watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
19:01:3128/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Dài > Ngô Tất Tố > Tạp Văn - Trang 5
Chỉ mục bài viết
Tạp Văn
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tất cả các trang
Trang 5 trong tổng số 6

THẾ THÌ NHÀ BÁO LÀ ÔNG TRỜI


Các báo Trung, Bắc chưa được có hân hạnh ấy. Đây là sự  vinh dự của các bạn đồng nghiệp trong Nam! Nhưng không phải là  chuyện tự do báo chí. Nó là dây dưa của nạn cướp lúa. Trong một  bài trước, tôi đã nói qua, nạn ấy, độ nọ, đã làm cho nhiều nơi ở  miền Hậu Giang hầu như lộn xộn trật tự. Cứ lời ông Nguyễn Văn  Sâm đã nói trong báo Tự do, thì đầu đuôi trong mấy hôm trời, hai  tỉnh Bắc Liêu, Rạch Giá xảy ra mười đám cướp lúa cả thảy. Nói là  cướp, chẳng qua tôi muốn hà tiện cho cái ngòi bút. Kỳ thực bấy  nhiêu đám đó đều chưa đủ điều kiện được gọi là những vụ cướp.  Bởi vì bao nhiêu ngàn người dự các vụ ấy đều không có một tấc khí  giới. Hơn nữa, khi đến những nhà chủ điền, nhiều người còn trao  cho họ những bức văn tự vay nợ, có ký tên tuổi rõ ràng. Đáng lẽ  phải gọi là vay. Nhưng vì trong khi hỏi vay, người ta không đợi chủ nợ ưng ý, cứ kéo ùa vào mà xúc lấy lúa, vay đâu có lối vay thế!  Thà bảo là cướp còn có nghĩa hơn. Dù vay dù cướp cũng vậy, sự  đặt tên ấy không quan hệ gì. Cái quan hệ là nguyên nhân nạn ấy ở  đâu mà ra? Quan thống đốc Nam Kỳ bảo là có kẻ xúi giục. Ông  Nguyễn Văn Sâm của báo Tự do bảo tại cái máy chính trị vụng về,  không biết kiếm công tìm việc cho dân làm ăn trong khi túng thiếu. Bạn đồng nghiệp Lục tỉnh tân văn chừng muốn được lòng  mấy ông xét tá đổ tội luôn cho đạo nghị định cấm việc cho vay  nặng lãi. Còn tôi? Lúc đầu, tôi vẫn tưởng rằng:
Nạn đó, một phần là tại mấy ông chủ ruộng. Giả sử, ngày  thường các ông ấy không bòn rút bọn kia một cách thái thậm, thì  dù có gặp một năm mất mùa may ra họ cũng không đến nỗi đói.  Hay là giả sử trong lúc họ trót đói rồi, các ông ấy chịu bố thí bớt  cái thừa thãi của mình để cứu những bộ dạ dày trống rỗng của họ  thì đâu đến nỗi họ phải rủ nhau đi cướp? Nhưng không thế! Những năm được mùa, người ta đã nạo xương họ, hút tủy họ chỉ  để họ đủ sống một đời ngắn ngủi, rồi khi đói khổ, người ta khư khư  khóa chặt "lẫm lúa" không chịu vung ra một hạt.
Nào ai cãi lại câu đó để tôi xin mời hai ông Hứa Quang Chiểu  và Trương Quang Thành làm chứng. Bằng một thứ giấy bạc đặc  biệt, ông Chiểu đã cho tá điền vay nợ với kiểu "một vốn tám chín  mười lời". Và trước cái cảnh nheo nhóc của hàng nghìn dân đói,  ông Thành vẫn chất lẫm một vạn ba nghìn giạ lúa để cho mọt ăn.  Những chuyện ấy trong tờ báo này đều có nói đến.

