Bạn gái Hà thành, nhất là những vị tín nữ của thuyết tự do giá thú, chắc đương chau mày, nghiến răng, bất bình thay cho cuộc gả bán của cô Đoàn Thị Tuệ. Cô Tuệ là một nữ nghệ sĩ của gánh hát Nhật Tân, có tài hát lại có cả tài diễn kịch. Trong khi theo gánh hát ấy đi diễn trò khắp các tỉnh Bắc Kỳ, cô ấy nổi tiếng là một đào giỏi. Vậy mà xuân xanh chưa có bao nhiêu. Có người bảo rằng cô ấy mới 13 tuổi. Đó là người ta muốn cho cô ấy thêm vẻ ngây thơ. Kỳ thực, nữ nghệ sĩ ấy năm nay đã vừa tới tuần cập kê. Nghĩa là bằng tuổi cô Kiều trong lúc bắt đầu gặp chàng Kim Trọng. Và về sự phát triển của đường tình, cô Tuệ cũng không thua gì cô Kiều. Cái người đã được cô ấy để vào mắt xanh và đương cố đóng vai Kim Trọng là một học sinh trường tư, hiện ở với chị tại phố Hàng Nón Hà Nội. Không hiểu đá biết tuổi vàng từ bao giờ, lâu rồi hay mới. Người ta chỉ biết cô cậu đã nặng lời thề thốt, nhất định cùng nhau tạc một chữ đồng đến xương. ác nghiệt là cái bà mẫu của cô. Bà ấy cũng như Thúc ông, cố tình nghiến răng bẻ chữ đồng làm đôi. Là vì có ông chuyên "xếp chỗ ngồi cho khách" ở rạp Hiệp Thành cũng hỏi cô Tuệ làm vợ. Không rõ vợ chính hay vợ thứ. Chừng như thích phường trò hơn là học trò, nên bà Vũ Thị Định mới tựa vào công mang nặng đẻ đau, bắt cô Tuệ phải bỏ người tình mà lấy cái người "không tình". Cố nhiên cô Tuệ không thuận. Cố nhiên bà Định vẫn cố ép uổng. Nhưng, những sự đó chỉ là việc bất thường trong các gia đình nửa mới nửa cũ. Cái lạ là thứ hình phạt của bà mẫu kia đã dùng để phạt cô Tuệ. Không đánh, không đập, không cần đến thủ đoạn phũ phàng. Bà ấy đưa tuột cô Tuệ vào làng Đồng Quang, phủ Thường Tín, cái làng quê mình. Rồi thì bà ta nhốt luôn cô ấy vào buồng và đóng thật chặt các cửa. Sợ cô ấy còn có thể trốn, bà Định lại dùng xích sắt xích chân con gái vào chân mình nữa. Nhiều người thấy vậy cho rằng vị hiền mẫu ấy đã xử với con một cách tàn nhẫn. Nhưng mà xét cho kỹ ra, có lẽ nó không tàn nhẫn tý nào, chẳng qua bà ta cũng chỉ vì hiểu lầm một câu Truyện Kiều mà thôi. Cuốn Kiều chẳng có chỗ nói: "Buộc chân tôi cũng xích thằng nhiệm trao" à? Chắc là bà đó cho rằng "xích thằng" tức là xích sắt, nên mới dùng nó "trao" cho con gái. Nhưng sao bà ta lại không xích cô Tuệ vào chân ông "xếp chỗ ngồi" của rạp Hiệp Thành, mà lại xích vào chân mình. Chỗ đó cũng khó hiểu một chút. Đáng lẽ bữa nay là ngày cô Tuệ phải xích về nhà ông "xếp chỗ ngồi" của rạp Hiệp Thành. Vì lệnh bà mẫu cô ấy giục phải cưới đi, kẻo chậm nữa, e rằng xích không giữ nổi. Nhưng, cậu học sinh Hàng Nón còn đi trình Cẩm, và nhờ các nhà đương sự can thiệp, không rõ tấn tuồng đã diễn đến cảnh gì rồi. Dù cho diễn đến cảnh nào đi nữa, thì cô Tuệ cũng không thể vượt quyền bà mẫu kết duyên với cậu học sinh Hàng Nón, nếu như bà ấy không thuận. Bởi vì xứ này không phải là chỗ để chứa những quyền tự do của cá nhân, dầu nó là quyền tự do về sự giá thú. Chẳng thế mà quyển Bắc Kỳ dân luật đã cho chúng ta hiểu rằng: con trai lấy vợ, con gái lấy chồng, đều phải do người gia trưởng làm chủ hôn. Thế nhưng, nói dại đổ đi, nếu cô Tuệ vì tuyệt vọng về đường nhân duyên mà phải sống khác với tình, thì chẳng có ai bị tội về cái án đó! Nếu thế thì ai giết người?
