watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:41:4018/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 12 - Hết - Trang 11
Chỉ mục bài viết
Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 12 - Hết
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Tất cả các trang
Trang 11 trong tổng số 12

Chương 21

Nhuộm Thịt Tay, Bổ Đầu(1) Dạy Bí Quyết
Nạn Vu Vơ, Quỷ Kế Khó Phòng Ngừa


Thôn Minh Phượng làng Tây huyện Thiên Trường, tỉnh An Huy, có hơn năm trăm nhà. Đây là một thị trấn khá lớn. Cư dân phần đông làm nghề chài lưới. Có một người tên là Chử Trung, trạc hai mươi mốt tuổi. Trước đây khi cha mẹ còn sống, nhà cũng có bát ăn bát để. Chử Trung cũng tới trường học được mấy năm, tuy không thông thạo lắm, nhưng những giấy tờ và sách vở thông thường cũng đọc được. Sau khi cha mẹ chết, chỉ còn lại một mình, không bị ràng buộc, lại nhàn rỗi, nên suốt ngày rong chơi. Vì anh ta không có nghề nghiệp gì nên chẳng ai thèm để ý tới. Hằng ngày ngủ dậy anh ta mang hàng trăm đồng đi bát phố, gặp rượu là uống, gặp cơm là ăn. Quả đúng như người xưa nói, miệng ăn núi lở. Chưa đầy hai năm, gia tài khánh kiệt, dần dần nghèo túng, không sao sống nổi. Về sau có một người anh em họ xa, sống ở thành làm nghề buôn bán nhỏ, gọi anh ta tới bán hàng giúp.
(1) Bổ đầu: người đứng đầu tổ chức truy lùng tội phạm ở huyện thời xưa

Nào ngờ Chử Trung là người hay ăn mà chẳng hay làm. Người anh em họ ấy bị thua thiệt, đành phải cho anh ta mười quan tiền rồi đuổi đi. Anh ta dùng mười quan tiền ấy nhờ người tìm việc, tìm được việc rồi lại không chịu làm, chỉ được dăm bữa nửa tháng lại chuyển sang nhà khác, chẳng làm cho ai được lâu dài.

Một hôm không có việc, anh ta đi chơi lăng quăng trên phố, lại đúng vào ngày cúng Thành Hoàng có diễn kịch. Chử Trung cũng chen vào đám đông xem, thấy một ông già đứng trước ăn mặc rất sang trọng. Đầu tiên, ánh nắng chiếu lóa mắt mọi người, người thì đội mũ, người thì dùng tờ giấy gấp vào rồi dùng chiếc đuôi sam kẹp lấy trước mặt. Chỉ có ông già là đeo một chiếc kính râm, chẳng sợ gì lóa mắt. Một lát sau ánh nắng dịu đi, ông già đeo kính râm nhìn không rõ, bèn tháo kính ra, bỏ vào túi áo khoác, Chử Trung nhìn thấy. Tiếp đó, trên sân khấu, hát bài Bát Lạp miếu, người xem náo nhiệt hẳn lên. Võ Tiểu Sinh múa đao tuyệt diệu, ai ai cũng sững sờ. Lại có thêm người mới đến, chen lấn vào. Đúng lúc kẻ xô người đẩy Chử Trung rón rén rút lấy chiếc kính trong túi ông già. Sung sướng quá, chẳng thiết xem kịch nữa, cố sống cố chết chen ra.

Vừa ra khỏi đám đông, anh ta bèn đeo kính lên, thấy đằng sau có người vỗ vào lưng nói:
- Anh bạn, làm ăn có khá không?
Chử Trung vội quay đầu lại, thì đó là một người đàn ông cao lớn vạm vỡ, vẻ mặt hung ác, đôi mắt dữ tợn, song không hề quen biết. Chử Trung ngơ ngác hỏi:
- Xin ông cho biết tính danh, chúng ta gặp nhau ở đâu nhỉ? Tôi bỗng chốc không nhớ ra.
- Khá, khá lắm, - người ấy nói, - ngay đến ta mà anh cũng không nhận ra, trước mặt có quán trà, ta đến đó uống rồi nói chuyện.
- Tôi vốn không quen biết ông, đâu dám quấy rầy.
- Chúng ta đến đó uống trà, thì anh sẽ biết ta là ai.
Chử Trung hỏi họ tên. Người ấy nói:
- Tí nữa sẽ biết.
Chử Trung theo người ấy vào quán trà, quán đông nghịt, không có chỗ ngồi. Người ấy nói:
- Ở đây không tiện nói, chúng ta đi chỗ khác.
Nói xong người ấy kéo Chử Trung đi loanh quanh mãi mới tới một nơi vắng vẻ bên góc tường thành, ở đó có mấy gian nhà cỏ. Xung quanh đấy không có nhà dân. Chử Trung thấy nhờn nhợn. Người ấy bảo Chử Trung vào, rồi ngồi ngay trước mặt, nhìn xoáy vào Chử Trung cười. Chử Trung chẳng biết thế nào, mặt đỏ lên rồi tím tái. Dùng một lát, người ấy nói:
- Ta xem ra thì ngươi mới nhảy cầu!
Chử Trung không hiểu, cứ ngây người ra nhìn người ấy.
- Ngươi đừng giả vờ ngốc nghếch nữa, việc của ngươi đã vỡ lở rồi
Chứ Trung hoảng sợ nói:
- Tôi làm gì mà vỡ lở! Ông là ai?
- Việc ngươi làm, ngươi tự hiểu. - Người ấy cười lạnh lùng nói. - Những việc khác không nói, ta chỉ hỏi chiếc kính ngươi lấy ở đâu?
Chử Trung nghe xong, nghĩ bụng: "Nguy rồi, người này nhất định là Bổ khoái(1). Song đã như thế, không thể không cãi lại. Thế rồi Chứ Trung vội đứng đậy nói:
(1) Bổ khoái: người ở nha môn chuyên đi bắt người thời xưa.

