watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:25:5204/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 12 - Hết
Chỉ mục bài viết
Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 12 - Hết
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 12

Chương 12

Sáu Ngón Tay

Làm người phải luyện thành ngọc trắng,
Dối lừa thành cầm thú mà thôi.
Gây oan nhất định trời trừng phạt,
Gia tài khánh kiệt, chẳng cháu con.

Lẫm sinh(1) Đới Bình Hồ, người Lô Châu, là người vô cùng tàn ác, không ngay thẳng. Tuy học vấn uyên thâm, văn chương sắc sảo, song quen thói võ đoán, xúi bẩy người khác kiện tụng. Hơn nữa ông ta lại thích mùi vị đàn ông, làm nghề dạy học để kiếm ăn. Nếu nhà nào có con xinh đẹp là ông ta ỷ thế lừa dối để gian dâm. Người xưa thường nói rằng: "Thầy bất chính, thì học trò làm loạn". Bởi thế học trò bắt chước ông. Hằng ngày tại thư phòng, đứa lớn cưỡng dâm đứa bé, ông ta cũng mặc, ngay biết rõ mười mươi, ông ta cũng chẳng đánh mắng. Thế là trường Khổng Mạnh biến thành chuồng lợn. Hằng ngày ông ta nốc rượu say bét nhè như điên dại.
(1) Lẫm sinh: tên gọi sinh đồ thời Minh, Thanh ở Trung Quốc, được hưởng học bổng của châu, huyện hoặc phủ (ND).
Vợ ông ta là Lã thị, nhà nghèo, xấu xí lại nỏ mồm. Lúc ấy vào tháng Tư, nhà hết sạch, vợ gửi thư bảo chồng đưa tiền về đong gạo. Bình Hồ góp được hai quan tiền mang về nhà, nhận được tiền, Lã thị mừng ra mặt, nói:
- Mấy lần xin tiền, ông đều kêu không có, hôm nay sao lại có hai quan, ông lấy đâu ra thế?
Bình Hồ có tiền bèn lên mặt, nói:
- Bà không biết à? Số tiền này là từ "Thầy Khổng Tử nói: "Học thì phải luôn luôn luyện tập, thế chẳng vui sao"(l) mà ra đấy”. Đêm ấy Lã thị bèn đi dọn rượu cho chồng uống để tiêu khiển. Bình Hổ uống rượu say xỉn, Lã thị phải dìu vào phòng ngủ. Nằm trên giường lão thấy cồm cộm, lấy tay sờ, thì đó là hai quan tiền. Đang chếnh choáng say, gã bèn hỏi vợ:
- Bà bảo rằng, bà ở nhà không có tiền mua gạo, thế thì hai quan tiền này ở đâu ra?
Thấy chồng nói chữ, Là thị cũng bắt chước dùng câu bên dưới đó để trả lời:
- Ông biết à, số tiền ấy là "Có bạn từ phương xa tới, chẳng sướng lắm sao"(2) mà ra đấy.
(1) Nguyên văn là: "Tử viết: học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ". Đây là câu trích cuốn Luận ngữ của Khổng Tử. Ý của Bình Hồ là, tiền do dạy học mà có.
(2) Đây là câu "Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ" trích trong cuốn Luận ngữ của Khổng Tử (ND).

Bình Hồ phát khùng nói:
- Mày sướng, nhưng tao đau lòng?
- Có tiền mà ông không vui, thì đói cơm ông mới vui sao?
- Dù tao có chết cũng không chịu nổi cái loại ấy.
- Loại gì? - Vợ đáp. - Loại lợn hay loại chó!
- Mẹ mày chứ, - Bình Hồ nói, - mày là đồ lang chạ. Ông sẽ bỏ mày.
Hai người tiếng bấc tiếng chì, rồi đến cãi nhau. Bố chồng nghe thấy bèn hỏi:
- Nửa đêm canh ba rồi, mà hai đứa vẫn còn cãi cọ nhau?
- Cha không biết à, con đang uất lên đây, - Bình Hồ nói. - Thưa cha, hãy nghe con nói, vì sao con nổi khùng ư, con dâu cha không còn là người nữa, cô ta đã phản bội chồng đi ngoại tình làm những việc xấu xa, mất cả thể diện. Cô ta nói rằng có bạn từ phương xa tới, rồi còn bảo là rất sướng, có tiền tiêu càng thích. Cô ta còn chiêu con hãy chết đói đi, có tiền không biết tiêu. Con là loại người nào ư? Còn nhỏ đã đi học. Vào trường được cử là lẫm sinh. Ra khỏi nhà ai ai cũng kính trọng gọi là ông. Thế mà lấy một con vợ xấu xa như thế. Ở nhà mà còn đi gian dâm làm xấu danh tiên tổ. Con mang tiếng là kẻ bị cắm sừng, thế thì còn dạy học làm sao được, thôi thì bỏ quách nó đi cho xong. Chỉ hận một nỗi là không giết nó được, khỏi phải tức đến lộn ruột.
Lã thị nghe thấy thế, dở khóc dở cười, nói với bố chồng:
- Thưa cha, xưa nay chưa có chuyện ấy bao giờ. Anh ấy ham rượu chè, cứ say là nói lung tung. Anh ấy mang về hai quan tiền, con hỏi tiền ở đâu ra, thế là anh ấy tuôn ra những câu hủ lậu. Nói là "học thì phải luôn luyện tập". Làm gì có tiền mà biết với không biết. Con nhận tiền, gối xuống đầu giường, đêm về anh ấy vào phòng rồi ngồi lên. Anh ấy quên đi, thấy lạ, lại hỏi con tiền ở đâu. Con thấy anh ấy thích nói chữ, con mới dùng câu văn dưới đùa cho vui. Ai ngờ, nghe xong anh ấy đùng đùng nổi giận. Nhân lúc đang say rồi quay ra mắng chửi, làm con giận điên người. Anh ấy còn bốc lửa bỏ tay không, bảo con đi ngoại tình, nói là sẽ bỏ con. Rõ là đồ không biết xấu. Nếu không nghĩ tới tình vợ chồng, thì con đã vả cho rụng răng. Con khuyên anh ấy hãy bỏ rượu đi, để khỏi phải xấu lần nữa. Chừa rượu thì sẽ không điên loạn, người ta sẽ không còn gào bố mình lên mà chửi, sẽ không tổn hại đến thanh danh, lẫm sinh còn làm như thế thì người ta sẽ coi thường và khinh bỉ. Thôi hãy ngủ đi kẻo hàng xóm biết được thì chẳng ra gì cả.
Hằng ngày bố chồng cũng hay nói đùa, thấy con dâu nói thế ông chửi:
- Con nhóc này chẳng hiểu gì cả. "Người ta không biết tới mình, mà mình không giận, thì chẳng phải là quân tử sao?"(1) Nếu không có ai biết thì hai đứa chửi nhau mà làm gì?
(1) Đây cũng là câu trích trong cuốn Luận ngữ của Khổng Tử, nguyên văn như sau: "Nhân bất tri nhi bất uấn bất diệc quân tử hồ".