LỜI CỦA GIẢN UNG ĐÃ ĐƯỢC THỰC HÀNH
Chuyện này hình như ở Tam quốc chí không có. Người ta chép nó vào bộ Hán thư. Hồi ấy, chắc vì Trương Phi say rượu đánh mất Tiểu Bái, Lưu Bị mới hạ lệnh cấm rượu. Không phải vì cấm rượu lậu, không cấm rượu tá như bây giờ đâu. Vì anh hùng khéo khóc này cầm hết các thứ chế bằng men, vô luận là lậu hay không lậu. Thế rồi, một hôm tình cờ đi với Giản Ung vào một nhà dân, Lưu Bị vớ được bộ đồ nấu rượu, ông ấy liền làm như các lính Đoan ngày nay, bắt luôn cả người và tang vật điệu đi. Và định trị tội một cách rất nặng, vì tên dân ấy đã dám chứa đồ nấu rượu. Giản Ung không nói gì cả. Đi một quãng nữa, thình lình gặp một người đàn ông. Giản Ung chỉ vào mặt hắn và bảo Lưu Bị: - Người kia có tội. Phải bắt mà trị. - Tội gì? - Tội dâm. - Sao Tiên sinh biết? - Khám trong mình nó, chắc là có chứa "đồ dâm". Lưu Bị biết Giản Ung chế giễu việc mình bắt kẻ chứa đồ nấu rượu, ông ta liền tha cho hắn. Coi chuyện đó, ai chẳng tưởng nó là một câu khôi hài, không khi nào mà được thực hành. Bởi vì trong thế gian, người ta có quyền được chứa đồ dâm, bắt làm sao được? Vậy mà ngày nay nó đã được đem thực hành. Có điều người ta mới thực hành cho loài bò chứ chưa dùng vào loài người. Theo tin của báo Tiếng dân nhiều con bò đực ở vùng mấy làng An Phong, Phúc Tích, Thạch An trong tổng Bình Trung, phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đương bị ki-mi một cách rất ngộ. Cổ nó đeo một cái khung hình vuông giống như cái gông. Bụng nó, dưới chỗ thận nang, có nhiều dây buộc chằng chịt, đầu cái bửu bối về sự sinh dục thì có treo một cái ống như thể hứng lấy tiểu tiện của nó. Cố nhiên là nó bị tội. Nhưng đố ai biết tội gì? ấy là tội dâm. Không phải nó đã "dâm nhân thê thiếp" như luật Gia Long đã nói, chỉ phạm cái tội chưa thiến. Nghe đâu trong mấy năm nay, ở tỉnh Quảng Ngãi có công việc kén chồng cho loài bò cái vẫn được tiến hành một cách chu đáo. Người ta đã về nhà quê lựa chọn những con bò đực béo tốt khỏe mạnh để làm bò giống. Người ta đã sức cho những nhà có nuôi bò cái phải dắt nó đến cái nhà có bò giống lấy "đực" cho nó. Rồi thì người ta lại phái nhân viên của Sở thú y về liên thôn quê thiến bớt những con bò đực không đủ tư cách sinh dục đi nữa. Vậy mà còn sợ trong cái xã hội loài bò vẫn chưa hết thói hỗn dâm, cho nên người ta lại phải đề phòng. Những thứ hình phạt đối với bò đực nói ở trên kia đều do kiểu của Sở thú y đề ra cho dân làm theo. Ông kỹ sư chế ra bộ đồ "phòng dâm" ấy đã nghĩ rất kỹ, mỗi bộ phận trong bộ đồ đó đều có công dụng riêng cả. Cái gông, cốt để cản con bò đực khỏi nhảy lên lưng bò cái. Cái ống là để hãm bộ bửu bối của nó khỏi thòi ra ngoài. Còn những dây chằng chung quanh thận nang thì để làm cho cái ổ dâm dục ấy phải vướng vít không thể tự do hành động. Với sự phòng bị cẩn mật như vậy, con vật vô giáo dục dù có động cỡn mà muốn hiếp dâm hay hòa gian với con bò cái cũng không tài nào đạt được ý nguyện. Thần diệu thay sự sáng chế ấy, chẳng những có thể lặp lại chủng tộc cho loài bò, nó còn có công duá trì phong hóa cho giống vật mang tiếng dốt ấy nữa! Vậy là ý kiến của Giản Ung phát minh sau hơn nghìn năm, đã được thực hành ở nước An Nam rồi vậy. Phải, theo thuyết "trạch chủng tưu lương" thì công cuộc ấy rất nên làm, tuy nó cũng hơi nhũng nhẵng lôi thôi và có ngãng trở cho sự làm ăn của các chủ bò. Chỉ tiếc cái khí cụ ấy sao lại chỉ ứng dụng vào một loài bò. Chúng ta há chẳng thấy những ông tu hành lợi dụng bóng Phật để đi chim vợ chim con người ta đó sao? uớc gì vị kỹ sư nào đó, cố nghĩ lấy một bộ đồ "phòng dâm" đẹp đẽ hơn và chắc chắn hơn, để bán cho mấy ông đó, thì có lẽ trong nước An nam sẽ có nhiều người thành Phật.
THUỐC LẬU, CHUYỆN KIẾM HIỆP
, VÉ SỔ XỐ GIẢ VÀ CỤ NGUYỄN THƯỢNG HIỀN
Đọc mớ danh từ nộm nạm, hỗn tạp trong cái đầu đề kia, các bạn chắc cũng đoán tôi muốn nói đến Lê Ngọc Thiều, tức Bình Hưng, kẻ mới bị bốn tháng tù treo về tội chực lừa cả nước. Chính tôi định nói đến Lê Ngọc Thiều. Vâng! Các ngài không lầm. Chắc không ai lạ con người đeo cái tên ấy. Trước kia hắn chỉ là một anh bán thuốc lậu, và thụt thuốc lậu. Người ta không thể biết rằng những ai dùng thuốc của hắn mà được khỏi bệnh. Chỉ biết trong đám con rồng cháu tiên, cái số dân lậu không ít, vì vậy hắn vẫn cứ sống. Được rồi, y giới xứ này còn nhan nhản những kẻ không biết chữ "nhất" là một, Thiều vẫn có quyền được thụt thuốc lậu, bán thuốc lậu, không ai cấm. Nhưng Thiều lại xoay ra nghề buôn sách. Kèm với cửa hàng thuốc lậu, Thiều đã công nhiên lập một văn đoàn (!) xuất bản ít chuyện kiếm hiệp để dỗ tiền của lũ trẻ con. Cũng được. Những chỗ ngã ba, ngã tư các chỗ còn có những kẻ xúc thẻ kẹo đạn, mở bàn cò quay, Thiều vẫn có thể in bán những thứ sách ấy. Cái cả gan là Thiều đã dám lẩn vào làng báo, làm chủ cái báo Quốc gia, rồi in những giấy biên lai giống hệt như vé số Đông Dương, để đánh lộn sòng với những vé ấy. Đáng lẽ lại cũng được nữa. Nhưng