Từ trên đèo Hải Vân nhìn thấy bán đảo Sơn Trà hiện lên ở phía nam bên kia vịnh Đà Nẵng (còn gọi là Vũng Hàn, vì đây là nơi sông Hàn đổ ra biển). Sơn Trà như mọc từ biển lên, cao 693m, sớm chiều mây phủ, cũng gọi là núi Tiên Sa, xem như có những nàng tiên từ trên trời sa xuống. Từ Đà Nẵng có đường ra bán đảo Sơn Trà, qua sông Hàn, dòng sông thường thả những bụi nước mát dịu vào đường bờ sông của thành phố vào mùa hè oi bức, con đường này là nơi hóng mát của dân thành phố. Từ Đà Nẵng đi về phía Nam khoảng 8km, đến Ngũ Hành Sơn, theo cách gọi của dân gian là núi Non Nước, một trong những thắng cảnh nổi tiếng nhất. Ngũ Hành Sơn là một nhóm núi năm hòn: Kim, Mộc, Thủy, Hoả, Thổ. Thủy Sơn là núi lớn nhất và cũng đẹp nhất. Trong núi này có hang Vân Nguyệt, hang Thiên Long, động Linh Nham, động Tàng Chơn. Những hang động đầy hấp dẫn với thạch nhũ kỳ thú và những lối đi thật bất ngờ. Động Vân Thông (còn gọi là hang Trời) là động lộ thiên, đứng trong động ngước nhìn lên có thể thấy những đám mây bay lơ lửng. Rồi động Thiên Long (còn gọi là hang Gió), vì bao giờ cũng có những luồng gió mát lồng lộng ngay trong động sâu. Động Huyền Không có vòm cao, trên đỉnh trổ năm lỗ trống gọi là cửa Trời, vách đá có những khối hình, người ta gọi là "vú đá nàng tiên" có nước nhỏ ra như những giọt sữa. Trong những hang động ấy, người xưa (Chăm và Việt) đặt những nơi thờ cúng; trên núi có những ngôi chùa khá lớn, vì bị phá trong chiến tranh nên sau những lần trùng tu mới đây, những ngôi chùa này mất vẻ cổ kính tuy vẫn giữ lại được phong cách cũ. Chùa Tam Thai đặt trên một đám đất bằng ở ngay đầu núi, từ đó đi một quãng ngắn ra một mỏm núi nhỏ gọi là đài Vọng Giang, nơi tầm nhìn bao quát toàn cảnh một vùng rộng lớn với núi rừng, đồng ruộng, dòng sông. Và đi tới gần cuối về phía đông, từ trên cao bước xuống theo những bậc đá lớn, bạn đặt chân lên một mỏm núi nhỏ khác: đài Vọng Hải, nơi có thể nhìn ngắm cả một vùng biển mênh mông. Những hòn núi khác cũng chứa trong mình nhiều cảnh lý thú. ở Kim Sơn chẳng hạn, luồn mình vào một hang sâu, tối om, sẽ đến tận nơi có vũng nước trong, cạnh đó là những nhũ đá tạo thành những hình thù kỳ ảo. Ngũ Hành Sơn có những loại đá quí đủ màu sắc, người ta dùng làm những đồ chạm khắc tinh tế: tượng Phật, sư tử, voi và cả những con cá vàng quẫy đuôi sống động. Nghề làm đồ mỹ nghệ bằng cầm thạch có từ lâu, sản phẩm được trong và ngoài nước rất thích. Nhưng cũng đã đến lúc cần nâng cao hơn nữa kỹ thuật cũng như nghệ thuật của nghề làm đồ mỹ nghệ bằng đá này.
HỘI AN Vào thế kỷ XVI Nguyễn Hoàng thấy đây là nơi giàu có (vàng, yến sào, quế, đường, mật ong, ruộng muối, cẩm thạch... ) nên mới lập thành trấn và cử con trai là Nguyễn Phước Nguyên trấn giữ, mở cửa Hội An buôn bán với bên ngoài. Người Trung Quốc và người Nhật đến buôn bán và thường trú ở những phố riêng. Sau đó còn có người Hà Lan và những người phương Tây khác. Quảng Nam là một trong những nơi đầu tiên đón nhận luồng văn minh phương Tây trên đất nước ta. Hội An có nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử: Hội Phố, Hoài Phố, Hải Phố, Hoa Phố... mang tên gì, nó cũng là một đô thị gồm có cảng, có chợ, có phố. Hiện nay, cảng không còn nữa (nhường cho cảng Đà Năng), chỉ còn chợ và phố. Lịch sử Hội An bắt nguồn từ thời xa xưa, người Chiêm Thành cũng đã từng dùng đây làm cửa ngõ thông thương với ngoài. Với chúa Nguyễn, Hội An