:
- Đây là nỗi oan nghiệt kiếp trước của con, cho nên mới gặp phải việc này và gặp viên quan này, chờ xem con lên tỉnh thế nào, nếu không minh oan được, thì sau khi thi xong, cha sẽ đi kháng cáo.
Nói xong ông rót một chén rượu, rồi dặn Trinh Tú rằng:
- Con đi đường phải hết sức giữ gìn sức khỏe, gặp phủ, đạo cố chịu đựng tra tấn, đừng kêu oan. Đến Niết ti(1), Ngưu Công là một người cực kì thanh liêm, con mới có thể minh oan được.
(1) Niết ti: cơ quan tư pháp của một lộ (đơn vị hành chính cấp trên của huyện, phủ, đạo).
Trinh Tú quỳ xuống nhận rượu, rồi òa lên khóc:
- Cha mẹ hãy yên tâm, cứ coi như con đã chết rồi, đừng quá đau thương mà tổn hại đến tinh thần, con gặp quan trên sẽ tùy cơ ứng biến.
- Lưu thị uất ức, nức nở khóc, không muốn xa rời con. Trinh Tú an ủi mẹ mãi, bà mới dứt áo lên kiệu ra về.
Đến Đồng Châu, rồi tới Bảo Ninh, cô hoàn toàn không kiêu oan, mà vẫn khai như cũ. Khi lên tới tỉnh, đêm ấy ngủ tại quán trọ, sáng sớm hôm sau dậy thì không thấy áo đỏ đâu. Sai nha vô cùng sợ hãi, tìm khắp nơi, hỏi tất cả những người trong quán trọ, thì thấy chỉ mất mỗi chiếc áo đỏ, hành lí vẫn còn nguyên. Sai nha rất lo lắng sợ rằng quan trên trách phạt.
Ngưu Công án sát Thành đô tên là Thụ Mai, ông rất thương yêu dân, vụ án nào cũng xem xét tỉ mỉ, kĩ càng, chỉ sợ dân chúng mắc oan. Một hôm, đang lúc nghỉ ngơi, ông ra vườn ngắm hoa, bỗng nghe tiếng quạ kêu quang quác, ngẩng đầu nhìn lên, thấy mấy chục con quạ đen, tha một vật gì bay lượn trên mái nhà. Ngưu công quát ầm lên, đuổi quạ, đàn quạ bay đi, vật ấy rơi xuống vườn hoa. Nhặt lên thì đó là một chiếc áo đỏ, trên áo viết: "Lý Trinh Tú phạm nhân An Nhạc". Ngưu Công nghĩ rằng vụ án này nhất định có oan khuất chi đây. Nếu không thì tại sao áo phạm nhân mặc mà quạ lại tha được? Nhất định là có thần xui quỷ khiến. Thế rồi ông lệnh đưa hồ sơ vụ án cho ông xem, thấy bản án phán quyết là vì "chê chồng xấu mà đầu độc”. Ông nghĩ rằng chê chồng xấu, thì chỉ hối hận là cùng chứ làm gì đến nỗi cô dâu lại đầu độc chồng.
Ngày hôm sau sai nha trình rằng, nữ phạm nhân đã mất chiếc áo đỏ tại quán trọ. Chúng con tìm mãi không thấy, mong ngài tha tội. Ngưu Công nói:
- Chiếc áo đỏ ấy đang ở đây rồi.
Lập tức lệnh giải nữ phạm nhân vào, thấy người ấy dáng vẻ hiền lành, cử chỉ đoan trang, không giống loại người giết chồng. Ông hỏi:
- Có phải ngươi là Lý Trinh Tú không?
- Vâng ạ!
- Có điều gì oan khuất hãy nói ta nghe.
Trinh Tú cứ ngồi khóc không nói năng gì. Ngưu Công hỏi:
- Có phải quan phụ mẫu ở huyện xét hỏi không đúng, hay là đánh đau mà phải khai, nên ngươi khóc không? Hãy khai thực với ta, ta sẽ minh oan cho.
Trinh Tú cúi đầu nói:
- Thưa ngài cho phép con nói, vì vụ án này con đã chịu biết bao đau khổ, không sao thanh minh được nỗi oan khuất giữa ban đêm. Chẳng biết duyên cớ gì, vừa về làm dâu thì chồng đã chết. Cha mẹ chồng thấy thế giận dữ, vu cho con gian dâm rồi đầu độc chồng.