- Kính của tôi, liên quan gì tới ông. Tôi cứ tưởng ông mời tôi làm gì, hóa ra là vì chiếc kính. Chiếc kính là của tôi, lẽ nào tôi đeo cũng phải nói với ông! Điều ấy thật nực cười!
Nói xong định bỏ đi. Người ấy nói:
- Khá, khá, ngươi khá lắm! Bây giờ không còn cách nào khác không cho mày ném thử đòn thì mày không sợ. Còn như mày muốn đi, thì dù mày có cánh cũng không bay được.
Chử Trung vừa ra tới cửa thì người ấy lôi lại, rồi huýt một tiếng sáo, bỗng thấy hai ba người ở nhà bên đi tới, đều là những kẻ mặt mũi gớm guốc, mắt tráo trưng, lông mày dựng ngược.
Người ấy nói:
- Hôm nay chộp được một tên mới vào nghề, các người dạy cho nó một bài học, không cần phải ghê gớm lắm. Song thằng này rất bướng, không cho nó biết phép tắc thì nó không sợ. Các người ở đây hành sự, hỏi nó về hoàn cảnh gia đình. Ta có việc phải đi, tối nay về nói lại cho ta biết.

Hai người này vâng lệnh, còn người kia bỏ đi.

Hai người vào phòng nhìn Chử Trung một lượt, Chử Trung vội đứng dậy chào, chúng chẳng thèm để ý. Một đứa lại, túm tóc Chử Trung lôi, còn đứa kia lấy chiếc thùng quấn từ cổ tay lên khuỷu tay, cánh tay thẳng đứng, cứng đơ không cử động được. Chúng lại dùng chiếc thừng khác quấn chân vào một chiếc cột. Khi chúng cuốn, Chử Trung gào lên kêu cứu.

Song nơi đây cách nhà dân rất xa, không ai nghe thấy. Cho dù có nghe thấy họ cũng cho là bổ khoái bắt trộm nên chẳng ai hơi đâu mà để ý tới, dù anh có kêu khản cổ rát họng cũng chỉ uổng công. Chử Trung kêu được một lúc, thấy hai cánh tay tê dại, đau đớn như đóng thành băng giá, hoàn toàn không phải là của mình không sao chịu nổi. Hai người ấy lại lấy ra một nắm đũa nêm vào từng vòng thừng quanh tay. Càng nêm càng chặt, những chiếc đũa kẹp vào thịt, cứ thế mỗi vòng một chiếc, nêm vào đến bảy tám chiếc đũa. Chử Trung như lợn chọc tiết mắt nẩy đom đóm, kêu khóc van xin, chúng vẫn cứ mặc thây không thèm để ý tới. Chử Trung không còn cách nào khác đành phải nói:
- Tôi là thằng ngu đần. Các ông muốn sao thì tôi làm vậy. Các ông cứ nói rõ tôi sẽ làm theo các ông.
Thấy nói thế, hai người kia mới hỏi họ tên. Biết nhà Chử Trung không còn ai, chúng rất mừng. Rồi bảo anh rằng, đó là lễ ra mắt khi làm nghề ăn trộm.
- Tôi có ăn trộm, ăn cắp gì đâu. - Chử Trung nói.
- Phải rồi. - Hai người ấy nói. - Từ nay mày tha hồ mà ăn trộm. Ta còn phải dần dần dạy ngươi tất cả mọi phép tắc nhà nghề.
Đang nói thì người bỏ đi trước đó trở về, nhìn một lát rồi cười nói:
- Nó đã nhận đủ rồi, thôi tháo ra, đánh dấu cho nó.
Hai người ấy cởi thừng ra, những chiếc đũa kẹp vào thịt, tháo ra thành vết tím bầm, xung quanh máu sưng mọng. Một người vào phòng bê ra một chậu mực đặc mầu chàm, quét lên những chỗ thịt toạc ra, một lát sau mực ngấm vào thịt, đến khi thành sẹo rửa cũng không sao sạch được.
Xong xuôi, chúng bắt Chử Trung quỳ xuống nghe giáo huấn. Chử Trung chỉ biết chịu đau theo lệnh quỳ xuống. Người ấy nói:
- Ta nói cho ngươi biết, ta là bổ khoái đầu Ngô Lương. Ngươi mà vào nghề phải cúi lạy ra mắt ta, tại sao ngươi tự ý làm bừa. Nay ta nhận ngươi làm đồ đệ, ngươi tha hồ hành nghề. Song quy tắc hành nghề là phải nộp cho ta bảy phần hoa hồng. Ngươi buôn bán ta cũng khấu đi bảy phần, còn ba phần để cho ngươi sử dụng. Nếu che giấu ta việc gì ta sẽ giết chết. Lại còn thế này nữa, người nào phòng bị nghiêm cẩn, hoặc là quan nhất định đòi phá án, phải làm gấp, bất luận thế nào, bắt đồ đệ phải đứng ra nhận, thì ngươi phải nhận và khi nhận cũng không được nói là người đứng đầu, chỉ nói là làm theo, hoặc là canh chừng, như thế bất quá cũng chịu đánh mấy gậy.

Những trận đòn ấy cũng chỉ là món nợ nhân tình mà thôi. Người nắm hình phạt đều là bạn bè của ta. Biết được đồ đệ của ta họ sẽ không đánh đau, mà cũng chỉ là đánh làm phép để che mắt mà thôi. Đánh xong lại trả về chỗ ta. Còn cái này nữa, ngươi đi ăn trộm phải nhớ nhà cửa, phương hướng, khi có cơ hội thì có thể trèo vào. Hiểu rõ ngọn ngành thì tiền của nó là tiền của mình. Việc này mọi người đều có lợi. Đó cũng chỉ là nhà buôn bán hoặc bỗng nhiên giàu có thôi, còn những thân hào thân sĩ, hoặc là kẻ sĩ thì chớ có đụng vào. Lại nữa, khi thi huyện cũng đừng động vào những ông trời con ấy. Sợ rằng gây sự với họ, họ sẽ dựa vào đông người, thì lúc ấy quan cũng bênh họ. Còn như bình thường lấy trộm nhà người ta cũng có mấy điều bí quyết. Đó là lấy trộm lúc có gió, không lấy lúc có trăng.

