Chương IX. SÀI GÒN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chúng ta bắt đầu chuyến đi với Thăng Long - Hà Nội nay kết thúc ở Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. So với Hà Nội - Thăng Long, thì Sài Gòn còn rất “trẻ”, nhưng còn già hơn New York hay Washington. Từ cuối thế kỷ XVII đồng bào ta từ miền bắc, miền Trung đã vào đất khai phá mảnh đất còn hoang vu này, chưởng cơ Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn vào lập thành dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định (1698) khi cư dân đã đông đúc là đường sông thuận tiện, sông Sài Gòn - mang nhiều tên khác nhau, tùy khúc: cho đến rạch cầu ông Lãnh gọi là sông Bến Nghé, từ Nhà Bè đến Ngã Bảy là sông Lòng Tàu, từ Ngã Bảy đến Cần Giờ là sông Ngã Bảy - nối liền với biển, ngày nay tàu trên 10.000 tấn có thể vào được. Thời Trịnh Hoài Đức đã thấy:
“Tàu buôn và những ghe thuyền lớn nhỏ nước ta và các nước liên tiếp đến đậu, trông thấy những trụ cột buồm liền nhau như một đô hội”.
(Gia Định thành thông chí)
Người Hoa, đình thần nhà Minh bị quân Mãn Thanh xua đuổi được chúa Nguyễn cho phép cư trú ở Cù Lao Phố (Biên Hòa ngày nay), sau 1777 dời về Bến Nghé tức Sài Gòn. Thành phố này qua mấy trăm năm đã mang nhiều tên: Tân Bình, Bình Dương, Chợ Lớn, Sài Gòn, Bến Nghé, Gia Định, Phiên An, từ 1856 chính thức gọi Sài Gòn, và ngày 2 - 7 - 1976, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ nhất đã đổi là Thành phố Hồ Chí Minh.
Dân số năm 1900 là 17.000; đến năm 1945 đã gần nửa triệu. Đặc biệt trong chiến tranh, vì chính sách hủy diệt nông thôn và lập vành đai trắng của Mỹ, nhân dân nhiều vùng đã ùn ùn về thành phố, làm cho năm 1975 dân số lên đến 4 triệu, trong đó có đến hơn 70 vạn người Hoa, tập trung ở Chợ Lớn. Cũng phải nói, Sài Gòn trong 21 năm đã tiếp nhận 80% toàn bộ viện trợ Mỹ cho miền Nam, nên đã xây dựng thành đô thị lớn nhất nước ta.
Vào đầu thế kỷ XIX, Trịnh Hoài Đức đã mô tả: “Phố chính hai bên đường quan lộ, chạy thẳng suốt qua ba phố ra bến sông. ở giữa có một phố nằm ngang và ở cuối có một phố dọc ăn thông với nhau, hình chữ điền. Nhà cửa liền mái sát vách. Phố dài gần ba dặm, bán các thứ gấm vóc, đồ sứ, giấy bút, hạt châu, sách vở, thuốc men, chè miến và các hóa vật ở miền Nam, miền Bắc; trong sông ngoài biển không thiếu thứ gì.
Những buổi hôm mai đẹp trời cùng những ngày tam nguyên, dân chúng treo đèn trần thiết, đua khéo thi lạ, trông như cây lụa cầu sao, hội tiên thành gấm. Chuông trống om sòm, đàn sáo ríu rít, gái trai chen chúc, thật là một cái phố đông đúc và náo nhiệt”.
Chiếm được Sài Gòn, thực dân Pháp bắt đầu xây dựng cảng năm 1860, làm nơi xuất khẩu gạo, và sau này là cao su và nhập những hàng hóa công nghiệp từ Pháp sang. Nhiều công trình của thời trước, đặc biệt những thành lũy của thời chúa Nguyễn, thành Gia Định (1790), thời Minh Mạng đổi tên là Phiên An (1833), bị phá năm 1835, sau khi triều đình Huế dẹp loạn Lê Văn Khôi; năm 1836 Minh Mạng cho xây lại thành nhỏ hơn, bị quân Pháp chiếm phá. Chiến lũy Hoa Phong xây đắp năm 1700 để chống quân Xiêm nay cũng không còn nữa, cũng như lũy Bán Bích (1772). Nay còn dấu vết của đồn Chí Hòa do Nguyễn Chi Phương xây dựng để chống Pháp (1860).