- Cha mẹ chồng vu cáo, mà quan huyện không xét hỏi cho ra lẽ ư?
Quan trên không hỏi rõ ràng, đã tra khảo tàn nhẫn, máu chảy đầm đìa. Không khai, quan kẹp mười đầu ngón tay rồi đóng đinh tre, khiến con chết ngất đi.
- Quan huyện tra tấn, bức ngươi phải khai có đúng không?
- Không còn cách nào khác, con đành phải khai. Thế rồi quan huyện cho giải lên tỉnh, giữa đường con mất chiếc áo đỏ.
- Chiếc áo đỏ, ta đã biết rồi, ta chỉ hỏi ngươi sự việc xảy ra trong đêm ngươi về nhà chồng thôi.
- Đêm ấy vào lúc canh hai, bạn bè thân thích đưa chồng con vào phòng, họ vui vẻ uống rượu, con rót rượu mời mọi người.
- Uống rượu trong phòng, bảo ngươi rót rượu mời, nam nữ kẻ đưa người nhận, thì còn ra thể thống gì nữa. Song sau khi vui tiệc rượu thì thế nào?
- Sau khi uống say, họ ra khỏi phòng con đóng cửa dọn giường chiếu. Chồng con cuộn chiếu lên, lấy ra rất nhiều thứ.
- Lấy ra những thứ gì, rồi để nó ở đâu?
- Đó là chiếc bàn đèn, rồi dặn con "Đừng nói với cha mẹ, tôi vốn dấu cha mẹ hút thuốc vụng, nếu cha mẹ mà biết tôi hút thuốc phiện thì quan hệ vợ chồng sẽ rắc rối đấy".
- À, anh ấy dặn ngươi đừng nói, thế thì ngươi thấy anh ấy hút thế nào?
- Anh ấy đốt đèn lên hơ cho thuốc nở ra, rịt vào mõ điếu hút, hút không được, rồi lại hơ thuốc vào đèn, vẫn không hút được. Thế rồi anh ấy lấy một chiếc thông tre dài chừng thước rưỡi, thông vào ống điếu, chỉ nghe thấy kêu sụt sịt.
- Thông điếu xong có hút được không?
- Hút xong anh ấy cất bàn đèn vào chỗ cũ, cởi áo rồi lên giường ngủ thiếp đi.
- Ngươi nói chưa từng cái gì?
- Là dâu mới con sợ xấu hổ, chỉ biết cúi đầu không dám tỏ ra tức giận.
- Thế ngươi có ngủ không?
- Con ngủ một giấc cho đến sáng, tới lúc ăn cơm, chồng con vẫn chưa dậy. Con sợ khách khứa cười, con ngượng ngùng tới giường gọi anh ấy. Không thấy thưa mới biết anh ấy đã chết rồi, mồm mũi tai mắt đều ứa máu. Con sợ quá. Cha mẹ chồng vu cho con đầu độc chồng, mong ngài minh oan cho con.
Nghe xong quan ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi xem lại bản án một lần nữa, ông nói:
- Xem vụ án của ngươi, ta cho rằng không có lẽ ngươi đã giết chồng, chồng ngươi chết là vì thuốc. Cái hại của thuốc phiện là rất ghê gớm, người béo hút sẽ gầy, người gầy sẽ chết, ruộng đất nhà cửa vợ con đều hết sạch. Ta cho rằng chồng ngươi chết vì thuốc phiện. Nhưng tại sao quan huyện, quan phủ ngu tối lại cho là đầu độc. Ngươi phải thấy rằng đêm tân hôn là cái khoái nhất của đời người, động phòng hoa chúc còn hơn cả thi đỗ. Hơn nữa, trai tài gái sắc, hai nhà đều giàu có, cớ sao lại chê nghèo mà đầu độc chồng.
Thế rồi ông ra lệnh cho người tới nhà Vương Minh Sơn ở An Nhạc lấy ngay chiếc tẩu thuốc phiện, bàn đèn, thông điếu về. Áp giải Trinh Tú về nhà trọ chờ thẩm vấn. Những người xung quanh thấy thế đều bật cười. Ngưu Công nói:
- Các ngươi cười gì, hãy đi lấy về đây ngay, đừng có hút vào mà toi mạng đấy!