Bình Hồ thấy vợ nói thế, càng tức đẫy. Ngủ mãi tới sáng hôm sau, tỉnh rượu, vừa xấu hổ vừa tức giận, nghĩ rằng: ”Người đàn bà này chẳng tốt đẹp gì, nói cứ hay cãi bướng, từ nay trở đi ta đến trường chẳng thèm về nữa cho mày ở một mình, đêm đêm nằm không". Rồi gã mang đứa con bảy tuổi tên là Hà Sinh tới lớp học. Hà Sinh là đứa trẻ rất thông minh đĩnh ngộ, đọc sách làu làu, nhiều lần đi thi nhưng không đỗ.
Lã thị ở nhà, mấy năm liền không thấy chồng về, biết rằng chồng mình thích mùi vị đàn ông, tiền chơi chịu quá nhiều. Ở nhà không có tiền tiêu, bèn ngấm ngầm "trả miếng" chồng lấy tiền tiêu dùng.
Năm ấy Hà Sinh mười tám tuổi, Bình Hồ muốn cưới vợ cho con, bèn về nhà bàn với vợ, nhờ mối lái tới xin cưới. Người thông gia tên là Thiệu Quang Phục, cũng là một tú tài, gia đình lại khá giả ông là một người đức độ, và là một thầy đồ giỏi, hằng ngày Thiệu Quang Phục dạy dỗ và giảng cho học trò nghe về sự quả báo. Ông sinh được một người con gái xinh đẹp và đoan trang, tên là Tố Mai. Từ nhỏ Tố Mai đã đi học và được cha dạy dỗ, nên cô sống rất hiếu thuận. Quang Phục nhận được lễ xin cưới của nhà họ Đới, cũng chuẩn bị trang sức cho con đi lấy chồng.
Phong tục vùng này thường làm cỗ đưa dâu, trước khi về nhà chồng, đều mời họ hàng tới ăn cỗ. Hôm ấy Tố Mai đến mời bác, giữa đường gặp một người, anh ta cứ nhìn mình chằm chằm. Cô tức giận vội bỏ đi. Tới đêm hôm về nhà chồng, bạn bè thân thích dẫn chàng rể vào động phòng, rồi uống rượu vui chơi ngay tại phòng ấy. Cô dâu rót rượu mời mọi người rồi mới ra khỏi phòng. Hà Sinh đóng cửa đi ngủ, cô cũng định đi ngủ, thì thấy chồng đứng dậy mở cửa ra ngoài khá lâu, sau đó thấy có người vào đến ngay chỗ ngăn kéo tắt đèn, rút trâm cài đầu, cởi áo quần cho cô, rồi hai người dắt nhau đi ngủ. Gà gáy sáng thì chồng dậy ra ngoài.