Lấy trộm lúc có mưa, không lấy lúc có tuyết. Tại sao phải như thế! Là vì khi gặp gió to, then cửa, cánh cửa nhà người ta luôn có tiếng động, người ta sẽ không nghi ngờ, thì mình nhờ tiếng gió ấy mà áp sát, rồi lẻn vào. Nếu trăng sáng, người ta nhìn thấy rõ cũng bất lợi. Khi trời mưa cũng có tiếng động như khi có gió. Nếu là trời có tuyết rơi cũng không được, bởi vì nếu chẳng may có động, họ chợt tỉnh, thì họ cứ theo dấu chân hằn lên tuyết mà đuổi. Còn như mùa hạ, mấy ngày liền trời nóng nực oi bức, bỗng đột nhiên mát mẻ, người ta sẽ ngủ say, hoặc là nhà nào có việc cưới xin, ma chay, mấy ngày liền bận rộn mệt mỏi, thì đây là những cơ hội tốt nhất. Khi đi lấy trộm, điều đáng sợ là bị người ta đuổi, bởi vậy khi vào nhà, phải chuẩn bị trước đường tháo chạy, những lối cửa ngoắt ngoéo, và sân, vườn, đều đặt sẵn những chướng ngại vật như ghế tựa ghế đẩu để người rượt đuổi vô tình mà vấp ngã. Mà đã ngã thì phải nắn bóp chỗ đau như thế mới có thời gian chạy thoát thân.

Nếu nhà ấy đóng chặt cửa không lấy được gì, thì đó là điều tối kị. Người xưa nói, đi lấy trộm đừng về không, không cần câu nệ, cứ phải lấy một chút gì đó. Mà nhược bằng không lấy được gì thì cũng phải ỉa một bãi giữa sân. Đây là những bí quyết bất di bất dịch không thể nào thay đổi được. Còn như đã đào tường khoét ngạch xong, phải chui ra chui vào thử đi thử lại. Nếu khoét ngạch mà vướng phải gỗ thì phải đào lại chỗ khác. Vì ngươi mới vào nghề, cho nên ta dạy tỉ mỉ như thế. Ngươi đừng nói rằng ngươi đi ăn trộm ta bắt được ngươi rồi lại bảo ngươi đi ăn trộm. Ta nói thực với ngươi, bổ khoái cũng là trộm cắp. Ngươi thử nghĩ mà xem, ông lớn không cho tiền, thì bổ khoái chúng ta ăn sương sa uống nước lã sương sa mà sống à, bởi thế ta phải làm trò ma quỷ này. Rất may nhà ngươi không còn ai, tạng ngươi cũng không buôn bán được, nên chỉ theo con đường này là ổn định nhất. Nếu ngươi vào công đường gặp quan, dám cả gan nói là ta bức ngươi đi ăn trộm thì ngươi cứ nói. Nếu thế thì sau khi ngươi ra khỏi công đường ta sẽ tính sổ với ngươi.

Chử Trung nghe một thôi một hồi như thế, cứ do dự mãi. Người xưa thường nói, người sợ vào tròng, sắt sợ vào lò. Hơn nữa tay mình đã nhúng chàm rồi thì mồm năm miệng mười cũng không sao cãi lại được, thôi thì nghe theo họ sẽ được ăn no mặc ấm. Thế rồi Chử Trung gật đầu. Ngô Lương rất mừng, bèn gọi hai người kia bảo:
- Từ nay về sau, các ngươi sẽ là anh em, các ngươi phải giúp đỡ nhau.
Rồi hắn nói cho Chử Trung biết, một người tên là Sử Đan, một người tên là Cái Tứ. Mọi người làm lễ ăn thề, Chử Trung một lòng một dạ làm nghề ăn trộm, hết lòng vì bổ khoái.
Ngô Lương lại cặn kẽ dạy dỗ Chử Trung một hồi, rồi quay lại nói với Sử Đan rằng:
- Hai thằng nhãi kia thế nào?
- Nó bảo đúng là nó ăn trộm, - Sử Đan nói, - nhưng ở đây mới là lần đầu, song nó không hề gây án. Bảo nó nhận gây ra vụ án ấy, nó không chịu nhận.
- Lần trước đã ép mạnh, mà nó không nhận thì hãy cho nó nếm thử một chút phép tắc. - Rồi lại chỉ vào Chử Trung nói. - Chử Trung mới đến, vẫn chưa yên tâm, hãy cho đi xem hai thằng nhãi ranh này, dù nó mình đồng da sắt cũng phải bắt nó khuất phục. Ngươi hãy đi làm mau lên.

Sử Đan rủ Chử Trung và Cái Tứ cùng tới gian nhà phía Tây. Chử Trung sợ quá, trống ngực đập hơn trống làng, đầu óc anh cứ loạn cả lên. Lúc thì nghĩ, đúng là không nên lấy chiếc kính này, nay họ bắt quả tang, thì làm thế nào cho phải. Thôi thì tới khi nào vào cửa quan, ta cứ khai hết ra, lẽ nào quan lại cứ bắt mình đi ăn trộm! Hơn nữa tổ tiên ta còn có chút danh dự nếu đi ăn trộm thì còn mặt mũi nào mà nhìn người ta nữa! Còn như chứng cứ thì khi gặp quan mình cứ nói thẳng, lẽ nào trước công đường mình không thanh minh được!