Sai nha của Niết ti nhận lệnh đến An Nhạc, bảo sai nha huyện tới nhà họ Vương, tìm bàn đèn. Tìm mãi trong phòng cô dâu vẫn không thấy, họ quay về huyện báo lại. Sai nha của Niết ti nói:
- Chúng bay đều là đồ vô dụng, không tìm thấy một thứ gì ư?
- Việc này ngài phải đi thì mới bắt được. - Sai nha huyện nói.
- Đòi ta phải đi bắt ư? - Sai nha Niết ti nói. - Các ngươi có biết phép tắc không?
- Chúng con không biết, mong ngài chỉ bảo. - Sai nha huyện nói.
- Vụ án này xưa nay hiếm thấy, phải bỏ tiền thuê, ta mới đi. - Sai nha Niết ti nói.
Thế rồi sai nha huyện đành phải bỏ ra hai mươi lạng bạc cho sai nha Niết ti, lúc đó họ mới đi. Tới nhà, hỏi Vương Minh Sơn, Minh Sơn cũng không tìm thấy. Thế rồi Minh Sơn lại đưa cho sai nha Niết ti hai nén bạc nữa. Sai nha Niết ti vào phòng cô dâu, moi dưới nền nhà ra chiếc tẩu thuốc, đưa về Thành Đô bẩm với Ngưu Công. Ngưu Công lệnh ngày mai trình lên, lập tức sẽ mở phiên tòa xét xử.
Khi xử án, Ngưu Công thường mở phiên tòa tại sảnh đường lớn cho phép mọi người vào xem, lần này cũng thế, ai ai cũng nóng lòng chờ đợi. Hôm sau, sảnh đường lớn chật ních người.
Ngưu Công tới công đường, gọi Trinh Tú hỏi:
- Có đúng chồng ngươi hút thuốc xong rồi chết không?
- Thưa ngài đúng ạ!
Ngưu Công lệnh cho mang bàn đèn tới đặt dưới nền sảnh đường. Ngưu Công hỏi:
- Cái tẩu này to gan thật, tại sao ngươi giết chết Vương Thiên Hỷ? Ngươi có thù hằn gì mà giết anh ta? Trước mặt ta ngươi hãy khai thật.
- Thưa đại nhân, chiếc tẩu ngoan cố không nói. - Những người tay chân nói.
- Chiếc tẩu này to gan thật, - Ngưu Công nói, - trước mặt ta ngươi bướng sao được! Quân bay đâu, lấy tay thước đánh nó thật đau cho ta.
Thế rồi bọn tay chân đưa tẩu xuống, giơ tay thước lên đánh một phát, tẩu vỡ thành mấy mảnh. Bọn tay chân bẩm rằng:
- Thưa đại nhân, chiếc tẩu này không chịu được đòn, vừa quật một cái đã gẫy nát.
Ngưu Công quát, hãy đem nó lên đây. Ông bẻ ra xem thì bên trong có một con rết, đã bị thông tre thông nát thành mấy đoạn. Ngưu Công đưa cho Trinh Tú và mọi người xem, rồi hỏi Trinh Tú:
- Người có biết vì sao chồng người chết không?
- Bẩm ngài, con không biết, mong đại nhân chỉ cho.
- Tẩu dấu dưới nền nhà, - Ngưu Công nói, - tháng Tư rất nhiều rết, ngửi thấy mùi thơm tiết ra chất độc, chui vào tẩu, bị keo thuốc trong tẩu dính chặt lấy chân, không chui ra được. Cho nên nó ở trong đó tiết ra chất độc, lại dùng thông thông nát, cố sức hút, chất độc của rết và của thuốc vào bụng, thì sao mà không chết.
Người xung quanh hỏi rằng:
- Tại sao đại nhân lại biết vụ án này là do rết giết chết mà bắt tẩu thuốc?
- Ta nghe Trinh Tú nói là chồng lấy tẩu từ dưới đất lên, bởi thế ta biết chết là do hút thuốc.
Nghe xong ai ai cũng vô cùng thán phục Ngưu Công. Ông tha cho Trinh Tú, kết thúc vụ án. Ông hỏi Trinh Tú rằng:
- Ngươi về nhà chồng thì chồng chết, anh em lại không có bây giờ nương tựa vào đâu? Có thể tái giá không?
Trinh Tú im lặng không trả lời. Ngưu Công nói:
- Nhà mẹ đẻ có ai ở đây không?
- Thưa ngài, cha con đang ở dưới kia.