Thế là người ta chế tạo ra lũ dân đói để bắt họ phải đến nhà  mình mà cướp chứ gì? ấy là khi trước thì tôi nghĩ vậy. Song, sợ  mất lòng mấy ông điền chủ, cho nên hôm nọ tôi phải kết án cho  con ma đói. Nhưng xét cho kỹ buộc tội nó oan nó, chính nó cũng là  khổ chủ, không phải thủ phạm. Vì thế, tôi đương muốn trút tội lỗi  vào đầu ông trời. Bởi tại ông ấy gây ra nạn lụt nạn "tim", lấy hết  lúa gạo của lũ dân cày, cho nên mới đẻ ra lũ ma đói chuyên xui  đàn bà con nít kéo đi cướp lúa. Quả báo! Tôi mới nghĩ vậy mà chưa  kịp nói, thì, như muốn trả thù cho trời, mấy ông điền chủ trong  Nam đã quay trở lại mà đổ tội luôn cho các bạn đồng nghiệp của  tôi trong ấy. "Cái nạn dân đói cướp lúa, chỉ tại các báo quốc âm  gây ra", khi quan thống đốc xuống miền Hậu Giang, các ông ấy nói  ở trước mặt ngài như thế, và các ông ấy còn yêu cầu chính phủ  khôi phục lại việc kiểm duáệt báo chí là khác. Cố nhiên các báo  trong ấy không có báo nào xui dân đi cướp lúa, cũng không báo nào xui dân "đói đi". Thế thì cớ sao lại bị người ta gắp lửa mà bỏ  bàn tay? Hay là các bạn đồng nghiệp trong ấy đã có bí thuật gây  ra nạn lụt, nạn "tim"? Nếu thế thì các báo quốc âm cũng có uá  quyền thiêng liêng như ông trời rồi còn gì! Nhưng không nên trách  mấy ông chủ ruộng, chỉ trách các báo trong ấy. Làm sao các bạn đã  lĩnh cái trách nhiệm hướng đạo quốc dân, mà còn để cho khu vực  của mình vẫn có những ông điền chủ ngây thơ đến vậy? Tôi muốn  yêu cầu các bạn từ đây trở đi, mỗi bạn nên mở thêm một mục  "điền chủ giáo dục" dành riêng cho mấy ông ấy.

TỘI TRẠNG CÔ VŨ THỊ CÚC


Hỡi ôi thương thay, ông huyện Trường Bắc Giang đã theo ông huyện Toán Yên Bái mà há sinh tính mệnh cho nghề đào mỏ  mất rồi. Thế là trong một năm trời, cái nghề tai hại đã giết chết  của dân Bắc Kỳ hai ông "phụ mẫu". Thật là "sinh ư nghệ, tử ư  nghệ", tôi xin trịnh trọng có lời chia buồn cùng các tang quyến. Chỉ  tiếc nghề đào mỏ này không giống nghề đào khác, người ta không  thể vin luật lao động mà đòi tiền tuất của chủ. Tội nghiệp! Với ông  huyện Trường cũng như ông huyện Toán tôi phải kính trọng vong  linh những người đã quá cố (dù là quá cố về nạn đào mỏ cũng không dám động đến). Và nếu có cần, tôi cũng kính trọng cả cái  nghề nghiệp của các ông ấy luôn thể. Bởi