vì có người tố cáo, nên Thiều phải ra tòa và bị bốn tháng tù treo. Bây giờ Thiều vẫn cứ con đường cũ mà đi. Trên báo hàng ngày, ngoài việc rao bán thuốc lậu, Thiều còn rao bán cả tiểu sử cụ Nguyễn Thượng Hiền nữa chứ. Cứ lời Thiều rao, thì cuốn tiểu sử ấy, Thiều sẽ in từng tập nhỏ như tập kiếm hiệp bán ba xu một. Cái đó mới tai ngược thay! Hẳn ai cũng nhận thấy rằng: tiểu sử cụ Nguyễn Thượng Hiền, hiện nay ở trong xứ này, ngoài cụ Phan Bội Châu khó có người nào biết rõ. Với cái sức học "Sơ học yếu lược", Thiều sẽ căn cứ vào đâu mà viết? Cố nhiên, tiểu sử cụ Nguyễn Thượng Hiền cũng cần lưu lại ở nước An Nam, nhưng bây giờ chưa phải là lúc xuất bản. Bởi vì đã là sử phải nói cho đúng sự thực, mà cái sự thực của cụ, lúc này chưa thể nói được. Thế là Thiều viết, Thiều bán, thì cuốn tiểu sử ấy nó ra sao, không phải đọc cũng rõ. Nó chỉ là món hàng buôn chứ gì? Vậy là cụ Nguyễn Thượng Hiền đã bị Thiều coi như thuốc lậu, truyện kiếm hiệp và xổ số giả vậy.
NGUYỄN KHẮC NƯƠNG VÀ BÀ BÉ TÝ
Té ra ông Nguyễn Khắc Nương trong Nam vừa mới làm xong một cuộc du lịch cực kỳ vĩ đại. Không phải là lên cung trăng như nhà thi sĩ Tản Đà, ông ấy cùng một số người gộp tiền đi thẳng một quệt từ Nam đến Bắc. Bây giờ ông Nương ở Bắc về Nam đã lâu và đương viết một lô bài để kỷ thuật cái hành trình rất oanh liệt ấy. Thì ra ông Nương đã đi qua Huế, qua Vinh, qua Thanh, lại ra Sầm Sơn rồi đến tận đất Hà Nội. Các bạn đừng tưởng ông Nương chỉ ngủ vài đêm ở xứ "nghìn năm văn vật" mà thôi. Không thế đâu. Trong khi tới đây, ông ấy có đi thăm viếng nhiều chỗ. Cứ lời ông ấy đã nói, thì sớm mai bữa ấy, các ông trong đoàn du lịch vừa ra khỏi phòng, đã có một lũ xe kéo đậu ở trước phòng chờ đợi. Thế rồi mỗi người trong đoàn lên một chiếc xe. Đi đâu? Đi dạo châu thành Hà Nội. Thoạt tiên tới chùa Một Cột. Tôi vào vườn bách thú, rồi đến chùa ông thánh Đồng đen, cái chùa mà người Hà Nội vẫn gọi là chùa Quan Thánh, hay đền đức thánh Trấn Võ. Các ông lại còn xem cả hồ Tây, hồ Trúc Bạch và cầu Đu me nữa chứ. Sau cùng thì đến nhà bà Bé Tý. Tại đây hình như ông Nương đã cảm thấy sự long trọng khác thường. Chẳng thế mà với hồ Tây, ông Nương chỉ thấy nó là hồ Tây, với hồ Trúc Bạch, ông Nương chỉ thấy hồ Trúc Bạch, với đền Quan Thánh, ông Nương chỉ thấy pho tượng Đồng đen và tấm áo chầu của vua Minh Mệnh ban cho, nhưng với nhà bà Bé Tý, ông ấy đã thấy nhiều lắm, nhiều hơn những kẻ đã soi bao đèn điện, uống cạn nước máy của đất này?