Đang lúc ngổn ngang do dự, thì đã thấy Cái Tứ dẫn một người tới, hắn để anh ta ngồi xuống rồi nói:
- Thầy chúng ta quả là đã bắt bừa. Ngươi không gây án ở đây thì cớ gì cứ bắt ngươi đi nhận án! Quả là đã vô cớ bắt ngươi phải nhịn đói một ngày, ta là người rất nhân từ, bây giờ ta giấu thầy Ngô Lương bưng cho anh hai bát mì, có điều mì sợi to và không được ngon lắm, anh hãy ăn tạm cho đỡ đói.

Nghe xong người ấy rất cảm động. Cái Tứ bèn bưng ra hai bát mì to. Những sợi mì bằng ngón tay út, đó là hai bát mì suông, dở sống dở chín. Người ấy đói ròng rã một ngày, chẳng nề hà gì, rối rít cám ơn, rồi bỗng lên húp soàn soạt, ăn hết một bát, lại bát nữa, phút chốc hai bát mì hết nhẵn.
Ăn xong, Cái Tứ giở giọng, nghiêm mặt nói:
- Tí nữa thầy ta hỏi việc ấy thì ngươi nói sao?
- Quả thực lần đầu tiên tôi đến đây thì bị thầy tóm được, thực ra tôi chưa từng gây án, tôi không hề nói dối.
- Ngươi thề cũng chẳng được. - Cái Tư cười nói. - Ta nói thực với ngươi. Hiện nay thầy bị cấp trên bức bách, phải phá án gấp vụ án nhà họ Dư ngoài cửa Đông. Không còn cách nào khác, đành phải bắt ngươi nhận cho xong chuyện. Ngươi nhận thì nhận, nếu không nhận thì ngươi là người trong nghề, lẽ nào ngươi không biết luật nhà nghề! Đã nói đến thế mà ngươi không nghe thì cũng đành phải vô phép ngươi thôi!
Nói xong, bèn gọi Sử Đan tới xem, còn Cái Tứ thì lấy ra một chiếc chiếu, và hai cái thừng, trải chiếu xuống đất, lật ngã sấp người ấy xuống giữa chiếu, rồi lại dùng thừng buộc xung quanh, thẳng đuỗn như một khúc gỗ, rồi dộng ngược lên, chống vào sau cửa.
Các bạn thân mến, đây là hình phạt phi pháp, gọi là: “Hai con rồng mọc râu”. Bị dộng ngược xuống chỉ độ một lát, người ấy mặt mũi tối sầm lại, hàng trăm mạch máu đảo lộn, tất cả dồn xuống óc, hai bát mì sợi to, từng sợi tùng sợi một theo mắt, tai, mũi mồm chui ra khiến đầu óc người ấy quay cuồng, không còn biết đâu là trời đất. Người ấy còn đau đớn hơn gấp mấy lần bị tùng xẻo(1) lăng trì(2). Chúng coi hai lỗ mũi là hai con rồng, những sợi mì là râu rồng. Người bị dộng ngược rơi vào tình trạng muốn chết đi cũng không xong, cứ thế kêu gào, sau đó tiếng kêu yếu dần, chỉ còn nghe thấy tiếng nói mơ hồ mới thả ra. Chờ đến khi tỉnh hẳn, chúng hỏi thế nào. Người ấy đáp:
- Trời ơi! Thôi, thôi tôi xin nhận. Sử Đan và Cái Tứ thấy thế vui mừng nói:
- Chẳng phải ngươi đã phí công ư? Nếu ngươi chịu nhận sớm thì đâu đến nỗi thế?
(1) Tùng xẻo: là hình phạt dã man thời xưa, đánh một tiếng trống xẻo một miếng thịt.
(2) Lăng trì: buộc chân tay phạm nhân vào bốn con ngựa, đánh ngựa chạy về bốn phía xé xác người ra.
Đứng bên cạnh, Chử Trung thấy thế khiếp mất vía, nghĩ bụng: "Tàn khốc đến thế, thật khó mà chịu nổi: Nó không bắt mình chết, giá mà chết ngay đi, thì còn dễ chịu hơn. Thấy tình cảnh này, nếu mình lên công đường khai thẳng ra, thì hãy nhìn tấm gương ấy".
Đang lúc do dự thì Cái Tứ và Sử Đan lại lôi một người vào cũng bảo người ấy phải nhận một vụ án nào đó. Người ấy không chịu, xem ra anh ta lâm vào tình thế vô cùng khốn đốn. Cái Tứ, Sử Đan cũng không nhiều lời, hành động ngay, chúng lôi anh ta tới đặt nằm trên một chiếc ghế dài, dùng hai chiếc thừng một chiếc buộc đùi vào ghế, một chiếc chằng ngực vào ghế, trói chặt hai tay ngoặt ra phía sau. Vừa buộc vừa làu bàu chửi, sau đó lấy một viên gạch nhét xuống dưới lưng, dù không nhét được, nhưng chúng cũng cố nhét, lát sau lại nhét thêm một viên nữa, bụng anh ta ưỡn lên, chân và đầu cong oặt xuống. Sống lưng người ấy đau đớn vô cùng. Lúc đầu còn miễn cưỡng chịu được khi nhét đến viên thứ hai trở lên, anh ta kêu như bò chọc tiết. Đến khi nhét vào viên gạch thứ tư, người ấy luôn mồm xin tha tội, bất kể bảo anh ta làm gì anh ta cũng không dám chối từ. Cái Tứ, Sử Đan thấy anh ta tình nguyện, mới từ từ cởi thừng ra, người ấy không sao ngồi dậy được. Cứ nằm thế một lúc lâu mới đứng dậy.
Thấy thế Chử Trung vô cùng sợ hãi. Cái Tứ, Sử Đan nói với Chử Trung:
- Đây là ghế ông hổ, đó là phép tắc chúng ta vào nghề. Cái đó ngươi đều biết rồi. Không biết thầy có duyên gì với ngươi mà không để ngươi thử nếm mùi một chút. Tóm lại, nếu anh không vào thì thôi, mà đã vào thì dù là mình đồng da sắt cũng không thể trốn tránh được. Hai người này trước đây cũng như ngươi, song nhẹ không ưa lại ưa nặng, nếu không thế thì chúng không chịu nhận, thế mới biết chúng là đồ hèn. Nói thực với ngươi nhé, hình phạt của quan nặng nhất cũng chỉ là quỳ, xiềng xích, cùm kẹp, song cũng không dùng tùy tiện, chỉ có những kẻ cứng cổ mới chịu phạt đến thế thôi. Còn như hình phạt riêng ở đây chẳng lo gì ngươi không sợ, dù anh có đúc bằng sắt cũng phải dìm xuống nước để tôi.