Trời sáng, Tố Mai dậy không thấy đồ trang sức, vội tới hòm lấy chiếc khác, cô giật mình sinh nghi: "Hay là trộm? Nhưng mình có ngờ đâu?". Định hỏi chồng, nhưng không thấy chồng vào. Bỗng nghe thấy người bên ngoài nói:
- Ông Đới ơi! Không biết vì sao chú rể bị giết sau chuồng xí.
Vợ chồng Bình Hồ chạy ra xem, đúng là con mình thật, óc phọt ra, cổ bị cắt đứt, chỉ mặc chiếc áo lót, người đã lạnh cứng. Rồi gọi người khiêng vào nhà, nghĩ rằng: "Đời ta chỉ có một đứa con, nay đã chết, thì sau này ai hương khói. Vợ chồng ta biết dựa vào ai?". Bất giác lòng đau như cắt, khóc than thảm thiết:
Cha: - Con ơi! Con chết, cha đứt từng khúc ruột.
Mẹ: - Lòng mẹ đau như dao cắt.
Cha: - Con ta là đứa thông minh linh lợi.
Mẹ: - Ta chăm chút nuôi dưỡng con biết bao vất vả nhọc nhằn.
Cha: - Nó học thông minh, thơ văn đều giỏi.
Mẹ: - Khi thi bao giờ nó cũng xếp thứ mười trở lên.
Cha: - Năm nay nó sắp vào trường học.
Mẹ: - Ta đã cưới cho nó một người vợ đẹp. cha: - Cưới dâu về thì nó gặp tai nạn.
Mẹ: - Hai vợ chồng mới sống với nhau một đêm, thì nó đã thác rồi.
Cha: - Song không biết kẻ lòng lang dạ sói.
Mẹ: - Có thù hận gì mà nó giết con ta.
Cha: - Nó chết cứng đằng sau nhà xí, óc tóe ra ngoài.
Mẹ: - Đáng thương thay, nó bị cắt đứt cổ.
Cha: - Quần áo đẹp nó mặc vì sao không thấy.
Mẹ: - Nó đánh chết rồi mới cắt đầu, sao nó tàn ác thế.
Cha: - Đáng thương thay, cha năm mươi tuổi, đầu đã bạc.
Mẹ: - Thương thay, mẹ tuổi trời sắp hết.
Cha: - Thương thay nhà họ Đới không có người hương khói.
Mẹ: - Lúc hai năm mươi ai là người chôn cất?
Cha: - Thảm thương thay, kẻ đầu bạc chôn đứa con tóc còn xanh.
Mẹ: - Lúc tuổi già, con chết có ba điều bất hạnh.
Cha: - Ta nhìn con mà chẳng muốn rời.
Mẹ: - Ta gọi con mà chẳng thấy con thưa.
Cha: - Ta chỉ là chiếc cột mục ở Lô Châu.
Mẹ: - Ai là người che chở cho con.
Cha: - Con hãy trả thù kẻ hung bạo đã giết con.
Mẹ: - Con phải nghĩ cách để rửa hận cho con.
Cha: - Linh hồn con dưới âm ti đừng tán loạn.
Mẹ: - Phải bắt kẻ giết người đền mạng.