được mở rộng thành nơi trung tâm của Quảng Nam từ cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII. Hội An nằm bên cửa Đại, nơi sông Thu Bồn đổ ra biển, rất thuận tiện cho tàu buôn ra vào. Người nước ngoài còn cư trú ở đây xây thành những khu phố riêng của họ: Phố Nhật, phố Tàu và một số thương điếm của người Hà Lan. Một bài ký sự của một nhà sư Trung Quốc đến đây hồi đầu thế kỷ XVII có ghi lại đại thể: Người Trung Quốc lập tiệm buôn đọc theo bờ sông, gọi là Đại Đường Nhai, hai bên hàng quán liên tiếp nối nhau, phố Nhật nằm ở phía đông phố khách. Người Nhật và người Trung Quốc là thương khách chính trong các phiên chợ lớn hàng năm kéo dài tới bốn tháng liền. Hàng năm người Nhật mang đến 4 - 5 vạn nén bạc để cất hàng, còn người Trung Quốc thì mang tơ lụa và đặc sản đến đổi hàng. Gần đây, các cuộc điều tra và khảo sát các khu phố cũ đã được tiến hành, kết quả cho thấy còn nhiều di tích được giữ gần như nguyên vẹn sau những lần trùng tu mới nhất. Đặc biệt đáng chú ý mấy phố cổ của người Trung Quốc, cầu Lai Viễn và một số đền chùa cũ. Phố Trung Quốc cũ chạy đọc theo bờ sông, gồm những ngôi nhà hình ống. Phía trước nhà là cửa hiệu, đoạn giữa là nhà ở, và phía sau là kho chứa hàng (cất từ thuyền dưới sông lên). Thông thường mỗi ngôi nhà như thế có ba mái chính, giữa các mái ấy là mái vỏ cua. Đi từ trước ra sau nhà, thấy như một ngôi nhà thống nhất. Những ngôi nhà này được dựng theo một mô-típ giống nhau, giống nhau cả cách trang trí. Lai Viễn Kiều theo truyền lại do người Nhật dựng, vì thế gọi là cầu Nhật. Đó là những cầu nhỏ có mái che, đường to ở giữa, hai bên có lối đi riêng. Nền cầu hơi vồng lên ở giữa, trông như một vòng cung. Cầu ghép với một chùa ở bên. Xưa kia, cầu lát ván thưa, đứng bên trên có thể nhìn thấy cá bơi dưới lạch. Chùa Bà Mụ xưa kia là của người Minh Hương. Chùa thờ Thiên mẫu thánh hậu và mười hai bà mụ, cầu cho thiên hạ thái bình. Chùa có tam quan rất đẹp, bóng tỏa xuống mặt nước bao la, trông thật thơ mộng. Nhưng tượng thờ, đồ thờ trong chùa có trình độ điêu khắc khá tinh xảo. Chùa của người Trung Quốc nhưng chủ yếu do những người thợ địa phương làm. Hội An tuy trải qua nhiều cuộc chiến tranh nhưng chưa bị tàn phá mấy. Nhìn chung đó vẫn là nơi độc nhất ở nước ta còn giữ được "phong độ" của một đô thị xưa. Một dự án du lịch lớn đang được thực hiện để biến Hội An thành một điểm du lịch quan trọng không chỉ ở Quảng Nam - Đà Nẵng mà của cả nước. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, vùng đất này sản sinh ra những sĩ phu yêu nước và có óc canh tân nổi tiếng. Hoàng Diệu, người giữ thành Hà Nội và chết với thành này lúc Pháp đánh đến là người quê ở Gò Nổi - Quảng Nam, Phan Chu Trinh là người đứng đầu cuộc vận động Duy Tân những năm đầu thế kỷ. Với địa thế xung yếu của mình, Quảng Nam - Đà Nẵng thường xuyên là nơi đứng đầu sóng ngọn gió trước các cuộc xâm lược của các nước phương Tây. Không phải ngẫu nhiên mà tiếng súng xâm lược của Pháp nổ đầu tiên vào Đà Nẵng năm 1858, và Đà Nẵng là nơi đạo quân đầu tiên của quân viễn chinh Mỹ đồ bộ lên năm 1965. Quên sao được cuộc chiến đấu gan góc kiên cường của đồng bào Đà Nẵng, Duy Xuyên, Hòa Vang, Điện Bàn... thời chống Mỹ. Ngày nay Quảng Nam trở thành một tỉnh quan trọng về mọi mặt. Quảng Nam có quế Trà My, thuốc lá Cẩm Lệ, lụa Gò Nổi, có quả bòn bon ngọt lành, có nước mắm Nam Ô. Đây là tỉnh lớn nhất, đông dân nhất