Thành phố có nhiều chùa, cái xưa nhất trên dưới 200 năm, của người Việt có, của người Hoa có. Chùa Cây Mai, một thắng cảnh của đất Gia Định được sử sách ca tụng cất từ 1816, trên đường Chợ Lớn - Phú Lâm, xưa khách đến đua thuyền hái sen và các nhà văn đến ngâm vịnh, nay không còn. Còn một loạt chùa khác như Giác Lâm (quận Tân Bình) lập 1744, chùa Giác Viên (quận 11) dựng 1803, chùa bà Thiên Hậu ở Chợ Lớn, đình Minh Hương Gia Thành xây 1789 trên đường Trần Hưng Đạo.
Từ thời Pháp, công trình đầu tiên là bến Nhà Rồng, khởi công 1868 do Messageries Maritime - Công ty vận tải đường biển - nơi Bác Hè năm 1911 lên tàu ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1865 dựng cột cờ Thủ Ngữ treo cờ hiệu cho tàu bè ra vào. Tòa nhà cũ nay thành nhà lưu niệm Bác Hồ.
Trong thành phố hiện nay, ta có thể đến thăm những công viên Tao Đàn, một vườn cây lớn (cổng vào chính đường Xô Viết Nghệ tĩnh), nay là nơi vui chơi tập luyện của trẻ em và người lớn (đây là một tụ điểm quan trọng của phong trào dưỡng sinh); rồi đến Thảo Cầm Viên quen gọi là Sở Thú hay vườn Bách Thảo, nằm biên bờ sông Thị Nghè trong đó có Đền Hùng Vương và bảo tàng lịch sử. Đây là nơi sưu tầm nhiều cây cỏ các loại, kể cả một số cây mà rừng Việt Nam không có, động vật thì ít hơn. Dạo quanh thành phố, ta có thể qua những đường phố với những hàng cây đẹp như me (Nguyễn Du, Phùng Khắc Khoan), sao (Minh Khai, Lê Duẩn), dầu 0.
Ở hai quận trung tâm I và III, tập trung những công trình qui mô lớn từ hai thời Pháp - Mỹ để lại: Ủy Ban Nhân Dân thành phố hiện nay, xưa thường gọi là Dinh Xã Tây, khánh thành năm 1909, tức là toà Đô Chính thời Pháp, gần đó nhà thờ Đức Bà xây từ 1877, đến 1959 được công nhận là Basilique (Vương cung thánh đường). Pháp cũng xây dựng nhà hát thành phố, khánh thành 1900, Dinh Thống Đốc Nam kỳ, sau gọi là Dinh Gia Long, nay là Bảo tàng cách mạng. Dinh Soái Phủ của Pháp đến 1963 - 1966 xây lại thành Dinh Độc Lập (kiến trúc sư Ngô Viết Thụ) ngày 8 - 4 -1975 phi công Nguyễn Thành Trung dùng máy bay Mỹ ném hai quả bom làm sập cánh trái dinh, và 11 giờ 30 ngày 30 - 4 -1975, xe tăng giải phóng tiến thẳng vào buộc tổng thống Dương Văn Minh và chính phủ của ông ta (48 người) đầu hàng, ngày nay đổi thành Hội trường Thống Nhất.
Trên mảnh đất của hai nhà tù lớn, vừa là những nơi tra tấn khủng khiếp của thời Pháp - Mỹ là bót Catinat và khám lớn Sài Gòn, nay là trụ sở của Sở văn hóa thành phố và Thư viện Quốc gia II. Đại sứ quán Mỹ xây dựng năm 1965, bị quân ta chiếm trong cuộc tấn công tết Mậu Thân nay là trụ sở của Tổng cục Dầu Khí.