Chương 21 (B)

Chử Trung nghe xong run cầm cập, rụng rời cả chân tay, tới lúc này mới thực sự một lòng một dạ đi theo họ, không nghĩ gì khác nữa. Cái Tứ và Sử Đan lại đi lấy cơm gạo hẩm cho họ ăn, chỉ coi đây là chút điểm tâm, chứ không được ăn no. Lục phủ ngũ tạng của hai con rồng này chưa trở lại bình thường, cũng không dám ăn thêm. Thế rồi chúng nằm bừa xuống đất ngủ.
Sáng sớm hôm sau, Ngô Lương tới. Cái Tứ nói mấy câu, Ngô Lương gật gật đầu. Trước hết bảo người ngồi ghế ông hổ đi nhận:
- Ngày mồng một tháng Tư chúng tôi cạy cửa vào nhà họ Chu ở ngoài cửa Đông lấy mười hai chiếc áo da, một gói đồ trang sức gồm: một chiếc xuyến vàng, hai đôi khuyên vàng, hai chiếc trâm vàng; một vòng cổ bạc, với bốn pho tượng Phật nhỏ bằng đồng, một chiếc áo khoác ngoài bằng đoạn màu thanh thiên, một chiếc áo khoác ngoài bằng nhiễu Hồ đen, một chiếc áo khoác lụa Ninh màu lam, đều là áo lông cừu và chín chiếc áo cộc tay bằng da. Ngươi chỉ nói có hai người đầu sỏ là Triệu Lão Tứ, còn người đứng ngoài canh chừng nhận đồ. Lúc ấy Triệu Lão Tứ ôm một bao ra, đưa cho hai đôi khuyên vàng, một chiếc xuyến còn lại anh lấy hết. Vì anh ấy vào lấy nên đòi chia nhiều hơn. Nếu quan hỏi ngươi, quần áo đâu thì ngươi bảo bán cho người không quen biết được hai đồng, tiện tay đánh bạc thua hết. Hỏi đồ trang sức thì ngươi bảo bán cho thân quyến nhà quan đi thuyền ngang qua chỉ được hai đồng, cũng ăn hết rồi. Hỏi sau đó ngươi đã lấy của ai, ngươi cứ nói bừa là đã lấy trâu của Từ Ngũ và vải của Trịnh Nghĩa Hòa. Hỏi tang vật đâu thì vẫn cứ nói là đã bán cho người không quen biết. Hỏi tiền, thì ngươi nói đã dùng hết rồi. Hỏi xong chẳng qua chỉ đánh ngươi mấy trăm tay thước, ngươi phải chịu đựng qua cửa này, sau này dù ngươi thế nào cũng không đến nỗi chịu thiệt. Ngươi phải nhớ hết từng lời, nếu sai mà lộ ra, bị quan bác bỏ, thì sau này chúng ta không sao trả hết nợ được.
Sau đó Ngô Lương lại gọi người kia ra, bắt người ấy phải nhận một vụ án khác, đại khái cũng dặn dò gần như người trước. Sợ rằng người ấy quên, lại bảo Cái Tứ và Sử Đan luyện tập cho người ấy một hồi. Chử Trung nghĩ rằng: "Đây quả thật là những ngày đen tối. Trước đây ta chỉ nghe thấy bị mất trộm thì báo bổ khoái, bổ khoái bèn đi bắt kẻ trộm, nếu không thì quan ắt không dựa vào họ. Nào ngờ họ bất chấp cả trời đất, pháp luật, bắt người tốt phải nhận là trộm cắp. Từ đó mà suy ra, giá không có bổ khoái thì có lẽ trộm sẽ ít đi. Cứ làm theo họ, thì về sau ba người chúng ta, ngoài việc đi lấy trộm ra, còn có việc gì đáng làm nữa, chẳng phải họ đã dung dưỡng toàn những kẻ trộm cắp ư? Ta đã mắc tròng, bây giờ chẳng còn cách gì khác nữa, trước mắt ta theo họ sống cuộc sống bụi đời ít ngày, đợi khi nào họ không phòng bị, thì ba mươi sáu kế, chuồn là tốt nhất. Song tay ta đã có chứng cứ thì phải thế nào mới được! Ít lâu nữa ta phải đi bàn bạc với người anh em họ".
Trong lúc Chử Trung đắn đo tính toán, thì thấy Ngô Lương hỏi:
- Đã nhớ kĩ chưa?
- Nhớ kĩ rồi - Hai người kia vội trả lời.
Ngô Lương đích thân hỏi lại một lần nữa, quả thấy rất đúng, rồi không nói gì thêm, bảo họ đi ăn chút cơm, nói đã chiều rồi chắc là quan cũng đã dậy. Rồi dẫn hai người này đi báo quan.
Đến tối, Ngô Lương trở về, theo sau còn có hai người và một người còn trẻ bị xích bước vào. Trước hết Ngô Lương bảo người ấy dẫn họ sang gian bên, rồi Ngô Lương tới nói chuyện với Chử Trung:
- Ngoài cửa Tây có một nhà giàu họ Trần, xuất thân từ cử nhân, lại có chút thế lực. Quan huyện cũng hết lòng với ông ta. Vì địa phương đang cần một khoản tiền quyên góp, tất cả đều trông ở ông ta. Cờ quạt và tấm biển Chính Đức của ngài quan huyện đều nhờ ông ta đóng góp đầu tiên, nếu ông ta không lên tiếng đóng góp thì dân chẳng ai đóng góp. Nhũng quan nhậm chức trước đây, không ai dám làm mếch lòng ông ấy. Hơn nữa ông ấy đối xử với quan Huyện rất tốt. Không ngờ cuối tháng trước bỗng nhiên ông ấy bị mất một mẻ đồ, đó là hai hòm quần áo trong đó có một số hàng da, hai nén bạc, cả thảy là hơn trăm lạng, lại còn năm mươi đồng bạc thật, ngoài ra còn mất một tờ hóa đơn. Quan hết lòng vì việc nhà của ông, nên kiên quyết phá án. Trước tiên ngài hạn trong nửa tháng phải phá án nay lại gia hạn trong ba ngày. Ta nghĩ việc này cần ngươi phải đương đầu với vụ án này.