Thấy chồng chết, Tố Mai vội chạy ra. Cô gào lên khóc, nghĩ tới sự việc xảy ra đêm qua, đúng là chồng ra ngoài, bị trộm giết chết. Tên trộm đã đội lốt chồng hủy hoại danh tiết mình. Nếu không thì tại sao nó lấy quần áo và đồ trang sức!? Bây giờ chồng chết rồi, danh tiết cũng đã mất, ta còn mặt mũi nào mà sống trên cõi đời này nữa, thôi thì ta chết quách đi, xuống âm ti địa ngục tìm kẻ thù. Thế rồi cô cởi xà cạp bó chân ra treo cổ. Bỗng nhiên khách vào phòng nhìn thấy, vội vàng cởi ngay dây, đổ nước gừng. Vợ chồng Bình Hồ đang khóc con, lại nghe thấy con dâu thắt cổ, bủn rủn cả chân tay, cuống cuồng chạy tới Tố Mai dần dần tỉnh lại. Ông bà già khuyên rằng:
- Con trai ta đã chết, không thể sống lại được, tại sao con lại vội vã chết đi như thế, con phải bình tâm lại.
Nhân đó mới bảo rằng, đêm qua mất cả đồ trang sức. Vợ chồng Bình Hồ cứ gặng hỏi. Tố Mai khóc lóc nói rằng đêm qua, lúc chồng ra ngoài, tên trộm mạo danh chồng vào phòng ngủ với cô. Bình Hồ nói:
- Chẳng trách nào con dâu không muốn sống, làm cho ta càng uất ức.
Thế rồi ông lại hỏi:
- Tên trộm ấy như thế nào?
- Khi vào phòng thì nó tắt đèn ngay, - Tố Mai nói, - nên nhìn không rõ, chỉ sờ thấy nó có sáu ngón tay.
Bình Hồ nghĩ: "Chỉ có đứa học trò tên là Đinh Triệu Lân có sáu ngón tay, vậy là đúng nó rồi. Nó là một đứa học trò tốt, ai ngờ nó lại làm một việc không có luân thường đạo lý như thế". Rồi tức tốc đi hỏi nó ngay.
Đinh Triệu Lân, mất cha từ lúc còn nhỏ, được mẹ là Tào thị nuôi dưỡng thành người. Bà dạy bảo con rất nghiêm khắc. Bởi thế Đinh Triệu Lân là người cung kính khiêm nhường, nói năng lễ phép. Hơn nữa siêng năng học tập, thông minh đĩnh ngộ. Vì nhà giàu, mẹ kén chọn con dâu, nên mười tám tuổi vẫn chưa vợ con gì. Năm ấy tới học thầy Bình Hồ. Hôm cưới cũng ăn cỗ tại đây, bạn bè cũng rủ anh tới vui nhộn tại phòng cưới. Hà Sinh thân thiết với anh, dành cho anh một chiếc đùi gà. Thấy mọi người nói năng lỗ mãng, Đinh Triệu Lân không thích, im lặng chẳng nói chẳng rằng, chán ngán uống vài chén rượu, tự nhiên thấy buồn ngủ, rồi cáo từ lên giường trước. Tỉnh dậy thấy đau bụng, muốn đi đồng, lúc dậy lại không thấy đèn, trời tối đen như mực, mò tới nhà xí, trượt chân ngã, sờ thấy ướt, ngỡ là phân, ngửi không thấy thối, rồi lấy tay lau, không thấy mùi thối nữa, thế rồi anh mò về phòng, cứ để nguyên quần áo đi ngủ. Bỗng anh nghe thấy thầy gọi mới tỉnh giấc. Ngồi nhanh dậy, Bình Hồ thấy Đinh Triệu Lân, tay chân, quần áo dính đầy máu, tát luôn mấy cái, nói:
- Vì sao mày giết con tao, gian dâm với con dâu tao, tao bây giờ không có người nối dõi. Tao với mày chẳng còn tình nghĩa gì nữa.
Triệu Lân hỏi:
- Sao thầy lại nói thế, con không giết người, thầy đừng đổ bừa cho con.
- Mày không giết người à! - Bình Hồ nói. - Tại sao người mày dính đầy máu?
Triệu Lân nhìn xuống, hãi quá, trợn tròn mắt, ngớ người ra không sao nói được. Bình Hồ bảo mọi người trói Triệu Lân lại rồi giải lên châu, kêu oan.
Quan lập tức gọi Triệu Lân tới hỏi. Triệu Lân đã nói rõ việc đêm qua anh tới nhà xí, bị ngã, máu dính vào quần áo. Quan thấy người có vết máu, lại có sáu ngón tay, nghi cho Triệu Lân giết người, lệnh sai nha khóa tay, tống giam. Ngày hôm sau khám nghiệm, thấy nạn nhân chết là do đánh bằng gậy, đầu có ba vết thương, cổ bị cắt bằng dao con. Quan xem xét kỹ, thì thấy xung quanh tường không thấy đào ngạch, lập tức gọi cô dâu hỏi, sau đó trở về nha môn hỏi Đinh Triệu Lân rằng:
- Ngươi là đồ chó má, đã đi học sao không biết pháp luật, dám cả gan giết Hà Sinh, đội lốt chàng rể để gian dâm. Ngươi không biết tội của ngươi sao!?
- Thưa ngài, đèn trời soi xét. - Triệu Lân khai. - Thật là oan con quá, mong ngài thương tình. Từ tấm bé con luôn theo lời dạy bảo của mẹ con, sống ngay thẳng để vun trồng gốc rễ. Con cũng biết mắc phải điều tà dâm sẽ bị báo ứng nên vùi đầu vào việc học hành, không sống bừa bãi. Nhân thầy cưới vợ cho con, con đến chúc mừng nhân ngày cưới, bạn bè đều rủ con đến vui chơi. Thấy họ chơi trò đố rượu trong phòng, nói năng thô lỗ, con không quen sống như thế nên đi ngủ sớm. Khi tỉnh dậy thấy đau bụng, con vội tới nhà vệ sinh. Trời tối đen như mực, trượt ngã, khắp người bị lấm, con vội lấy tay lau, ai ngờ đó là vết máu, khiến con mắc tai họa.
- Đồ bố láo! - Quan nói. - Mày không giết người thì sao dưới đất có máu?
- Vì kẻ trộm giết người máu chảy ra đường, - Triệu Lân nói, - con không biết nên đã bị máu dây vào. Đó là sự thực.
- Rõ ràng là mày giết người, - quan nói, - đừng quanh co nữa, hãy khai mau, khỏi phải tra khảo.
- Trời ơi! - Triệu Lân nói. - Thưa ngài, nếu con giết người thì con phải chạy trốn chứ sao lại ngủ ở nhà cho người ta bắt? Hơn nữa đồ trang sức của cô dâu đã bị lấy sạch, thì rõ ràng là trộm chứ không phải là con.
- Ta cho rằng, - quan nói, - tất phải có kẻ tòng phạm, mang đồ trang sức đi, ngươi chối làm sao được.
- Nếu có kẻ tòng phạm thì cũng phải cùng nó chạy trốn chứ. - Triệu Lân nói. - Dại gì quay trở lại tiếp?
- Quay trở lại tiếp là vì mày định lập lờ đánh lận con đen, - quan nói, - hơn nữa cô dâu sờ thấy kẻ trộm có sáu ngón tay, điều này thì mày còn cãi sao được nữa.
- Trời ơi! - Triệu Lân nói. - Thưa ngài, trên đời này thiếu gì người có sáu ngón tay. Tại sao, vì ngẫu nhiên giống nhau lại vu cho con.
- Sáu ngón coi là ngẫu nhiên, vậy vết máu trên người mày cũng ngẫu nhiên à. - Quan nói.
- Con xúi quẩy, gặp vận đen, - Triệu Lân nói, - cũng như đất dây vào đủng quần thì làm sao mà biện bạch được.
- Đồ chó má, mày chỉ già mồm. - Quan nói. - Quân bay đâu hãy mau mau kẹp nó cho ta.
Triệu Lân nghĩ: "Kẹp ta đến nỗi hồn xiêu phách lạc, như lọt vào địa ngục Diêm vương. Nếu không khai thì quan lớn cứ tra khảo, mà khai thì sợ đầu lìa khỏi cổ. Đáng thương thay mẹ ta đã năm mươi tuổi rồi, người già, khí huyết suy kiệt, biết dựa vào ai đây. Chắc rằng từ nay trở đi ta không được về gặp mẹ nữa. Ta là đứa con bất hiếu, tội cao như núi". Không chịu nổi tra tấn, cực hình, Triệu Lân đành miễn cưỡng nhận tội đã giết Đới Hà Sinh.
- Vậy thì hung khí mày vứt đâu? - Quan huyện hỏi. - Hãy mau mau khai ra.
- Hung khí là chiếc gậy nhà anh ấy, - Triệu Lân nói, - còn chiếc dao rọc giấy cắt cổ, con vứt xuống sông.
- Kẻ tòng phạm, - quan hỏi, - tên là gì?
- Tên anh ta là Hồ Hữu Nhân, - Triệu Lân nói, - đã trốn rồi, xin ngài cho người đi bắt.
Khai xong, quan giam Triệu Lân vào ngục. Bọn phạm nhân biết nhà Lân giàu có, chúng lệnh cho bọn đàn em đánh đập. Triệu Lân nói:
- Các ông muốn đánh hay muốn tiền?
- Sao lại không cần tiền, - bọn chúng nói, - lễ vào ngục là không thể thiếu được.
- Đã bị đánh thì không đưa tiền. - Triệu Lân nói. - Người ta thường nói: kim không nhọn hai đầu. Đã chịu khổ mà lại đòi tiền, thì ai đưa.
- Có tiền thì mang tới. - Bọn tù nhân nói.
- Vài hôm nữa mẹ tôi tới, - Triệu Lân nói, - dù nhiều hay ít cũng sẽ đưa cho.

