Họ lại lao xuống biển, chỉ còn một mình Nguyệt trên bờ. Sáu ngồi bên Nguyệt. Anh hỏi: - Nguyệt, quê em ở đâu? - Dạ, ở Sa Đéc. Sáu mừng rỡ: - Vậy là tụi mình cùng quê. Nguyệt rụt rè: - Anh quê ở đâu? - Ở huyện Lấp Vò. - Em ở Lai Vung. Nguyệt bước đến sát mép nước, đôi chân trắng, cơ thể đầy đặn, nở nang thu hút Sáu. Anh nhìn Nguyệt từ xa. Nàng không thuộc loại kiêu sa. Nhưng cơ thể thiếu nữ toát lên vẻ quyến rũ, giọng nói ngọt, đặc biệt vùng nem nổi tiếng Lai Vung, hấp dẫn anh. Nét dịu dàng pha lẫn chút đồng nội tự nhiên như có ai đó xô Sáu đến với nàng. Anh nhận ra, nàng không thuộc loại sắc sảo, lanh lợi … bù lại, từ nét chân chất của một cô gái quê mùa, lại làm cho sắc hương của ruộng đồng thêm sức sống giữa vùng biển đất trời mênh mông này. Nàng ngồi sát mép nước, sóng biển chạy từ ngoài xa vuốt ve đôi chân trần, tràn lên xa hơn. Sáu bước nhè nhẹ đến bên Nguyệt. Đôi môi nàng đã hồng lên. Mắt nàng long lanh nhìn Sáu: - Anh Sáu, anh làm nghề gì? - Tôi hả? - Dạ… - Tôi làm phi công. Nguyệt thẫn thờ. Nàng nghe nói phi công là người trời, là loại người đặc biệt không thể nào với tới. Nguyệt e dè: - Anh Sáu ơi, nghe nói phi công là một người phi thường? - Thì… em xem anh nè, coi có gì khác không? Sáu đứng lên. Nguyệt ngước nhìn lên. Tự nhiên nàng thở mạnh, má ửng hồng, nhìn tránh đi chỗ khác. Quả thật, anh ấy cao, to, đôi tay dài và… Nguyệt vội vã chạy xuống nước. Sáu chạy theo, hỏi dồn: - Nguyệt, em họ gì? Học lớp mấy? - Em họ Nguyễn, học lớp 9E. Sáu nhíu mày, anh tập trung nhớ: lớp 9E, còn Nguyễn, cùng họ với anh, trường học sinh miền Nam số 4. Nguyệt chạy ra đến khi nước ngập quá đầu gối, tự nhiên nàng sợ nước, chạy vội lên bờ. Bộ quần áo tắm biển là chiếc quần đùi và chiếc áo may ô trắng có tay, bây giờ Nguyệt cảm thấy nó quá ngắn, đôi lúc nàng thấy Sáu như nhìn xuyên qua da thịt nàng… Chỉ nghĩ tới đó, đôi má của Nguyệt lại ửng đỏ. Nàng hiểu rằng người đàn ông kia đang nhìn nàng và đôi lúc, ánh mắt của anh ta không hề bỏ sót tất cả những gì nàng có một cách thánh thiện. Dù sao, đó là một cử chỉ chân thật của người đàn ông lần đầu nàng tiếp xúc. Anh ta không hề giả tạo khi đứng trước một cơ thể đẹp như nàng. Còn Nguyệt, dù vẫn giữ nét duyên dáng và nết na, truyền thống… nhưng, trong lòng nàng sự cởi mở và tự do đã xuất hiện. Nàng ao ước và khát khao. Ngày 1 tháng 4 năm 1965, Tổng thống Mỹ Johnson có hai quyết định cực kỳ quan trọng cùng một lúc. Đó là, đưa quân Mỹ ồ ạt vào miền Nam Việt Nam, thực hiện cuộc chiến tranh trên bộ ở miền Nam Việt Nam và mở cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ở miền Bắc, ra ngoài vĩ tuyến 20.