Chử Trung nói:
- Tôi nghe nói tội trạng đầy rẫy, như thế thì nguy hiểm lắm. Tôi nhận thì tính mạng của tôi sẽ ra sao?
- Không sao, việc này còn phải bàn. Hôm sau ta đưa ngươi ra tòa, ngươi nói tất cả có bốn người, hẹn nhau vào lấy trộm. Vì tôi là người ngoài nghề, sợ tôi lỡ gây ra điều gì sơ suất, nên họ chỉ bảo tôi đứng ngoài nhận đồ, bởi thế nhà cửa họ Trần thế nào tôi không hay biết. Nếu hỏi họ tên ba người kia, thì ngươi cứ bịa ra họ tên mấy người ấy. Nhưng đã bịa ra thì phải nhớ cho kĩ, lần thứ hai không thể nói sai một chi tiết nào. Quan hỏi ngươi được chia những gì, thì ngươi chỉ nói được chia bốn đồng bạc thật. Nhất định quan không tin, ngươi nói đây là lần đầu tiên tôi nhập bọn, theo lệ thì không được chia nhiều, đây là luật giang hồ. Quan hỏi, những người kia hiện nay ở đâu, ngươi nói không biết. Lúc đầu cùng đến tụ tập tại trang trại nhà họ Chu ở Nam Hương, trang trại này có một người tên là Chu Tử Ngọc, mở cửa hàng tạp hóa lớn, phía sau là nhà ở, cửa hàng quay hướng nam. Đêm lấy trộm đồ, mọi người về nhà Chu Tử Ngọc, họ Chu đón vào, nhặt lấy mấy chiếc áo và giữ lại một nén bạc, còn bao nhiêu chia cho chúng tôi. Vì tôi được chia quá ít, có ý không bằng lòng, Chu Tử Ngọc còn chửi bới, nhiếc móc tôi, và nói rằng lần sau sẽ được chia thêm. Nếu quan hỏi cửa hàng như thế nào thì ngươi bảo cửa hàng nửa cũ nửa mới, quầy hàng bày gọn gàng khéo léo. Trong cửa hàng có bốn người làm thuê. Bước vào thấy có hai cửa trước và hai cửa sau, có ba gian nhà và hai gian nhà trống, chúng tôi đều tới đó ngồi. Đằng sau còn có một vườn rộng, phía tây là bếp, dưới đó là nhà xí phía đông là một cây du to, bên cây du là một chiếc nhà nhỏ đó là nơi thờ Quan âm, bên trong có một cái khám dặt tượng Phật. Tôi thấy Chu Tử Ngọc để những thứ ấy trên nóc khám. Nhà ấy có một bà trạc bốn mươi tuổi, và một đứa trẻ độ tám chín tuổi. Chu Tử Ngọc để râu, mặt rỗ hoa, tóc lưa thưa hói tận chỏm đầu. Còn tai bà kia có một cái sẹo to. Còn những đồ bày trong quầy hàng, không có liên quan nên tôi không nhớ rõ. Những điều trên ngươi phải nhớ kĩ, không được coi thường. Còn những việc khác ta đã sắp đặt xong xuôi cả rồi. Nếu quan bảo ngươi đi phát hiện tang vật, thì ngươi phải nhận lời ngay. Việc này ngươi làm tốt, thì sau này ta sẽ quan tâm đến ngươi.
Chử Trung vừa nghĩ vừa vâng vâng dạ dạ. Bàn xong Chử Trung trầm ngâm hồi lâu, rồi đột nhiên hỏi:
- Làm như vậy thì Chu Tử Ngọc phá sản ư?
- Mặc xác hắn. - Ngô Lương cười nói.
- Tôi chẳng sợ gì, chỉ sợ gây ra oan nghiệt.
Ngô Lương nghe xong rất bực, nghiêm mặt hỏi lại:
- Oan nghiệt thế nào được!
Chử Trung thấy thế vội đánh trống lảng:
- Nói thế thôi, kể gì oan với nghiệt.
Ngô Lương đập bàn nói:
- Tốt! Coi như ngươi đã hiểu rõ rồi. Ngươi đừng ngủ, hãy xem ta làm một việc.
Chử Trung đành phải nghe theo.
Ngô Lương bèn gọi dẫn một người vừa đưa tới. Cái Tứ lôi người ấy ra, rồi bắt quỳ xuống. Ngô Lương nói:
- Đây có phải là người mà Phùng Lão Tam tóm được không?
- Đúng ạ! - Cái Tứ nói. - Hôm nay đến công đường xét hỏi, đánh một trăm gậy, bảo giam ba tháng mới tha.
Ngô Lương cúi xuống hỏi:
- Ngươi phạm tội gì? Tên là gì?
- Tôi là Từ Lão Bát, người huyện Đồng Thành. Vì nhà nghèo không sao sống nổi, lấy trộm một chiếc quần đã rách phơi ngoài sân, thì bị các ông bắt được.
- Ngươi đã ăn cắp mấy lần?
- Đây là lần thứ nhất.
- Ta xem ra người là một tên trộm già đời, sao lại bảo là lần đầu! Cái chiêu bài ấy của ngươi đã xưa rồi, ngươi không thể che mắt được ta đâu. Ta khác hẳn với ngài quan huyện xét hỏi ngươi hôm nay. Ngươi phải khai thực với ta mới đúng, người thì có tình, nhưng pháp luật không có tình, chắc rằng ngươi hiểu được, ta không cần phải nói nhiều. Từ Lão Bát thấy nói thế, biết rằng không thể giấu được, đành phải khai qua một số vụ án mình đã gây ra. Thấy đây không phải là việc ở địa phương này, Ngô Lương không thèm để ý tới, nghiêm mặt nói:
- Ta cho ngươi là một tay già đời quả không sai. Song ngươi đã đến đây cũng phải nói thế nào chứ!
- Tôi cũng chẳng biết nói thế nào!
- Khá lắm! Cái mồm ngươi chỉ biết ăn thôi ư?