Bọn phạm nhân thôi không đánh đập nữa, cho người nói với mẹ Triệu Lân.

Chương 12 (B)

Tào Thị thấy con đi ăn cưới đã mấy ngày mà không thấy con về, rất sốt ruột, cho người đi hỏi mới biết con mắc tội oan, bà gào lên khóc lóc thảm thiết. Nghĩ mình vất vả ở vậy nuôi con, chả ai mong muốn việc này, nếu không may xảy ra chuyện chẳng lành thì biết dựa vào ai! Đang định tới châu xem sao, thì bỗng có người tới bảo mang bạc tới để đút lót cho phạm nhân. Bà biết con đã cung khai, khóc sướt mướt, mang hai nén bạc lên châu. Tới nhà giam, hai mẹ con ôm nhau khóc, biết được con bị khổ hình, buộc phải khai bừa, lòng đau như dao cắt lập tức đem hai nén bạc ra nộp cho bọn tội phạm. Bọn chúng đùng đùng nổi giận, nói:
- Chỉ có một chút xíu này, mang đến làm gì, không đủ cho chúng ông súc miệng.
- Cần bao nhiêu? - Tào thị nói.
- Một ngàn cũng không nhiều, - bọn chúng nói, - tám trăm cũng không ít, nói thực nhá, các ông cần bốn trăm quan.
- Cái gì! Sao nhiều thế. - Tào thị kinh ngạc nói. - Rốt cực mất tiền mà cũng không đền nổi mạng ư!?
- Đây là lễ vào nhà ngục, còn tội trạng của con bà ai mà can thiệp được.

Tào thị không sao được, đành phải van nài chúng. Bọn chúng đùng đùng nổi giận vứt bạc xuống đất, lệnh cho bọn đàn em treo Triệu Lân lên như một con lợn, bắt rận bỏ vào đầu, nhổ nước bọt vào mặt, rồi đổ nước cống rãnh vào mồm. Tào thị uất ức đến bầm gan tím ruột, nhặt bạc lên vừa đi vừa chửi; tới công đường gào thét kêu oan.
Viên quan xét xử vụ án họ Lê, tuy xuất thân từ khoa bảng, nhưng mới ra làm quan, việc xử án chưa thông thạo, lại không biết được những tệ nạn trong nha môn. Ông rất căm giận người kêu oan. Nghe thấy, ông cho sai nha ra bảo bà ta có việc gì thì cứ đệ đơn. Tào thị nói:
- Con đến trừ hại cho cả châu, đó cũng là việc công, gặp ngài tự nhiên con muốn đệ đơn kiện.
Quan tức giận gọi vào hỏi:
- Con mẹ này chua ngoa thật, có việc gì ghê gớm mà kêu gào ở ngoài ấy!
Tào thị kể lại việc phạm nhân trong nhà giam dùng hình phạt thi pháp treo người lên đánh để tống tiền. Quan nói:
- Lần đầu nó vào ngục, phạm nhân đòi ít tiền, đưa chúng một ít thì yên ngay. Việc gì phải kêu oan.
- Ngay dù tiền mừng cũng không được đòi nhiều, - Tào thị nói, - huống hồ đã phạm pháp thì vui cái gì mà mừng? Hay mừng nó giết người ư?
Quan không sao trả lời được nữa, một lúc lâu sau mới nói:
- Nó không đòi tiền thì lấy gì mà chi dùng.
- Tù nhân đã có hoàng thượng cho ăn, sao lại lấy tiền của tù nhân mới. Đây rõ ràng là phạm nhân tống tiền chia cho quan lớn, bởi thế quan mới không truy cứu. Như thế là đòi đền mạng, lại đòi tiền, con sẽ vượt quyền ngài, lên tận kinh đô kêu với nhà vua, để minh oan, trừ hại cho cả châu.

Thấy vậy quan đùng đùng nổi giận, trực tiếp đến nhà tù tra hỏi phạm nhân. Lúc ấy phạm nhân đã cởi trói cho Triệu Lân. Quan gọi Triệu Lân lại hỏi. Triệu Lân nói:
- Phạm nhân đòi bốn trăm quan tiền đút lót, mẹ con đã đưa cho họ một nén, xin họ lấy ít thôi, nhưng họ không nghe, đã treo con lên, bỏ rận và nhổ nước bọt vào mặt, đáng căm giận nhất là họ đổ nước cống rãnh vào mồm con, khiến con phải sống dở chết dở. Ngay như quan lớn cũng không bao giờ dùng hình phạt tàn khốc đến như thế. Quả là con không thế chịu nổi. Con mong quan lớn thương cho kẻ học trò này.
Bọn coi ngục và phạm nhân khăng khăng không nhận, Tào thị chỉ cho quan xem vết trói ở tay và vết nước cống rãnh đổ xuống ngực Triệu Lân. Quan lập tức đánh cho bọn coi ngục và tù nhân mỗi đứa một ngàn roi, rồi cách chức ngay tại chỗ. Bọn phạm nhân tuy căm tức, song cũng chừa, không dám bắt nạt Triệu Lân nữa.