vì nhân sinh bách nghệ,  ai thích nghề gì làm nghề ấy, miễn là nhất nghệ tinh, thì nhất  thân vinh. Hai ông ấy đã làm tri huyện lại kiêm cả nghề đào mỏ  chẳng qua cũng muốn vinh thân như mọi người vậy. Chẳng may  gặp phải cái "mỏ dữ", các ngài đã lỗ đến thân thể, thì nó chỉ thiệt  cho đời các ngài chứ có hại gì đến ai mà nói. Không nói ông huyện  Trường. Nhưng không thể nể cô Vũ Thị Cúc, cái cô hàng gạo đã có  mỏ để ông Trường đào và đã vừa đâm vừa chém ông Trường đến  34 nhát. Người ta đồn rằng: cô ấy có biết võ nghệ. Trong lúc mở  cửa hàng gạo, cô ấy tuy lượt thượt với bộ quần áo tân thời, nhưng  có lần đã một mình đẩy một chiếc xe gạo từ Hà Đông lên Hà Nội  không quản ngại. Có thật vậy không? Nếu quả như vậy thì cô Cúc cũng là một hạng đàn ông trong đám đàn bà. Vả lại, trong khi sắp  giết ông Trường, mà gặp ông ấy đương ngủ, cô ta còn đánh thức  dậy để bảo cho biết sự hành động của mình, không thèm giết vụng,  giết trộm.
Như vậy, cô ấy vẫn không tránh khỏi tội lỗi. Tôi không nói  cái tội giết người. Là vì việc đó phần của Tòa án. Tha bổng hay  làm án cô ấy do ở quyền các quan tòa, phúc đức nhà tôi được bao  mà dám buộc tội cho người? Tôi chỉ ghép cô ấy vào cái tội dốt,  không đọc Cung oán ngâm khúc. Các ngài hẳn không ai mà không  nhớ ở trong Cung oán ngâm khúc, tác giả đã nói nhiều câu chí lý,  đáng làm gương cho các cô gái kén chồng. Thí dụ:
Mỗi phú quí dử làng xa mã, Bả vinh hoa lừa gã công khanh  Giấc Nam kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay  không Hay là Miếng chung đỉnh phong lưu nhưng lợm Mùi hoắc lê  thanh đạm mà ngon Cùng nhau một giấc hành môn Lau nhau ríu  rít có con cũng tình Giả sử cô Cúc mà đọc những câu đó, tất nhiên  không phải mang tội sát nhân. Bởi không chịu đọc những bài học  đó, nên cô ấy mới say mồi phú quí, thèm bả vinh hoa, mà đem mỏ  của mình dâng cho ông Trường, để hòng mua lấy chức bà huyện.  Rồi vì thích làm bà huyện, cô ấy mới bị ông Trường hắt hủi trong  khi quặng mỏ đã hết. Lâm đến nước ấy, cô gái táo bạo kia nếu  không làm kẻ giết người, thì chỉ còn cách tự tử, chứ biết ăn làm  sao nói làm sao cho khỏi nhục với cha mẹ chị em! Thôi thế cũng  xong! Từ nay trở đi xã hội An Nam có lẽ sẽ ít người nghiệm làm bà  và cũng đỡ sản xuất những ông kỹ sư đào mỏ.