- Được ông cho ăn, tôi vô cùng cảm ơn.
- Con mẹ mày chứ! Tao không mở hàng cơm, mà mở hàng cơm thì cũng phải trả tiền mới được ăn. Mày đừng giả vờ ngu ngốc, mày xảo quyệt cũng không được lâu. Người xưa nói, nhờ vào núi ăn núi, nhờ vào nước ăn nước, lại nói, chỉ có cá ăn nước, chứ nước không ăn cá. Chúng tao suốt ngày bận bã vất vả, kiếm tiền để nuôi mày ư!
- Xin ông bớt giận, - Từ Lão Bát nói, - tôi đã hiểu rồi. Nếu tôi có tiền lẽ nào tôi lại đi ăn trộm! Quả tình tôi không có ăn nên buộc phải đi vào con đường này. Xin ông thương tình, sau này tôi sẽ hết sức báo đền ông.
- Khá thật! Tiền ta không lấy mà để lại cho ngươi nợ, ngươi đừng tưởng bở. Ngươi có tiền cũng được, không có tiền cũng được, xem ra ngươi muốn quấy rầy ta. Ta không cần nhắc tới, vả lại ngươi có hiểu được luật vào cửa của ta không?
- Tôi không còn cách nào khác, tôi là người nơi khác tới, còn như luật vào cửa phải thế nào tôi cũng xin theo, không dám nói gì.
Ngô Lương giận dữ nói:
- Được rồi! Được rồi để xem mày có phải thòi tiền ra không. Cái Tứ hãy dạy cho nó biết luật. Vào cửa có ba phép, không để sót phép nào, ngày mai ta sẽ tới.
Nói xong Ngô Lương bỏ đi. Cái Tứ gọi Sử Đan tới. Sử Đan nói:
- Đây quả là một tên cứng đầu, thế mà ta không nhận ra hắn.
- Sao nó lại không biết, đúng là nó chỉ giả vờ ngu ngốc mà thôi. Anh đừng coi nó là người ngoài nghề, chúng ta hãy dạy cho nó biết. Nếu không được, chúng ta lại làm tiếp. Tuy nó chịu khổ nhưng chúng ta cũng rất vất vả.
Cái Tứ nói với Từ Lão Bát:
- Ông bạn là người trong nghề, đừng có giả vờ ngốc. Ngươi tưởng ngươi ranh mãnh, nhưng chúng tao cũng không phải là thằng ngu. Ngươi đã đến, nếu có thì bỏ ra, ngày rộng tháng dài bạn bè đánh chén mừng gặp mặt. Lẽ nào thầy phải cung đốn cho ngươi ăn ư? Nếu quả ngươi không có thật thì ngươi cũng phải nghĩ cách mà kiếm chớ, chả nhẽ anh em mình không giúp đỡ được nhau sao. Nếu anh cứ quẫn sĩu, nói suông như thế thì sẽ chịu đau đớn hơn những chiếc gậy nhỏ của quan lớn ở công đường. Ngươi lầm rồi hãy nghĩ lại đi.
- Trời ơi, cái ăn thì đã ở trong bụng, cái mặc thì đang ở trên người, tôi xa nhà, tứ cố vô thân, cửa quan buộc tôi phải thu nhân tích đức, các ông thương tôi là tốt rồi.
Cái Tứ nói:
- Ngươi xem đấy, chúng ta nói nghiêm chỉnh, mà cái thằng nhóc này không biết yên thân. Chúng ta chẳng hoài hơi mà nói với nó nữa. Còn thằng này, mày không chịu nổi thì đừng có trách chúng tao.
Nói xong bèn bước tới, đẫy Từ Lão Bát ngã xuống, Sử Đan trói chặt chân tay, rồi bước một chiếc thừng treo ngang lưng, đầu kia vắt qua xà nhà, rồi hai người ráng hết sức kéo ngược lên, treo Từ Lão Bát chổng mông lên trời, người rũ xuống, thừng buộc chân tay càng thít chặt. Lúc đầu còn có thể chịu đựng được độ hơn mười lăm phút sau đau đớn cứ kêu gào. Đầu Từ Lão Bát lơ lửng chẳng tựa vào đâu, dộng ngược xuống, xương cổ như sắp đứt. Từ Lão Bát khóc lóc, chừng một giờ họ mới thả xuống.
Đúng lúc ấy thì Ngô Lương mang một chiếc túi bước vào, ngồi xuống nói với Chử Trung.
- Chúng ta đi làm một việc. Việc chúng ta bàn, ngươi đã nhớ kĩ chưa? Không được quên. Ngày mai chúng ta gặp nhau. - Sau đó lại nói với Cái Tứ. - Ta giao Từ Lão Bát cho ngươi.
- Ông cứ yên tâm. - Cái Tứ nói.
Ngô Lương mang túi đi ra.
Từ Lão Bát được thả xuống, chừng hai giờ mạch máu vừa hoạt động trở lại, Cái Tứ và Sử Đan lại trói Từ Lão Bát vào một chiếc ghế dài, song khác với lần trước là đầu chúc xuống, rồi đốt một đóm giấy, hun vào lỗ mũi. Chử Trung nghĩ bụng: "Đây không biết là trò gì" Lẽ nào làm như thế mà khó chịu ư?. Nào ngờ chưa đầy mười lăm phút, Từ Lão Bát không sao chịu nổi. Lúc đầu còn kêu van, về sau cũng chẳng van xin nữa mà cứ réo cả tam đại tổ tiên họ lên chửi. Cái Tứ và Sử Đan cũng mặc, như chẳng nghe thấy gì.
Chử Trung lạnh cả gáy, song cũng nói cho Từ Lão Bát vài câu. Cái Tứ bèn hỏi Từ Lão Bát:
- Có nói gì không?
- Xin các ông thả tôi ra, tôi sẽ nói.
- Thật là phí công. - Cái Tứ nói. - Lúc thì trói, lúc thì cởi, tốn cả thời gian. Ngươi nói thì nói đi, không nói thì lại hun, có thế thôi.
- Nó chẳng bay đi đâu mà sợ? Để cho nó thử một chút.
Nếu như nó vẫn thế, chúng ta không chơi kiểu này với nó nữa, mà hun bằng vỏ đay.