Tôi nói thật không phải bỡn. Nếu có hỏi các ngài nhà bà Bé Tý vẫn có những gì, chắc là các ngài chỉ đến trả lời bằng những cây sá, cây sung, con gà, con lợn, hay cái biển đề hai chữ "vật hoa" là cùng. Thế thì các ngài còn thua ông Nguyễn Khắc Nương rất xa. Chẳng những ông ấy chỉ biết trong nhà bà này có nhiều những đồ "cổ tích ngọc ngà châu báu" mà thôi. Theo lời đã nói ở bài tường thuật, thì bà chánh Tý còn bảo cho ông ấy biết trong mình bà ta còn có "mười một vật lạ" tất cả. Cái đó, quyết không sai. Quí nhân phải có quí tướng, xưa nay vẫn thế. Lưu Bang từ ngôi đình trưởng ấp Bái nhảy lên ngôi vua nhà Hán, chỉ nhờ có 72 nốt ruồi mọc ở trong mình. Lưu Bị xuất thân là anh dệt chiếu đóng dép mà làm được vua nước Thục, cũng chỉ nhờ về hai chữ vành tai to, và hai cánh tay dài quá đầu gối. Bà Bé Tý há phải một người bé tý? Các bạn đọc báo Thời vụ hồi tháng Avril năm ngoái, chắc còn nhớ hai câu đối này: "Cõi tục cốt cách tiên, hiếu hạnh sắc tài Chu Thái hậu. Người trần tâm tính phật, nghi dung đức độ Tống nguyên phi". Ấy là câu ông nhà nho nào đó đã nghĩ cho bà Bé Tý treo ở trong nhà bà ấy. Vậy thì chính bà Bé Tý vẫn tự nhận mình là tiên, là phật, là bà nguyên phi nhà Tống và là cả bà thái hậu nhà Chu nữa vậy. Tuy rằng ngày nay chưa biết bà ấy làm những bậc ấy chưa, nhưng mà người ta đã thấy trong nhà bà ấy có đủ các hạng quí khách: nào Tây, nào Tàu, nào An Nam, nghe nói lại có cả ng Lê nữa đấy. Vì vậy có người đã mượn câu này để vịnh bà ấy: "Nhà nhỏ như thuyền, chở đã lắm người Hồ lại Việt. Buồng to tầy đấu, chứa bao nhiêu khách Bắc rồi Nam". Đó là câu dịch của sách Tàu, nguyên văn chữ Hán thế này: "Ốc tiểu như châu, trang tải hứa đa Hồ, Việt khách. Thất đại vu đẩu, bao tàng vô hạn Bắc, Nam nhân". Phải chở đủ khách Hồ khách Việt, chứa cả người Bắc người Nam, bà chúa chuồng chim Hàng Bạc thật là vĩ nhân của nòi giống Rồng tiên. Ông Nương ca tụng là phải! Một đấng vĩ nhân như thế, tất nhiên phải có rất nhiều quí tướng, ông Nương bảo trong mình bà ấy có mười một vật lạ còn là ít đấy, có lẽ hãy còn hơn nữa. Tiếc rằng trong lúc làm trò lạ để tiếp đoàn du lịch, bà ấy không cho ông Nương coi những vật lạ kia! Thôi để lần sau. Lần sau nếu có du lịch ra Bắc, ông Nương nên đòi cho được những vật lạ ấy, coi nó thế nào.