TỘI TẠI BÀ CHÚA HÀNG TRỐNG


Tôi muốn nói thêm về vụ án mạng ông Nguyễn Xuân Trường. Nhưng chưa biết công việc xét xử của các quan tòa ra sao.  Nhưng mà những người thân với ông Trường, chắc ai cũng muốn  trị tội cô Cúc thật nặng, trừ ra ông Nguyễn Duá Long. Cố nhiên, đối với kẻ thù, nhất là kẻ thù đã đâm và chém người thân của  mình, người ta phải có ý ấy. Nhưng theo ý tôi, cô Cúc dù phạm tội  đi nữa, cũng chỉ là tội tòng phạm. Còn kẻ thủ phạm phải là bà  chúa Hàng Trống. Bà con Hà thành thì không ai lạ cái đền Hàng  Trống. Nhưng nếu hỏi vị thần đền ấy là ai, có lẽ cũng ít người biết.  Ấy là một bà "cô đào" đã thuê ông Nguyễn Công Trứ quẩy đàn bà  và bị ông ấy cưỡng bách làm vợ mấy phút ở nơi đồng vắng đêm  khuya, rồi khi việc cũ đã quên, bà ấy còn làm cho ông cụ kia phải  nhớ tình xưa bằng một câu hát:
Giang sơn một gánh giữa đồng Thuyền quyên "ứ hự", anh  hùng nhớ quên? Từ địa vị nàng hầu ông Nguyễn Công Trứ lên đến  địa vị bà thần của phố Hàng Trống, không biết bà ấy còn phải trải  qua những thế nào nữa. Chỉ biết từ lúc làm thần đến nay bà ta ra  bộ thiêng lắm. Chẳng thế mà ở cửa đền, ngày nào như ngày ấy,  người vái cứ đông nghìn nghịt, đủ cả Tây, Tàu, An Nam, chỉ thiếu  có người Nhật Bản. Họ vái một cách tàn nhẫn, vái lia vái lịa, vái  hủy vái hoài, vái từ dãy hè bên kia chõ sang dãy hè bên này,  không nể những người đi đường. Không thiêng liêng sao lại được  thế? Vì thiêng, cho nên thỉnh thoảng lại có những người đem đầu  đến đó mà thề.
Cứ lời cô Cúc đã khai với quan dự thẩm Bắc Giang, thì lúc cô  ấy với ông huyện Trường nhân tình với nhau, hai người đã có đem  nhau đến thề ở đền Hàng Trống. Ông Trường thề rằng:
"Một khi đã công thành danh toại sẽ cùng Cúc kết tóc xe tơ..." Đó là theo tin của báo Đông Pháp. Tuy rằng báo ấy chỉ thuật  có thế, nhưng mà người ta có thể chắc rằng ở dưới câu đó còn một  câu độc địa bằng chữ "nếu"... Nếu như không thế thì sao thành ra  lời thề và sao cô Cúc lại tin? Trong thế gian này, bao nhiêu cuộc  thề đều có linh nghiệm cả. Ai không tin hãy giở Truyện Kiều ra  mà coi:
Kim Trọng khi gặp Thúy Kiều thì:
Tiên thề cũng thảo một chương, Tóc mây một món dao vàng  chia đôi Vầng trăng vằng vặc giữa trời, Đinh ninh hai miệng một  lời song song.
Mã Sinh khi mua Thúy Kiều thì: Cạn lời khách mới thưa rằng Bước chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao Mai sau dù có thế  nào, Kìa gươm nhật nguyệt, nọ dao quỉ thần.
Tú Bà khi mua Thúy Kiều thì: Mụ rằng con hãy thong dong  Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi? Mai sau ở chẳng như lời, Trên  đầu có bóng mặt trời sáng soi.
Bạc Hạnh khi lừa Thúy Kiều thì:
Bạc Sinh quỳ xuống với nàng Quá lời nguyện hết thành hoàng thổ công. Sở Khanh lúc dắt Thúy Kiều đi trốn, cũng có thề,  cho nên nàng mới nói với Mã Kiều là chàng đã "thề thốt nặng lời,  có đâu mà lại ra người hiểm sâu". Bấy nhiêu người thề với cô Kiều,  trừ ông tri huyện Kim Trọng đã được vuông tròn, vì đã trước sau  tha thiết với nàng còn các người khác không giữ lời thề, đều phải  máu rơi thịt nát tất cả. Người ta vẫn bảo việc đó do ở Từ Hải làm  ra, kỳ thực đâu có phải vậy. Sở dĩ bọn đó mà phải mất đầu, chỉ tại  những vị trời đất, quỷ thần đã bị mời làm giám thệ, cố sức làm  việc phận sự, xui khiến đại vương họ Từ báo oán cho Thúy Kiều  đó. Bà chúa Hàng Trống cũng bị ông Trường, cô Cúc mời làm giám  thệ, và ít ra cũng có ăn lễ của cô ấy nữa tất nhiên bà ấy cũng phải  làm hết phận sự khi thấy ông Trường có ý lỗi thề. Nếu như bà ta  mà bỏ phận sự không làm, thì sau này còn ai đến đó mà lễ và vái.  Vậy thì cái vụ án mạng ông Trường, chẳng qua bởi tại bà chúa  Hàng Trống xui giục cô Cúc phải đối đãi với ông huyện Trường  bằng cách "thề sao thì lại cứ sao gia hình", không phải hoàn toàn  là tại cô ấy. Vì thế nên coi bà ấy là bậc thủ phạm trong vụ này.