của miền Trung Trung bộ. Quảng Nam còn có mỏ than với khu công nghiệp Nông Sơn - An Hòa. Và Quảng Nam có thành phố và cảng Đà Nẵng rất sâu và kín gió, tàu lớn ra vào dễ dàng, một sân bay cỡ quốc tế, đường sắt đường bộ đều thuận tiện. Không lạ gì ở Đà Nẵng xuất hiện và đang phát triển một loại ngành công nghiệp: dệt, cơ khí, hóa chất, chế biến thực phẩm. Và nếu trước kia về văn hóa, Quảng Nam - Đà Nẵng còn phụ thuộc vào Huế, Quy Nhơn, ngày nay Đà Nẵng đang dần dần trở thành một trung tâm văn hóa quan trọng. Từ Quảng Nam vào đến Quảng Ngãi, khách qua đường chú ý ngay đến những guồng nước cao lớn, có cái lên đến 12m, làm bằng tre, ngày đêm đưa nước các sông Trà Khúc, sông Vệ lên ho đồng ruộng. Và lúa ở đây nhường chỗ cho những ruộng mía kéo dài cả tỉnh; khắp các chợ khách có thể nếm và mua kỷ niệm những khối "đường phổi" ngọt ngào. Ở đây cũng khó mà nhắc hết tất cả những nơi đã nổi lên đánh Pháp đánh Mỹ, chỉ cần nói Quảng Ngãi có Ba Tơ 0, có Trà Bồng 0, có Sơn Mỹ (tức Mỹ Lai), ai muốn hiểu nhiều về lịch sử hiện đại có thể về đây tìm hiểu trên thực địa nhiều biến cố quan trọng. Không xa Sơn Mỹ là Sa Huỳnh, không chỉ là một bãi tắm đẹp mà còn là nơi có di chỉ của một nền văn hóa khảo cổ đặc trưng của một vùng ven biển. Người ta đã thấy ở đây những rìu đá có vai, một ít vật bằng đồng (lưỡi giáo, chuông nhỏ, đồ trang sức), nhưng nhiều nhất là đồ sắt (công cụ và vũ khí). Đặc biệt còn tìm thấy những mộ vò 0. Nếu có dịp dừng lại nơi đây, bạn hãy đi dọc theo mấy đoạn bờ biển, nhìn ra khơi xa. Ngoài kia, tùy theo tiết trời những hòn đảo nhỏ hiện lên khi rõ khi mờ. Các cồn cát nối những núi đảo gần bờ lại, che kín các vùng biển thành vùng nước ngọt. Vùng Quy Nhơn được bao bọc ở phía đông bởi bán đảo Phước Mai. Vách núi phía đông bán đảo này dựng đứng bên biển cả như một bức tường khổng lồ đày đặc những tổ chim yến. Quy Nhơn có đầm Thị Nại, nơi đấy đã xảy ra những trận quyết liệt giữa quân Tây Sơn và quân Nguyễn Ánh; Quy Nhơn là nơi xuất phát đường 19 lên Tây Nguyên, nên đang trở thành cảng xuất nhập của một vùng rộng lớn. Bình Định, Quy Nhơn là đất của võ thuật: Ai về Bình Định mà coi Con gái Bình Định múa roi đi quyền Về Quy Nhơn bạn nên ở lại một vài ngày, xem những nghệ nhân nổi tiếng diễn một hai vở tuồng, nghe nói về thân thế và tác phẩm của Đào Tấn, một nhà soạn kịch, đạo diễn tuồng, một nhà thơ lớn của nước ta, cùng thời với cụ Phan Bội Châu. Ngày nay chúng ta mới phát hiện ra Đào Tấn là một nhà văn cỡ lớn có thể xếp ngang hàng với những văn hào lớn nhất từ xưa đến nay. Tuồng của Đào Tấn mang đầy đủ kịch tính, lời văn hoa lệ lâm ly, diễn xuất ở đây điêu luyện không kém bất kỳ một loại kịch nào khác trên thế giới. Từ Quy Nhơn, theo đường 19, tiến về đèo An Khê (cao 740m) chúng ta thăm đất Tây Sơn, bên này là đèo Tây Sơn "Hạ Đạo", bên kia là Tây Sơn "Thượng Đạo", vì đây là nơi giao dịch giữa miền núi và miền xuôi, giữa người Kinh và người Ba Na. Từ đây năm 1771 ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ. Nguyên Lữ đã kéo một đoàn nghĩa binh, Kinh có, Bana có xuống Bình Định giải phóng tỉnh này khỏi ách áp bức của chúa Nguyễn; sau đó tiến đến tận Thăng Long, đánh đổ hai triều chúa Nguyễn - Trịnh thống nhất lại đất nước sau hai trăm năm chia cắt. Về Tây Sơn nay còn thấy gốc me cổ thụ và cái giếng, nơi nô đùa của anh em Tây Sơn thời còn tấm bé, đến đây đồng bào Kinh và Thượng còn chỉ cho