Cái Tứ nghe theo. Chử Trung cũng tới giúp họ cởi thừng cho Từ Lão Bát. Lão Bát thở gấp một cái, vừa mới hoàn hồn, vừa khóc vừa nói:
- Tôi hoàn toàn không phải giả vờ ngu ngốc, quả thực tôi không có tiền. Dù cho các ông có giết chết tôi thì cũng thế, nếu các ông có cách nào thì cứ bảo tôi, dù phải gieo mình xuống sông hay lao người vào đống lửa tôi cũng làm.
- Ngươi đã nói thế, - Sử Đan nói, - ta cũng không thể nào từ bi bác ái được, ta sẽ cùng ngươi nghĩ cách. Chờ thầy về, người nói là người có mất tấm lụa, để tại cửa hàng lụa Vĩnh Thuận Hòa ngoài phố. Ta sẽ nói thêm cho ngươi mấy câu thì nhất định thầy sẽ cùng ngươi đi lấy. Tới đó ngươi đừng nói khác đi. Cho dù thầy có đánh chửi, ngươi cũng đừng nản chí, việc ấy cũng là giả thôi. Ấy là ta chỉ ra con đường sống cho ngươi.
Từ Lão Bát nghe xong, tính toán một hồi rồi theo họ.

Đến chiều hôm sau, Ngô Lương tay không trở về, Cái Tứ nói quả thực Từ Lão Bát không có tiền, chỉ có bốn tấm lụa, gửi lại hàng lụa Vĩnh Thuận Hòa, có thể lấy được. Họ nhìn nhau, hiểu ra ngay, và cũng không nói gì thêm.

Ngày hôm sau Ngô Lương dẫn Chử Trung đi thú tội. Khi quan tới công đường, Chử Trung bước lên nói rành rọt theo đúng như Ngô Lương đã dạy. Quan huyện nghe thấy có nhà oa trữ, đang định cử người đi bắt, thì Ngô Lương quỳ xuống nói:
- Con đi điều tra vụ án, nhiều lần nghe người ta nói nhà họ Chu có một nơi oa trữ. Nhưng dò hỏi không ra. Nay Chử Trung đã nói rõ ràng, xin mong ngài nhanh chóng cử sai nha mang lệnh bắt, nếu không e rằng biết được tin chúng sẽ tẩu tán mất. Nghe xong quan huyện gật gật đầu, lập tức cử bốn thân binh và bốn sai nha theo bổ sảnh đi phát hiện tang vật, bắt người. Chử Trung bị áp giải tới nơi oa trữ, nói sẽ thẩm vấn tiếp ở nơi cách thành không xa, bổ khoái dậy rất sớm, dẫn thân binh và sai nha đi cùng với Chử Trung, Ngô Lương tới trang trại nhà họ Chu, gặp địa bảo (lính bảo an địa phương), tới thẳng cửa hiệu nhà họ Chu, quát thét xông vào.

Bọn người vào nhà thấy gì lấy đó, Chu Tử Ngọc thấy ồn ào chạy ra, Ngô Lương trông thấy tóm ngay, bảo bổ khoái khóa tay lại. Sau đó tới nóc khám tại nhà thờ Quan âm khám xét, quả nhiên thấy một túi, trong đó có gói quần áo và năm mươi đồng bạc thật. Nhà cửa, phương hướng trong cửa hàng đúng như Chử Trung nói. Họ vẽ ngay một bản sơ đồ. Bổ sảnh muốn đuổi những người làm thuê ra khỏi nhà, rồi niêm phong. Sau đó rất may có một giám sinh ra, nói là cửa hàng này có phần của ông ta, thế rồi không phải niêm phong nữa, chỉ niêm phong phòng ở. Vợ của Chu Tử Ngọc cũng bị khóa tay giải vào thành. Chỉ có đứa con chín tuổi, bỏ đi cũng chẳng ai hỏi tới, còn có một người chú họ xa cùng đi với gia đình Chu Tử Ngọc. Lần rắc rối này, không chỉ những đồ trang sức quý hiếm của Chu Tử Ngọc không còn mà ngay cả những quần nâu áo vải, tất cả đều không cánh mà bay. Ngay cả hai con lợn và mười con gà cũng mất. Chu Tử Ngọc khóc lóc, chẳng biết mình phạm tội gì, đành phải chịu xích tay theo mọi người vào thành.

HOMECHAT
1 | 1 | 185
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com