VIỆC TUẦN PHÒNG Ở CÁC LÀNG


Hương thôn có tuần tráng cũng như ở thành thị có cảnh sát,  để ngày đêm canh giữ trong làng và ngoài đồng, ngăn ngừa trộm  cướp, cấp cứu thủy hỏa cùng thi hành những mệnh lệnh của dân.  Người đi tuần đã vì công an, công ích mà xuất lực, thì phận sự của  người cùng làm đều vui lòng báo lại bằng lệ lấy lúa sương, mỗi sào  vài lượm, hoa màu ngô khoai thì mỗi sào mấy xu, trong làng thì  cho thu tiền nóc nhà chia ra làm ba hạng, nhà ngói nhà gỗ và nhà tre, thuế trâu bò và tiền cheo của con gái khi đi lấy chồng. Cổ lệ,  thì mỗi làng cắt mười người đàn em chia nhau canh gác trong năm  trống canh, hai người trương tuần thì hiệp lực với phó lý để trông  nom đốc thúc. Những món lợi hàng năm mà dân cho chẳng qua chỉ  là món phụ cấp, chứ không phải lương, vì món tiền ấy chẳng được  bao nhiêu. Về sau, những nhà giàu có, đến tuổi đóng góp với làng  không chịu gánh vác việc khó nhọc ấy, nhà nghèo thì trông vào số  lợi ấy không đủ nuôi thân cũng sinh lòng chán nản, người ta mới  nghĩ cách mua nhiêu mua xã để cho hạng bạch đinh trọc phú bỏ  của ra cho khỏi phải chịu việc khó nhọc. Thế là từ đấy, những việc  gian lao nguy hiểm ấy trút cả cho bọn cùng đinh. Bắt những người  nghèo khó, nhà tranh vách đất, ăn đói mặc rét, phải canh giữ cho  những người giàu có sung sướng. Bọn đó cố nhiên là ai cũng có  quyền khinh rẻ thì những món lợi mà dân để cho lại bị bọn tổng lý,  nha lại, lính lệ, lính tuần lấy thế là người được quyền kiểm soát,  đốc thúc rồi cũng tìm cách ăn bớt, ăn chặn mất cả. Ngoài việc  phận sự canh gác, lại còn phải hầu hạ các ông tổng lý, nào là theo  hầu ông lý ông bá trong các đình đám, nào là phục dịch trong nhà  các ông ấy khi có giỗ chạp, hoặc sai bảo việc này việc khác của  những ông có quyền đánh mắng. Quyền lợi đã không có, công việc  lại khó nhọc, thế mà trong việc canh giữ nguy hiểm thì khí giới  không có, luyện tập cũng không thì địch lại thế nào được những  quân trộm cướp hung bạo.

Một khi trong làng có trộm cướp xảy ra, nếu không đút lót  cho tổng lý, van lạy sự chủ thì sẽ bị người ta khép vào tội không  ứng cứu mà bắt đền, bắt lỗi nữa. Xưa nay việc trộm cướp xảy ra  trong làng phần nhiều là do bọn du thủ du thực kết nạp với bọn ở  ngoài mà đem việc trộm cướp về làng. Việc xong rồi cũng có người  biết là tự thằng nọ thằng kia mà không dám nói rõ trước mặt nhà  chuyên trách, vì việc thám báo đã chẳng lợi gì, mà có khi mắc tội  man báo, có khi bị chúng nó thù oán khó lòng làm ăn yên ổn được.  Bọn tổng lý nhân đấy tìm cách ăn thông với cướp, tìm cách che chở  bênh vực, dọa nạt sự chủ, tuần phiên, rồi lập tờ trình qua quýt cho  xong chuyện, ngoài việc dối trá trong việc khai trình, còn bắt sự  chủ và tuần phiên đút lót với quan nữa. Việc phòng thủ thôn quê  hiện nay có mấy điều khó khăn là cấp lương cho tuần phiên thì  dân đinh, điền họ đóng góp nặng nề lắm rồi, không chắc có thể  nuôi nổi lương tuần, mà tuần có lương, tổng lý không có lương thì  trước hãy xảy ra một cuộc đấu giá cho nha lại tổng lý, rồi sau này  anh nào được còn phải cung ứng cho khỏi bị họ hành hạ để bóp nặn. Việc luyện tập thì không có người huấn luyện, mà cũng chưa  biết huấn luyện theo phương pháp võ nghệ của ta, hay theo lề lối  của nhà binh. Nếu tập theo võ nghệ của ta thì môn ấy đã thất  truyền từ lâu, và có cũng không thể đem giáo mác gậy gộc ra đối  địch với quân cường đạo có súng ống đạn dược.
Nếu tập theo cách nhà binh thì hẳn là chính phủ không bao  giờ dám cấp súng cho tuần. Việc dò xét trộm cướp cần phải có một  cơ quan thám thính, thì hiện nay sở liêm phóng bắt buộc sự chủ  phải nộp tiền lệ phí rất nặng, rồi mới ra lệnh truy tầm là một sự  rất khó khăn, mà quan bản hạt thì trăm việc đổ vào đầu, không  sao làm xiết được, nếu trong hạt mà trộm cướp nổi lên lại là một  dịp kiếm tốt, một việc không quan thiết tới cuộc thăng thưởng của  mình như việc bán rượu cho chạy, thu thuế cho róc, thì tội gì vất  vả khó nhọc, mà có khi lại còn nguy hiểm tới thân...