CHỦ NGHĨA "TỰ DO LUYẾN ÁI"
ĐÃ LAN ĐẾN GIỚI THẦN THÁNH
Những người ở qua Nam Kỳ, phần nhiều đều nghe cái thiêng của thần làng Phong Phú, một làng thuộc quận Thủ Đức, chỉ cách Sài Gòn độ 4 cây số. Bởi vì, người ta tin rằng thần ấy thiêng lắm, cho nên hàng năm, cứ đến ngày rằm tháng giêng thì ở Sài Gòn Phú Nhuận, Gia Định và nhiều nơi khác, những nhà buôn bán, nhất là các cô, tấp nập kéo đến đình làng Phong Phú mà lễ. Để làm gì? Bà con cầu khấn thần ấy phù hộ cho mình phát tài. Có người xin vay tiền của thần làm vốn, cũng như những ông lái thuyền nước mắm Thanh-Nghệ ngày xưa hay vay tiền của bà Liễu Hạnh ở Phủ Giầy vậy. Không biết thần ấy thuộc về loài gì, nhưng chắc ngài là giống đực. Vì vậy hồi này ở vùng Sài Gòn mới có tin đồn thầy ấy sắp sửa cưới vợ. Thiên hạ kéo nhau đi coi rất đông. Té ra chuyện thật không phải chuyện bỡn. Cuộc tốt lành ấy đã cử hành trong hôm mới đây, chưa rõ họ nhà gái là những ông nào, bà nào, người ta chỉ nói họ nhà trai toàn là hương chức của làng Phong Phú. Bữa đó, họ đã khăn đen áo dài, đi đón dâu về cho thần rồi. Cô dâu là một thiếu nữ mới 17 tuổi, con gái một ông đương chức cũng ở làng ấy. Trong đám cưới của người trần, thì cuộc đuốc hoa phòng động nhất định phải về ban đêm. Nhưng mà trong đám cưới này, thì cô dâu vừa vào tới đình, liền bị ngã ngửa ra đó và nằm bất tỉnh nhân sự, như đương trải qua một cuộc ái ân đằm thắm vậy. Sao thế nhỉ? Hay các đức Thượng đẳng ấy đã dám lấy ngày làm đêm? Có lẽ ngài vì không vợ đã lâu, trong mình đã rạo rực quá, không thể nhịn được đến tối, mà phải nhập phòng ở trước công chúng đó chăng! Thần thì người ta phải chịu, chứ nếu người trần mà làm cái việc bất nhã như vậy, ít ra cũng bị đội xếp giải bắt về bót. Bởi vì ông thần đã làm việc quá ư sỗ sã như vậy, cho nên trong Nam nhiều người không tin đám đó là đám cưới thần. Họ bảo đó là những kẻ xảo quáệt bày vẽ ra để lợi dụng lòng mê tín của bọn ngu dại mà làm tiền. Cái đó kể cũng có lý. Trong cái buổi đời tai quái, người ta có thể giả làm nhà báo, giả làm tín đồ của đạo Phật để xoay tiền của thiên hạ, thì cũng có kẻ giả vờ cưới vợ cho thần để kiếm tiền của kẻ ngu khờ. Nhưng theo ý tôi, sự ức đoán ấy chưa chắc đã đúng. Giả sử trong chỗ không thể trông thấy, sờ thấy, mà không có gì thì thôi, chứ nếu đã có thần thánh, thì cái sự thần đi cưới vợ, không thể bảo là không có. Cung oán ngâm khúc đã có một câu chí lý mà rằng: Có âm dương có vợ chồng Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê Coi đó thì biết trời đất còn có vợ có chồng, huống chi là thần. Thần thánh tuy ở cao xa, nhưng đến tính tình chẳng qua cũng như bọn mình. Các ngài chắc đã từng thấy những ông đã hai, ba vợ kè kè, thế mà nhiều lúc vẫn giải trí bằng cô đào hay bằng me Tây, gái xăm. Nữa là thần thánh quanh năm suốt đời, vò võ nằm một mình trong cái gian đền hiu quạnh thì chịu thế nào! Trâu khát nước làm sao thì bò khát nước làm vậy. Đó là một sự tất nhiên. Điều hơi lạ là các đám cưới gả người trần, phần nhiều phải qua mối lái, phải có lời cho phép của cha mẹ, ông bà, thì mới là đám đứng đắn. Đằng này, ông thần Phong Phú đi lấy bà ấy, chẳng rõ có ai làm mối hay không, chứ lời cha mẹ, ông bà thì quyết không có. Đó là một chỗ theo luận lý cũ, có thể dị nghị. Nhưng theo luận lý mới thì không hề chi, trai gái của nước Việt Nam có thể tự do luyến ái chứ sao! Thế thì chủ nghĩa "tự do luyến ái" đã lan đến thế giới thần thánh rồi vậy. Chúng ta cũng mừng cho anh chị em quỉ thần đã tiến được một bước khá dài.