Ngày 1 tháng 4 năm 1965, toàn bộ trung đoàn Sao Đỏ chuyển trạng thái chiến đấu cao nhất. Bộ Tổng tham mưu thông báo cho sở chỉ huy quân chủng: “Mỹ sẽ đánh cầu Hàm Rồng” và lệnh: “Đồng ý cho không quân xuất kích”. Ngày 2 tháng 4 năm 1965, Thường vụ Đảng ủy và Bộ Tư lệnh quân chủng phòng không- không quân kiểm tra lần cuối cùng công tác chuẩn bị chiến đấu của trung đoàn, thông qua việc sử dụng lực lượng cho trận đầu và trận tiếp theo. Biên đội 1, Phạm Ngọc Lan, Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ, Trần Minh Phương. Biên đội 2, Trần Hanh, Phạm Giấy, Lê Minh Huân, Trần Nguyên Năm và quyết định cho trung đoàn xuất kích đánh trận đầu. Lúc đó là 14 giờ ngày 2 tháng 4 năm 1965.
Hai chiếc hàng không mẫu hạm Ranger và Constellation được lệnh báo động sẵn sàng chiến đấu cao. Đô đốc Sharp bước vào sở chỉ huy Thái Bình Dương ở Honolulu. Ông ngôi vào vị trí chỉ huy của ông. Đó là một chiếc bàn lớn. Trên mặt bàn là bản đồ khu vực Thái Bình Dương. Rải rác xung quanh bàn hàng chục chiếc đồng hồ giờ ở tại các nước, bên cạnh là giờ Washington. Trung tâm mặt bàn chiếc la bàn định vị có bốn nhánh Đông, Tây, Nam, Bắc và các vị trí của hàng trăm chiếc tàu, mỗi tàu có một ký hiệu riêng. Sharp bao quát lực lượng của ông rải rác khắp vùng biển các căn cứ trên bộ và trên mặt biển. Quả thật, chưa có quốc gia nào có đủ sức mạnh như các đơn vị thuộc quyền chỉ huy của ông chỉ ở Thái Bình Dương thôi, nói gì đến toàn bộ nước Mỹ. Các ký hiệu nhấp nháy đó là những chiếc chiến hạm đang di động. Ông thấy hai chiếc hàng không mẫu hạm Hancock và Corenxy đang di chuyển, nó đã đến phía Đông quần đảo Hoàng Sa. Ông cầm điện thoại, liên lạc với đô đốc Black: - Tôi thông báo để ngài biết, Bộ trưởng Quốc phòng cho phép chúng ta đánh đến khu vực ba. Sharp gọi sĩ quan hành quân, lập tức truyền lệnh đến tất cả các hàng không mẫu hạm, tuần dương hạm, các hạm ngầm và các tàu khu trục chỉ huy của hạm đội với mệnh lệnh: “Ngày 3 tháng 4 năm 1965 đánh cầu Hàm Rồng”. Lúc đó là 9 giờ sáng ngày 2 tháng 4 năm 1965 … Theo kế hoạch hành quân đã được ký bên góc trái, người ký “Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert S. Mc Namara”, quy định: “Hàng không mẫu hạm tấn công đội hình hai chiếc. Một chiếc ở phía Đông Hòn Mê 80 km, chiếc thứ hai ở phía Đông Cửa Lò 120 km. Như vậy, hai chiếc hàng không mẫu hạm đang hành quân từ Nhật và Philippines sang vùng biển Đông sẽ thế chân và hoạt động ở phía Đông Quảng Bình và phía Đông thành phố Huế”.
Chương 30
15 giờ ngày 2 tháng 4 năm 1965 tại hầm K18, sở chỉ huy phòng không-không quân, được lệnh sẵn sàng chiến đấu, riêng sở chỉ huy không quân phát lệnh báo động cấp 1. Tại hầm, sở chỉ huy không quân được bố trí ở phía trong, nửa hầm lớn hơn là sở chỉ huy phòng không và tổng trạm radar. 0. 17 giờ ngày 2 tháng 4 năm 1965, cấp trên cho biết địch sẽ đánh cầu Hàm Rồng, toàn bộ sĩ quan không được rời khỏi doanh trại, không được về gia đình, dù có nhà ở Hà Nội. Lần đầu tiên toàn bộ các sinh hoạt của Không quân nhân dân Việt Nam được đặt trong tình trạng chiến tranh trực tiếp.