Tào thị tới chỗ phủ đạo đưa đơn kêu oan, và lập tức tới Thành Đô kháng cáo. Lúc ấy trên cũng nhận được tờ trình ở dưới gửi lên. Án sát Ty xem xong nghĩ: "Đã là thầy trò, thì tại sao cạn tàu ráo máng, giết người như thế". Lại nhận được đơn cáo trạng của Tào thị, lập tức phê vào đơn phải xem xét kỹ, gửi giấy xuống đạo, lệnh cho đạo cùng với châu phải trực tiếp tra hỏi. Cuối công văn gửi xuống còn dặn dò rằng: "Có thể vì quên hết tình nghĩa thầy trò, thấy người đẹp mà cưỡng dâm cướp của, phải tìm cho ra bằng được tang chứng, phải thận trọng suy xét, đừng làm cho kẻ ác thoát tội, không được suy diễn vô căn cứ, làm người vô tội mắc oan".
Công văn đến Hợp Châu, ngay ngày hôm ấy quan đến Lô Châu. Ngài Lê tiếp tại công đường, lệnh đưa hồ sơ ra xem. Xem xong quan Hợp Châu đưa Đinh Triệu Lân ra xét hỏi:
- Ngươi đã nhận tội, vậy tại sao lại còn bảo mẹ người đi kháng cáo? Có oan ức gì cứ nói thật.

Triệu Lân khai lại từ đầu việc mình uống rượu, ra nhà vệ sinh, trượt ngã, quần áo bị dính máu. Quan Hợp Châu xem kỹ bản án, biết là bị oan, cố ý hỏi:
- Ngươi không giết người, tại sao áo lại có máu, và bàn tay đúng là có sáu ngón? Ngươi đã khai, tại sao bây giờ lại phản cung?
- Thưa ngài, - Triệu Lân nói, - con bị đánh đau quá, không chịu nổi nên con phải khai, bởi thế con phải kêu lại, mong ngài minh oan cho.
- Rõ ràng là ngươi giết người, - quan Hợp Châu giận dữ quát - bây giờ còn phản cung cãi bướng.
Thế rồi ông lệnh cho bọn tay chân tra tấn.
- Thưa ngài, hãy bớt giận, - Triệu Lân nói, - nếu ngài không minh oan cho con thì con không nói nữa là xong, việc gì ngài phải tra tấn. Những lời con khai trước đây là đúng sự thực cầu mong ngài gia ân miễn tra tấn cho con.
- Xem bản án của ngươi, - quan Hợp Châu nói, - hình như có oan khuất, song hung thủ vô danh không thể lần mò ra được. Hung thủ không tìm ra thì ngươi thoát tội làm sao được.
- Ngài thấy con vô tội, - Triệu Lân nói, - mà minh oan cho con, con vô cùng cảm động. Nếu không thì con chết oan uổng, cũng chẳng oán hận gì.

Quan Hợp Châu trầm ngâm hồi lâu, vẫn giam Triệu Lân vào nhà giam. Rồi bàn với quan họ Lê gia hạn thêm, và hai người cùng giải quyết. Sau đó lệnh cho sai nha đi khắp các ngả tìm người có sáu ngón tay, điều tra hành vi của chúng.
Quan Hợp Châu trở về châu, ba tháng sau vẫn không động chạm tới vụ án này, Tào thị lại đệ đơn lên Thượng Tư thúc giục. Thượng Tư nổi giận quát:
- Vụ án kéo dài mãi không thể giải quyết được, ngu tối như thế thì trị dân làm sao được!?