ĐẺ CHẬM MẤT VÀI NGHÌN NĂM


Theo tin của báo Tự do, ở tỉnh Tân An mới có một cuộc tôn  vương. Đức tân quân hãy còn đương tuổi ấu xung, ngài lên ngôi  sau khi ra đời độ vài ba ngày, có lẽ còn chưa khai sinh, chưa kịp  đặt tên, đặt hiệu. Cứ như bài tường thuật của báo Tự do, thì ngài  chỉ là cháu ngoại một người hương chức, gọi là Hương X. Không  phải người của cành vàng lá ngọc nào cả. Sở dĩ ngài được lên ngôi  báu hoàn toàn nhờ ở mệnh trời. Người ta nói rằng: bà thân của  ngài, năm nay tuổi mới đến thì. Người còn là hạng gái tân, chưa có  kết duyên với ai. Thế mà từ mấy tháng trước, tự nhiên thân thế  của người cứ phinh phính lớn giữa lớn ra, y như một người có  chửa. Ông Hương, bà Hương cho là chuyện lạ, đã cố gạn hỏi căn  do.
Người nói: chính người chưa từng gần với đàn ông. Chỉ vì  một hôm nằm mơ được ăn một quả đào tiên rồi sinh ra thế. Nếu là  ngày xưa tất nhiên người không thể ở nhà được nữa. Vì nếu ở nhà sẽ bị làng bắt mất trâu. Nhưng ở ngày nay thì không ai động đến  lông chân, người vẫn tự do như thường. Thấm thoát hết hạn 9 tháng 10 ngày, quả đào tiên ở trong bụng người cố nhiên phải tìm  đường ra. Thì ra đó là một đứa con trai, cũng như vô số cái bào  thai khác. Chắc là chung quanh đứa con trai ấy cũng chẳng có gì  lạ đâu.
Nhưng vì ông Hương bà Hương hoặc giả có đọc truyện Phấn  trang lâu, cho nên mới nói thêm rằng: Thằng con trai ấy lúc lọt  lòng mẹ, tay phải thấy có hai chữ "sơn hà" tay trái thì có hai chữ  "xã tắc". Sơn hà xã tắc nằm ở trong tay, chẳng phải là vua thì gì?  Thế là dân kéo đến bệ kiến rất đông. Họ đặt đứa con trai ấy lên  bàn thờ, rồi họ thi lễ bái và gọi là vua. Việc đó đến tai quan quận.  Trong lúc lễ đang cử hành một cách linh đình thì có lính quận đến  bắt. Dân làng, ông Hương, bà Hương và đức Thái mẫu đều chạy  tán loạn, chỉ còn ấu quân vẫn nằm nghiễm nhiên trên bàn thờ.  Thế là tân quân ấy hóa ra ông Phế đế. Than ôi, quốc tộ thật là  ngắn ngủi! Cái đó chỉ vì ngài đẻ khí chậm. Giả sử đẻ sớm vài  nghìn năm nữa, nếu không làm vua quyết là ngài cũng làm chúa.  Các vị vua chúa ngày xưa cũng thường ra đời một cách đột ngột  như ngài. Bà mẹ ông Tiết chỉ vì nuốt trứng chim chả thành ra có  mang, rồi mới sinh ra ông Tiết. Bà mẹ ông Tắc thì vì ướm chân vào  cái vết chân một người to lớn, bà liền thụ thai rồi sinh ra ông Tắc.  Đức thánh mẫu của đạo Thiên chúa tuy có chồng nhưng vẫn là gái  đồng trinh, chỉ vì mơ thấy thiên sứ hiện vào mình mà cũng có thai  và cũng đẻ ra đức chúa Giêsu. Những chuyện ấy đều có chép ở  Kinh thi và kinh thánh của đạo Thiên chúa, chắc không sai với sự  thực. Bởi sự giáng sinh khác thường cho nên đức chúa Giêsu mới  trở nên vị chúa cứu thế, ông Tiết mới làm ông Tổ nhà Chu, khiến  cho muôn đời sùng bái. Cuộc ra đời của vị ấu quân Tân An có khác  gì thế.
Nếu không bị ông quận Tân An phá ngang, thì chưa biết  chừng sau này có khi ngài làm vua làm chúa chứ kém gì! Bởi thế  có người đã trách ông quận Tân An không biết lịch sự, dám làm  một việc bạo nghịch. Trách là phải! Có điều trong lúc phong trào  phụ nữ giải phóng đương thịnh hành, nếu những việc ấy mà không bị ngăn cản, e rằng trong nước sẽ không đủ nhà bảo anh để  chứa những đấng dị nhân.