3 giờ 30 phút ngày 3 tháng 4 năm 1965, biên đội Phạm Ngọc Lan, Phan Văn Túc, Hồ Văn Quỳ, Trần Minh Phương từ khu nhà ở, trên chiếc xe tải do ông Tám lái, có Đại úy Hà Chấp Tham mưu trưởng đoàn Sao Đỏ, sĩ quan dẫn đường tuyến hạ cánh Bùi Quang Liên, cùng đi với bốn phi công có mặt ở sân đỗ. Một dãy dài những chiếc Mig-17 trực chiến, dầu đã nạp đầy trong cánh và hai chiếc thùng dầu phụ. Đạn đầy đủ cơ số. Hà Chấp cùng với tiểu đoàn trưởng thợ máy Võ Di Cư trực tiếp kiểm tra hệ thống điều khiển vũ khí. Ông trở về nhà trực của phi công.
4 giờ 45 phút sáng 3 tháng 4 năm 1965, sân bay còn chìm trong đêm, những con chim đi ăn đêm trên đường trở về tổ, bay qua sân bay, kêu vang “quác… quác…”có vẻ nó thỏa mãn vì được ăn no và sắp được nghỉ ngơi. Trong khi đó, bốn phi công đang chăm chú đi một vòng xung quanh những chiếc Mig-17. Phạm Ngọc Lan lắc cánh liệng, cánh tà. Anh đi vòng ra phía sau đuôi lắc cánh đuôi ngang, đuôi đứng. Kiểm tra lượng dầu xong, Lan bước tới trước mũi máy bay nơi có ba khẩu súng. Bàn tay chạm nhẹ khẩu 37 ly run run, anh cúi xuống nhìn vào bên trong nòng súng. Trời còn tối, nòng súng đen ngòm. Chiếc đèn pin trắng trên tay, Lan soi vào bên trong nòng, ánh thép ngời lên, phản chiếu ánh đèn, anh nhìn sâu vào bên trong… Lan nhìn ra sân bay bóng đen nhạt nhòa, thời khắc cuối đêm nhưng chưa là ngày lạ lắm, dường như cây cỏ thu hết vào trong lòng nó những giọt li ti sương đêm, nó nhả ra cho bầu khí quyển mùi đặc trưng của nó, mùi thơm cỏ cây hoang dã và tinh khiết. Lan hít đầy hơi lạ vào trong lồng ngực to lớn của anh. Lan nhìn về hướng Đông, chưa có vầng sáng nào, chỉ có vài vệt sáng nhỏ xíu trên nền một đám mây ở đâu đó xa lắm. Rồi… dần dà, những áng mây hồng xuất hiện, bóng tối bị đẩy về phía Tây. Bây giờ, ở phía Đông, những đám mây xám chẳng biết từ đâu ùn ùn kéo đến, tự nhiên ở sát mặt đất, xung quanh sân bay xuất hiện những mảng như tơ, sương mù bao bọc, tầm nhìn bị thu lại rất nhanh. Ở dãy Tam Đảo mây che núi không còn thấy đỉnh… Từ trong khu nhà ở, một chiếc xe con với hai ngọn đèn sáng rực lao ra hướng sân bay. Phạm Ngọc Lan lấy bút máy ở ngực áo, ký vào cuốn sổ bàn giao máy bay của tổ thợ máy xong, anh nhìn ra… Trung đoàn trưởng Đào Đình Luyện xuất hiện cùng với hai phi công Đại úy Trần Hanh và Thiếu úy Phạm Giấy theo phương án sẽ thực hiện bay nghi binh, thu hút tiêm kích địch để cho biên đội bốn chiếc Mig-17 của Phạm Ngọc Lan tấn công. Đào Đình Luyện cùng với sáu phi công ngồi quanh chiếc bàn nhỏ, bên cạnh là Đại úy Hà Chấp, ở phía sau có hai bác sĩ và các sĩ quan. Ông nhìn khắp lượt những chiến sĩ sẽ mang ý chí của trung đoàn lên trời. Ánh mắt của ông dừng lại khá lâu Trung úy Phạm Ngọc Lan, một phi công quyết đoán, thông minh, kỹ thuật bay xạ kích và nhớ địa hình rất giỏi, đang là chủ nhiệm dẫn đường của trung đoàn. Ông nói: - Chúng ta biết chắc chắn hôm nay địch sẽ đánh cầu Hàm Rồng, chiếc cầu bắc qua sông Mã, trên Quốc lộ số 1. Chúng ta đã bay để làm quen địa hình