Về triển lãm, thì có Nhà triển lãm thành phố, đường Phó Đức Chính, Nhà trưng bày tội ác Mỹ - Ngụy đường Võ Văn Tần, và hàng năm có hội chợ Quang Trung trưng bày sản phẩm của thành phố và của nhiều tỉnh khác từ Bắc chí Nam, khách có thể đến thăm các nhà văn hóa và câu lạc bộ, Nhà văn hóa Thanh Niên đường Phạm Ngọc Thạch (Duy Tân cũ), Nhà văn hóa Thiếu Nhi đường Nam Kỳ Khởi nghĩa, Câu lạc bộ Lao Động đường Xô Viết Nghệ Tĩnh (xưa là nhà Xẹc Tây tức Cercle Sportif saigonnais dành cho bọn Pháp thượng lưu). Mồng một, rằm có thể viếng thăm những chùa mới như Vĩnh Nghiêm hay Xá Lợi. Để hiểu tình hình sản xuất hàng hóa buôn bán, nên dạo qua mấy chợ quan trọng: Bến Thành, Bình Tây, Tân Định, Bà Chiểu...
Ra ngoại thành, là để tham quan một bên là những căn cứ kháng chiến anh hùng, một bên là những nơi xây dựng kinh tế mới sau giải phóng. Đầu tiên là Củ Chi, với hệ thống địa đạo, mấy trăm ki-lô-mét, như một hệ thống métro, một căn cứ chỉ cách Sài Gòn 30km mà Pháp - Mỹ với bao nhiêu bom đạn không diệt nổi. Tháng 1-1966, chỉ huy Mỹ cho bắn vào đây hai vạn quả đạn đại bác, cho B-52 rải hai nghìn tấn bom rồi cho 600 xe bọc thép với 12.000 quân kéo vào vẫn bị đánh lui, mặc dù miếng đất ấy đã thành như cảnh mặt trăng. Bom đạn làm rung chuyển cửa kính các nhà ở Sài Gòn, thế mà sau đó, bà con thành phố về thăm Củ Chi, lại được tiếp đón ở dưới những căn hầm rộng rãi, kê ván gỗ, trải chiếu hoa, có trà ngon, có bánh mứt. Khó mà hiểu được, đất thì cứng, máy móc không có, mà đào sâu đến 12m, bao nhiêu tấn đất rải ra mà máy bay địch không phát hiện được; địch bắn suốt ngày đêm, khi tìm được một đoạn hầm thì phun hơi độc, thế mà dưới đất sinh hoạt vẫn tiếp tục, hội họp, cứu chữa thương binh,văn nghệ, sinh con, học hành... Củ Chi nay đã sống lại và đang vững bước tiến lên.
Xuôi dòng sông Sài Gòn cho đến biển là khu vực Rừng Sát với ba cửa Cần Giờ, Đồng Tranh, Soài Rạp, đây cũng là nơi đổ ra biển của sông Đồng Nai, sông Vàm Cỏ Đông và Tây. Là một rừng rậm đước vẹt, sình lầy. Tàu vào sông Sài Gòn đi qua Rừng Sát, theo sông Lòng Tàu. Sông rạch chi chít là nơi để các chiến sĩ giải phóng nhiều lần đánh chìm tàu của Pháp - Mỹ, ngày nay lại là nơi để thanh niên xung phong và bà con lao động thành phố xây dựng một khu kinh tế mới có nhiều hứa hẹn. Một chuyến đi về miền Duyên Hải ôn lại chuyện cũ, nhìn vào công việc ngày nay sẽ giúp hiểu rất nhiều về thành phố này. Nhiều khu kinh tế mới chung quanh thành phố cũng có một lịch sử gần và xa không kém oanh liệt.
Nhưng thành phố này vẫn là nơi để quan sát, để suy nghĩ về tất cả những vấn đề về kinh tế - xã hội - văn hóa của nước ta hiện nay.
Ở đây tôi không dẫn các bạn tới những đường phố lớn, với những tòa nhà cao tầng; không nói về lịch sử xa xưa chúng ta đã có dịp nhắc đến ở nhiều nơi khác.
Vào thành phố này, tôi muốn cùng bạn suy nghĩ về hiện nay, nói đúng hơn về thời hiện đại của nước ta, một thời đại đã mở đầu với tiếng súng của quân Pháp. Năm 1859 Sài Gòn đi trước, 1975 Sài Gòn về sau. Nếu cả nước Việt Nam đã trở thành nơi giành giật quyết liệt giữa đế quốc và dân tộc ta, thì Sài Gòn lâu hơn hết đã 116 năm dài kiên cường đánh địch, không nơi nào lại có một vốn cách mạng dày như vậy. Nhưng cũng phải thấy ngay, không nơi nào đế quốc phương Tây cắm rễ lâu, bám sâu như vậy. Đó là hai mặt của Sài Gòn.