Rồi lập tức gửi giấy xuống, lệnh cho hai ông phải giải quyết gấp hai tháng nữa mà không bắt được thủ phạm thì phải lên cấp trên xét hỏi. Quan Hợp Châu lại đến Lô Châu thúc giục giải quyết gấp. Hai tháng đã trôi qua mà vẫn chưa tìm thấy, hai quan rất lo lắng, bàn nhau làm tờ sớ, kêu cầu Thành Hoàng chỉ bảo. Nhân ngày mồng một tới miếu thắp nhang, hai quan cùng ngủ tại miếu, nằm mơ thấy hai con gà trống nhỏ đùa với nhau, con lớn nhẩy lên lưng con nhỏ. Bỗng thấy một người tay cầm cành liễu, vạch một vòng to, rồi đánh liên hồi vào con gà nhỏ, cạnh đó treo một chiếc thòng lọng, rồi con gà nhỏ chui đầu vào chiếc thòng lọng treo cổ. Người ấy cởi con gà xuống, ôm vào lòng, khóc nức nở, thế rồi cầm gậy đi đuổi con gà to. Dưới đất bỗng xuất hiện một chiếc lá sen, người ấy đánh vào chiếc lá sen ba gậy, rồi lấy dao cắt nát cọng sen. Đang xem, chợ có tiếng thanh la báo sang canh làm họ tỉnh giấc. Thế rồi ông gọi quan Hợp Châu kể lại giấc mộng ấy. Quan Hợp Châu nói:
- Tôi cũng mơ thấy như thế.
Thế rồi họ mời thầy đoán mộng. Thầy nghĩ một lát rồi nói:
- Vụ án này từ con gà gian dâm mà ra. Việc người ấy đánh con gà nhỏ, người ấy xấu hổ vì bị ô nhục. Ôm con gà thắt cổ khóc ấy là ôm con ông ta vậy. Dùng gậy đánh vào lá sen (Hà diệp), rồi dùng dao cắt nát cọng sen. Vụ án này kẻ bị giết là Hà Sinh. Người cầm cành liễu khoanh một vòng to, chẳng phải là Liễu Đại Xuyên ư.
Hai quan gật đầu cho là đúng, bèn lệnh cho sai nha đi bắt Liễu Đại Xuyên. Sai nha nói:
- Liễu Đại Xuyên hiện ngụ tại Đông Sơn, cách nhà Đới Bình Hồ hơn mười dặm.
Thế rồi hai ông cho sai nha đi bắt Liễu Đại Xuyên giải về châu.
Hai quan ngồi giữa công đường hỏi:
- Liễu Đại Xuyên, tại sao ngươi giết con Đới Bình Hồ, mạo danh hành dâm, trước mặt ta ngươi phải khai thực!
Đại Xuyên nói:
- Quả là oan con quá. Mong ngài xét kỹ, cho phép con khai rõ nỗi oan tình. Vụ án này con không giết người, xin ngài trị tội thật phân minh. Nhà con vốn nghèo khổ, đẻ được một đứa con gọi là Trường Thanh. Mười bốn tuổi văn chương lưu loát chỉ mong nó đỗ đạt để rạng rỡ mặt cha. Đới Bình Hồ là thầy giỏi con đưa nó tới học. Ai ngờ Bình Hồ lòng lang dạ sói, lén lút làm ô nhục con con.
- Đã là thầy làm gì có chuyện gian dâm. Ta không tin. - Quan nói.
- Trời ơi! Bẩm quan, - Đại Xuyên nói, - trên gian dâm dưới, xưa nay có rất nhiều. Di Tử Hà chia đào nuôi Vệ Quân. Huống hồ là Bình Hồ, một tên lưu manh, hắn chẳng khác gì cầm thú còn nói gì đến tình thầy trò nữa.
- Nó đã bị gian dâm, thế thì nó theo học ông ta nữa không? - Quan hỏi.
- Nó theo học hai năm, hắn đã làm hại nó, hằng đêm hắn đưa nó ra ngoài hành dâm. - Đại Xuyên nói.
- Gian dâm là việc ám muội, sao ngươi biết được!? - Quan hỏi.
- Con đánh con để tra hỏi, mới biết nó đã thất thân. - Đại Xuyên nói. - Con uất quá xích nó lại để khỏi ra ngoài làm nhục tổ tiên. Con con không còn cách nào khác treo cổ tự tử. Con phải báo thù, Bình Hồ đâu còn là thân sĩ nữa.
- Con ngươi đã tự tìm đến cái chết, ngươi còn trách người ta làm gì nữa? - Quan nói.
- Trời ơi! Bẩm quan lớn! - Đại Xuyên nói. - Nhất định con trai nó phải chết, con dâu nó phải thành góa bụa. Nó gian dâm con con quá đáng, thì con gian dâm với con dâu nó là hợp tình. Nó làm con tuyệt tự, con cũng làm cho nó tuyệt tự. Điều ấy là trời báo ứng, chứ không phải là con làm bừa.
- Người đã giết con gã bằng cách nào? - Quan hỏi.
- Thấy Bình Hồ cưới vợ cho con, con dâu hắn đẹp nghiêng nước nghiêng thành. Con theo đầu bếp gánh hàng vào, sau đó bỏ ba đậu(l) vào nồi hầm gà. Rồi xin phép về, nấp bên nhà vệ sinh chờ. Thế rồi chỉ một nhát búa là hắn về chầu trời. Con lột quần áo, mặc vào để đội lốt nó. Sợ rằng lâu sau nó tỉnh dậy, con dùng dao con cắt cổ, rồi ung dung dắt cô dâu lên giường ngủ. Nghe thấy gà gáy sáng, con lấy trang sức rồi bỏ trốn. Ai ngờ lại làm cho Đinh Triệu Lân bị mắc oan. Hôm nay tại phiên tòa con xin khai thật. Nghĩ đến đứa con đã chết mà đau lòng. Xin mong ngài hỏi tội Bình Hồ. So sánh tội của con và hắn, đúng là con đáng chém đầu, song con chết thì hắn cũng không thể tồn tại được.
(1) Ba đậu: một loại hạt ăn vào sẽ đi tả.
- Quần áo và đồ trang sức hiện ở đâu? - Quan hỏi.
- Quần áo và đồ trang sức hiện con đang giấu ở nhà, - Đại Xuyên nói, - hoàn toàn vẫn còn nguyên vẹn. Xin ngài bắt hắn đến đối chất, thì nơi chín suối con mới nhắm mắt được.
Thấy Liễu Đại Xuyên khai rất phù hợp với giấc mộng, quan cho là thực, bèn nói với quan Hợp Châu rằng:
- Đới Bình Hồ cuồng loạn, gian dâm với học trò, đắc tội với Thánh hiền. Nếu không trị đến cùng, sẽ làm bại hoại phong tục.