Lúc ấy Lý Thiệu Nho đang xem xử án, lập tức đi lên, cúi lạy nói:
- Thưa ngài, con có lỗi với ngài.
- Ngươi là ai?
- Con là Lý Thiệu Nho, Trinh Tú là con gái con.
- Ngươi hãy đưa con về nhà, rồi gả cho người khác.
Thiệu Nho tạ ơn, lui ra. Ngưu Công tuyên bố, từ nay cấm các phủ huyện không được phép vui chơi rượu chè trong phòng cưới điều đó làm tổn hại đến phong hóa.

Các bạn thân mến! Quạ đen vốn là một loài vật ngu xuẩn, tại sao lại tha chiếc áo đỏ của Trinh Tú tại quán trọ? Chỉ vì sớm chiều Lưu thị đã rất thành tâm cầu khấn Thánh Đế, cho nên Thánh Đế đã hiển linh, lại thấy Trinh Tú mắc oan, lệnh cho thần gió, thổi bay chiếc áo đỏ lên không trung, khiến quạ tha đi. Ngưu Công thấy cô oan khuất nên đã minh oan cho cô.

Ở thành có Hoặc Vân là cháu của ngài Dương, vợ chết chưa lấy vợ khác, nhà giàu có, lại rất đẹp trai, thấy Trinh Tú xinh đẹp đoan trang, thường khen cô trước mặt mọi người. Thiệu Nho biết được, nhờ mối nói vun vào, rồi gả Trinh Tú cho anh. Họ sống với nhau rất hòa hợp, suốt đời sung sướng. Về sau Thiệu Nho lại thi đỗ. Vương Minh Sơn không có người nối dõi, định nuôi con một người thuộc chi gần, nhưng không vừa ý. Ông ta bèn cưới một người vợ lẽ, song quá dâm đãng, đến nỗi đổ bệnh, ốm liệt giường, biết rằng không thể sống được nữa mới nuôi con của một người thuộc chi xa. Người chi gần không nghe, đâm đơn kiện. Minh Sơn đang ốm phải vào thành đút lót nên thắng kiện, rồi chết ngay tại huyện. Vợ lẽ trốn theo trai. Con nuôi không nên người, chỉ trong mấy năm gia tài khánh kiệt.
Các bạn thân mến, người ta sống trên đời, đáng sợ nhất là nghiện phiện. Cái hại của thuốc phiện còn nguy hiểm hơn nhiều so với rượu và gái. Rượu và gái nói bỏ là bỏ được ngay, còn cái hại của thuốc phiện đến chết vẫn không buông tha, nó còn đeo đẳng người ta tới mãi âm ti địa ngục, làm ma vẫn không yên. Thiên Hỷ giấu cha mẹ hút thuốc phiện, khiến cha mẹ đau buồn. Sau đó bị rết giết chết, làm cho vợ phải mắc oan, cha mẹ tuyệt tự, tuy giàu có, vợ đẹp cũng không được hưởng thụ. Vương Minh Sơn thương luân bại lí, xúi bẩy kiện tụng, keo kiệt đến nỗi phải tuyệt tự, người và của đều mất sạch. Lý Trinh Tú đoan trang hiếu thuận, tuy gặp oan khuất, cuối cùng được thần thánh minh oan, hưởng phúc suốt đời. Ngũ thị hùa theo cái xấu, bởi thế phút chốc lâm vào cái chết. Vợ chồng Lý Thiệu Nho biết nuôi dưỡng dạy bảo con, cuối cùng con gái nên người. Còn như Thôi tiên sinh dạy trò không nghiêm, khó mà dạy người ta được, khiến cho vợ theo trai, con phải chết, ấy là phạm nhân trong số Nho gia. Sau này nhất định sẽ chịu báo ứng.

Qua vụ án này, ta thấy thầy phải luôn luôn răn đe những học trò hút thuốc phiện. Phải hết sức thận trọng, đừng coi đây là chuyện trò đùa. Đã mắc nghiện thì không những sẽ lười nhác mà còn bê trễ học hành, công không thành, danh không toại mà còn khuynh gia bại sản. Đã là người thầy người trò, phải lấy Thôi tiên sinh, Vương Thiên Hỷ làm bài học cho mình. Vụ án này tôi nghe thấy khi đi thi, sợ rằng đã lâu ngày, tên người, tên địa phương có thể có chỗ sai, xin các bạn tha thứ.

HOMECHAT
1 | 1 | 199
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com