nhiều lần. Bọn Mỹ đánh cầu là nằm trong ý đồ chiến lược chặn đứng sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Đào Đình Luyện dừng đột ngột. Ông nhìn quanh. Ánh mắt của ông mừng rỡ thấy hai sĩ quan ngồi phía sau, ông hỏi: - Bác sĩ Chính, bác sĩ Hạnh, tình hình sức khỏe của sáu phi công thế nào? Bác sĩ Chính đứng dậy; - Thưa, bốn phi công đều tốt, huyết áp bình thường. Chỉ có,… anh Hanh, anh Giấy chúng tôi chưa kiểm tra. Trung đoàn trưởng gật đầu, hài lòng, ông nói: - Trong biên đội, lúc chiến đấu, Túc chú ý động tác bám biên đội và động tác nhẹ nhàng khi hạ cánh khẩn cấp. Quỳ bay ổn định, tính tình hồn nhiên, nhưng khi gặp địch phải quyết đoán. Còn Phương, lưu ý giúp biên đội quan sát, phát hiện địch sớm. Phương cần chú ý phối hợp tay và chân nhất là những lúc khẩn trương. Biên đội chú ý yểm hộ lẫn nhau… Đào Đình Luyện biết rõ điểm mạnh và yếu của từng phi công. Thái độ cởi mở và thân tình của ông làm cho phi công nào cũng ấm lòng. Ông thuộc tính cách, nết ăn, nết ngủ của từng người, thói quen, ăn nói và cả những động tác lúc bình thường và lúc khẩn trương của từng phi công. Thân mật, không phân biệt đối xử, hòa đồng là tính cách của ông. Có thể nói, nhiều khi, thái độ và nhân cách của người chỉ huy có tác dụng làm cho cả đơn vị xông lên, bất chấp hiểm nguy, bởi vì người lính cho rằng mình hành động đúng. Đối với một dân tộc, hàng triệu người sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu cao cả là Tổ quốc. Nhưng, từ trong sâu thẳm, cả một đất nước coi cái chết nhẹ như lông hồng, bởi vì trong sự hy sinh đó, người ta còn gởi gắm cả cuộc đời họ, cả gia đình họ cho một người rất cụ thể. Đào Đình Luyện gọi sĩ quan dẫn đường Bùi Quang Liên phổ biến những yếu tố xuyên mây bất kỳ, những điều cần nhớ khi bay về và trình tự sử dụng đối không khi có nhiễu. Liên đứng lên: - Đề nghị các đồng chí chú ý khi xuyên mây bay về. Trường hợp liên lạc được với sở chỉ huy, phải chấp hành lượng bay xuống, hướng bay về và hướng xuyên mây. Ở bên trong mây, không được đổi hướng nếu sở chỉ huy không ra lệnh. Nếu không liên lạc được với sở chỉ huy, bay về đài và thực hiện xuyên mây góc kẹp tại đài, hướng theo hướng đường băng, mỗi cạnh hai phút, cho đến khi ra khỏi mây. Bùi Quang Liên là một sĩ quan rất thận trọng, những số liệu tính toán của anh chính xác đến không ngờ. Người cao, tay dài, ăn nói rõ ràng và có trách nhiệm… Đào Đình Luyện nhìn mọi người, anh nói giọng trầm, ấm, rõ ràng: - Bộ tư lệnh quân chủng đã ra lệnh, mục tiêu địch đánh đã rõ. Bây giờ, tôi giao nhiệm vụ cho phi đội, mang ý chí của trung đoàn đánh thắng trận đầu của không quân. Ngày hôm nay, các đồng chí thay mặt cho cả nước mở mặt trận trên không. Từ mấy ngàn năm qua, tổ tiên chúng ta đã làm nên những trận thủy chiến vang dội ở Bạch Đằng, ở Rạch Gầm –Xoài Mút. Những trận tiêu diệt lớn quân xâm lược ở Ngọc Hồi, Chi Lăng, Điện Biên Phủ làm nên tuyền thống vẻ vang của bộ binh và thủy binh thiện chiến của dân tộc ta. Hôm nay,...