MỘT NGƯỜI OAN,

MỘT NGƯỜI KHÔNG OAN


Tôi muốn nói vụ án Quốc gia tuần báo bị truy tố vì một bức  hí họa đăng ở số 4. Bạn đọc chắc đã biết rõ, vụ ấy có ba người bị  cáo, chủ bút là ông Trương Tửu, họa sĩ là ông Nguyễn Đỗ C... và  quản lý là mụ Ngô Thị Thoa, vợ Lê Ngọc Thiều tức Bảo Ngọc, tức  Bình Hưng tức chủ một hàng thuốc lậu. Người ở các tỉnh còn chưa  biết lắm, chứ ở Hà Nội không ai lạ gì chị họ Lê này. Ngoài Lê Ngọc  Thiều còn Lê Huy Phách anh ruột hắn và Lê Ngọc Vụ em ruột hắn  cũng đều làm nghề bán thuốc hạ bộ. Đã mấy năm nay cả chi đều  trông vào số dân lậu mà ăn. Không biết từ trước đến giờ, đã có  những ai uống thuốc của nhà ấy mà được khỏi bệnh. Người ta chỉ  biết về đường học vấn, Thiều cũng như Phách mà Phách thì cũng  như Vụ, cả ba đều xứng đáng treo làm câu đối hai câu "Hán tự  đếch biết Hán, Tây tự đếch biết Tây" của ông Tú Xương. Nhưng  quốc ngữ thì không mít đặc. Họ cũng đọc được chỉ có viết thì không  thông. Ấy vậy mà trong bọn đó có kẻ đã dám rao rằng chính mình  đang mở một lớp hàm thụ dạy về nghề thuốc kia đấy. Xã hội Việt  Nam chưa hết người khờ dại. Thuốc của họ có người mua, tất  nhiên việc dạy thuốc của họ cũng có người học. Giả sử họ yên phận  sống về nghề lậu thì có ai thèm nói đến. Cái tức cười là mấy tháng  trước đây, Lê Ngọc Thiều lại táo bạo vác cái bằng sơ học yếu lược  để theo vợ vào làng báo, mới khổ cho người ta chứ. Hẳn là hắn  cũng tưởng rằng: nhà đã có đất phát về nghề bán thuốc lậu, thì  cũng có đất phát về nghề buôn báo chứ gì?
Nhưng, hình như mả tổ của hắn chỉ có ống thụt, không có  quản bút. Bởi thế, tờ báo của hắn ra 16 số thì bị đình bản và bị tòa  án truy tố. Sau mấy tháng điều tra, trong phiên mới đây, tòa đã xử  xong việc ấy. Ngô Thị Thoa phải phạt trăm quan, ông Trương Tửu  thì bị gấp hai, họa sĩ Nguyễn Đỗ C... thì được trắng án. Vụ này lúc  đầu một vài tờ báo trong Nam đã có nói đến, và cho Thị Thoa cũng  oan như hai người kia.
Chừng như các bạn tưởng rằng vợ chồng thị ấy là người quý  lắm, có thể là bạn đồng nghiệp với mình, nên cố bênh vực cho họ.  