xem nào là núi ông Nhạc, núi ông Bình (tức Nguyễn Huệ), nào là nơi dùng cất kho của nghĩa quân, nào là "cánh đồng cô hầu" nương trại của một cô gái Bana, vợ của Nguyễn Nhạc có công trồng trọt chăn nuôi cung cấp lương thực, voi ngựa cho quân Tây Sơn. ở đây còn có đền thờ Bùi thị Xuân, nữ tướng của Tây Sơn, chỉ huy đàn voi đánh giặc. Về dịp tết, vào ngày mùng năm, nhân dân khắp nơi về đây dự hội Quang Trung, kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, đây là một trong những hội lớn nhất ở nước ta. Từ giã Quy Nhơn, lên đèo Cù Mông, ngoảnh lại nhìn sông núi khu V, với ba tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, ta nghe vọng câu hò: Sông cạn, biển cạn, lòng ta không cạn Núi lở, núi mòn ngãi bạn không quên Đường còn qua lại xuống lên Ơn bạn bằng biển, ngãi ta đền bằng non
Từ đèo Cù Mông bước vào tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận những khối núi đồ sộ tiến sát ra biển, con đường ô tô chạy ngoằn ngoèo sườn núi, dưới chân núi là biển, đây là đoạn đường ngoạn mục nhất của quốc lộ số 1. Qua sông Đà Rằng (cũng gọi là sông Ba) trên chiếc cầu dài nhất của quốc lộ số 1, vượt qua khỏi Tuy Hòa với đồng bằng giàu nhất của vùng này, là trèo lên đèo Cả qua khối núi Vọng Phu; núi này có đỉnh cao trên 2000m đâm thẳng ra biển, tạo thành những mũi đá đồ sộ, tiếp đó những cao nguyên Lang Biang, Di Linh cũng vươn ra tận biển tạo ra không biết bao nhiêu mũi, vịnh, vũng lạch, đảo, bán đảo, và chen vào giữa là những cánh đồng nhỏ, là nhưng nơi dân cư đông đúc: Sông Cầu, Tuy Hòa, Nha Trang, Ba Ngòi, Phan Rang, Phan Thiết. Tôi không nói nhiều về thành phố Nha Trang với một bãi biển tuyệt đẹp, một viện Pasteur lâu đời còn giữ lưu niệm của nhà bác học Yersin, một viện Hải Dương học độc nhất ở nước ta và nhiều tiện nghi du lịch, về vịnh Cam Ranh nổi tiếng là một trong những vịnh rộng nhất của thế giới (338km2), với một bán đảo dài 12km có đến ba cảng, có thể tiếp nhận những hạm đội rất lớn. Cát Cam Ranh cũng là cát tinh khiết vào bậc nhất. Thế nào tổ chức du lịch cũng hướng dẫn các bạn một cách chi tiết. Phía nam Nha Trang, là hai đồng bằng Phan Rang, Phan Rí, có đặc điểm là hai nơi ít mưa nhất trong cả nước, lượng mưa hàng năm khoảng 600mm, một phần ba của lượng mưa trung bình, không lạ gì đây là đất trồng nho và trồng bông. Sau đó Phan Thiết với nước mắm nổi tiếng, hàng năm sản xuất trên 30- 40 triệu lít, những cảng lớn nhỏ của Ninh Thuận, Bình Thuận có thể hàng năm bắt 100.000 tấn cá. Ninh Thuận có đồng Cà Ná, Bình Thuận có suối nước nóng Vĩnh Hảo. Đến Phan Thiết cũng không quên thăm trường Dục Thanh, nơi Nguyễn Tất Thắng (tức Bác Hồ) đến dạy học năm 1911, trước lúc vào Sài Gòn để đi ra nước ngoài. Suốt từ đèo Hải Vân đến mũi Kê Gà, cuối tỉnh Bình Thuận, từ con đường ô tô chạy ven biển, ta có thể nhìn ra cả một chuỗi hòn đảo, mở rộng lãnh thổ nước ta đến tận ngoài khơi. Trước mắt Đà Nẵng là quần đảo Cù Lao Chàm, và cách xa khoảng 350km là quần đảo Hoàng Sa, rồi ngoài khơi Quảng Ngãi là Cù Lao Ré. rồi những hòn Ông Cơ, hòn Ông Cán, hòn Hèo, hòn Lợn, hòn Bịp, hòn Thạo, hòn Chà Là, hòn Rêu, hòn Nứa, hòn Ngoại... và xa tít ngoài xa phía đông nam là quần đảo Trường Sa, tỉnh nào cũng có đảo. Các đảo này là nơi chim yến về làm tổ, và yến sào là đặc sản của các tỉnh ven biển miền Trung, nếu không được trực tiếp xem cảnh người đi tìm tổ yến, thì cũng nên xem cuốn phim về nghề này.