- Đây là nhân vật xuất sắc, là kẻ sĩ có tiếng của quý ngài, - quan Hợp Châu nói, - quyền ngài xử lý.
Thế rồi ông về châu. Chỉ để lại cuốn luật pháp, rồi cùng làm văn bản tâu trình lên trên. Giam Đại Xuyên vào ngục. Sau đó lệnh cho sai nha đến nhà họ Liễu lấy quần áo và trang sức. Đồng thời gọi Đới Bình Hồ tới xét hỏi:
- Ngươi được nhận cân đai của triều đình, lẽ ra phải bồi dưỡng nhân tài. Cớ sao ngươi lại táng tận lương tâm, gian dâm với học trò, nay gặp ta mà ngươi vẫn không chịu khai ư?
- Con là lẫm sinh, dạy học, nội quy trong trường học rất nghiêm ngặt. Hơn nữa con là người ngay thẳng, sao ngài lại bỗng dưng vu tội cho con, làm bại hoại phong tục.
- Ngươi đã gian dâm với Liễu Trường Thanh con Liễu Đại Xuyên, làm hại đời nó. Cha nó trách mắng nên nó thắt cổ chết. Nay trước tòa ngươi không khai thực còn biện bạch gì nữa.
- Liễu Đại Xuyên nói năng bừa bãi, bôi nhọ đạo Thánh hiền, - Bình Hồ nói, - đáng ra phải đánh chết hắn để hắn khỏi làm hại người đời. Tại sao ngài nghe theo những lời lừa dối, vu tội cho kẻ sĩ công danh?
- Hành vi của ngươi ta biết cả rồi, - quan nói, - nếu không khai thì pháp luật sẽ không tha.
- Hình pháp của ngài chỉ thi hành đối với bọn trộm cướp, - Bình Hồ nói, - làm sao có thể trị được thân sĩ. Nếu xét xử như vậy thì cũng có thể nói là ngài gian dâm với con, giết hại nó. Nếu ngài nhận, thì lẫm sinh này cũng nhận.
Quan đùng đùng nổi giận, nói:
- Tên lẫm sinh ngông cuồng to gan kia, sao ngươi dám nói láo coi thường quan trường, quân bay đâu cho nó bài học!
Bình Hồ đang biện bạch, mắt bỗng nẩy đom đóm, thấy Liễu Trường Thanh đang đứng gục mặt, nhìn mình cười. Bất giác mê loạn, nói:
- Học trò của ta ơi, ngươi không nỡ rời bỏ thầy, ngươi tới thăm thầy ư?
- Ngươi nói gì thế, - quan quát, - vẫn không chịu nhận, còn chờ đến bao giờ?
Trường Thanh quát vào tai Bình Hồ:
- Bình Hồ! Hãy khai mau.
Tự nhiên Bình Hồ khai hết việc hằng ngày đã cưỡng dâm trẻ con và dụ dỗ làm ô nhục Trường Thanh. Quan lệnh giam Bình Hồ vào ngục, và tha cho Đinh Triệu Lân. Hai quan cùng làm bản tường trình lên cấp trên. Cấp trên xem xong đùng đùng nổi giận phê rằng:
“Đới Bình Hồ thích mùi vị đàn ông, quả là loài cầm thú. Trong đám văn nhân, gian dâm học trò, quả là tên tội phạm của đạo Thánh hiền, vạn lần chết cũng không đền hết tội. Hắn tuyệt tự cũng chưa xứng đáng. Phải hoạn nó ngay tại chỗ để nó sống vẫn mang tội, và làm bài học cho mọi người sau này. Liễu Đại Xuyên báo thù cho con. Bất đắc dĩ phải giết Hà Sinh, tội có thể tha thứ. Song đã gian dâm với cô dâu, làm hại danh tiết người con gái. Nghĩ rằng hắn ta tuyệt tự, cho nên giảm nhẹ tội, đánh hắn một ngàn roi, cùm ba tháng. Thiệu Tố Mai sờ thấy người sáu ngón tay tưởng là chồng, việc ấy hoàn toàn là ngẫu nhiên. Đinh Triệu Lân vì có sáu ngón tay mà chịu oan, quả là duyên trời se. Nên lấy Thiệu thị là hợp lý".
Công văn chuyển tới châu. Quan cho giải Bình Hồ tới, lệnh cho thợ hoạn hoạn hắn ngay tại chỗ, lấy quả thận ra ngoài cho mọi người xem. Mọi người nhìn thấy đều hả lòng hả dạ, gào thét chửi bới Bình Hồ. Gọi Đinh Triệu Lân tới công đường đọc cho anh nghe chỉ dụ của quan trên, cho anh lấy Thiệu thị. Triệu Lân vui vẻ vâng lệnh. Quan lệnh cho bà mối tới nói với Thiệu thị, và được cô bằng lòng lấy Đinh Triệu Lân.
Nghe thấy Liễu Đại Xuyên đã cung khai. Tố Mai mới thấy Đinh Triệu Lân bị oan, cô vô cùng thương xót, nghĩ: "Vì ta mà anh ấy bị giam cầm, chịu đựng biết bao đau khổ, đời nay ta không đền đáp được thì kiếp sau ta phải đền ơn". Rồi cô lại nghĩ: "Bước chân vào cái nhà cầm thú này, tội giáng xuống đầu mình, không biết đời mình rồi sẽ ra sao?".

Khi nghe bà mối nói cô rất mừng. Đinh Triệu Lân chọn ngày tốt đón dâu. Vợ chồng sống hòa thuận. Về sau sinh được hai người con, một người trúng kỳ thi Hương. Liễu Đại Xuyên trở về vì không có người nối dõi, cắt tóc đi tu. Đới Bình Hồ sau khi bị hoạn, ai ai cũng khinh bỉ, nhà bị cháy nhiều lần, gia tài khánh kiệt, phải đi ăn mày, rồi chết đường chết chợ. Lã thị trốn theo người khác, về sau cũng chết đói.
Từ vụ án này ta thấy, người ta sống trên đời, gian dâm với đàn ông sẽ bị sát tới ba đời. Người nào một đời lầm lỡ, cho dù bị cắt đầu, tuyệt tự, vẫn chưa đền hết tội. Quan trên ghép vào tội phải hoạn. Cũng bởi vì nghĩ đến đạo Thánh hiền, nên mới giảm nhẹ tội. Những kẻ thích mùi vị đàn ông, sao chẳng lấy Bình Hồ để răn mình?

HOMECHAT
1 | 1 | 499
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com