Tôi không nhận họ là bạn đồng nghiệp, nhưng tôi cũng cho Thị  Thoa bị án là oan. Trên kia tôi phải nói qua về nghề nghiệp của  anh em vợ chồng nhà thị cốt để minh oan cho thị. Thì một người  đàn bà trong một nhà chuyên bán thuốc lậu như thế, còn biết báo  là cái gì. Thế mà người ấy lại được can án về việc báo, há chẳng  oan sao? Nhưng ông Trương Tửu thì không oan một chút nào. Ai  bảo ông ấy "thí nghiệm ngòi bút" với hạng người ấy? Trời cho mình  cái bút, cũng nên trân trọng mới phải. Lẽ nào cái chỗ chỉ chứa thuốc lậu mà cũng chọc nó vào được! Huống chi ông ấy không những chỉ chọc vào đó mà thôi, lại còn đem những tư tưởng chính  trị quảng cáo cho nhà thuốc lậu, để vì nhà ấy mà mua tín nhiệm  của quốc dân nữa chứ! Đừng tưởng thế là không hại cho ai.
Nhờ sự quảng cáo ấy của ông Trương Tửu mà họ mới dám  rao lên báo rằng: Quốc gia tuần báo đình bản là cần sửa soạn để ra  hàng ngày. Rồi họ in luôn 10 vạn biên lai mua báo Quốc gia giống  hệt như vé sổ số Đông Dương và gửi bán khắp cả ba kỳ. Chính Lê  Ngọc Vụ đã đem 43 tập vé giả ấy vào bán ở Sài Gòn rồi. Coi đó đủ  biết số người bị lừa về kiểu "mập mờ đánh lận con đen" của anh  em nhà hắn không phải là ít. Ông Tửu tuy không dính đến việc ấy,  nhưng cũng không thể chối được trách nhiệm. Nếu không có ngòi  bút của ông ấy thí nghiệm một cuộc làm báo với họ thì họ đâu biết  ngón lường gạt ấy?
Vả chăng, ông Tửu dù không phải chịu trách nhiệm về việc  giả mạo số vé đi nữa, thì cũng phải chịu trách nhiệm về sự lường  gạt của báo Quốc gia. Phải! Báo Quốc gia rao với độc giả là sẽ xuất  bản hàng ngày. Vậy mà bây giờ họ lại dùng nó để in những tập  tiểu thuyết mót lại của Tàu, khuôn khổ vừa vặn bằng cái bàn tay,  như thế không là lường gạt, thì thế nào nữa mới là lường gạt ? Cố  nhiên ông Trưởng Tửu cũng không can liên gì đến việc này, nhưng  chính ông ấy là người đã lôi bọn đó vào làng báo. Bây giờ bọn đó  vấy bẩn làng báo như vậy, ông ấy không chịu trách nhiệm thì để ai chịu? Thế thì cái án hai trăm quan tiền mà tòa trừng trị mới phạt  ông ấy còn là nhẹ lắm. Đáng lẽ còn phải mấy năm quản thúc ngòi  bút, để cho ông ấy khỏi thí nghiệm nó một cách bừa bãi.

BÀ GIÀ ĐÃ TÁM MƯƠI TƯ,

NGỒI TRONG CỬA SỔ ĐƯA THƯ KÉN CHỒNG


Tôi muốn nói về cụ đồng nghiệp Trung Bắc Tân Văn ở phố  Đường Thành. Phải gọi bằng cụ, là vì đối với làng báo Đông Dương, cụ chỉ kém ngài Lục tỉnh Tân Văn vài tuổi mà đối với làng  báo Bắc Kỳ thì cụ là bậc thọ khảo hơn hết. Tuy vậy cụ mới sống có  26 năm, nhưng ở cái xứ báo chí luôn luôn chết non chết yểu, bất  đắc kỳ tử về chính trị hay về tiền tài thì bấy nhiêu tuổi đã là nhiều  lắm. Nếu ta tạm tính một tuổi báo chí bằng hai tuổi người, thì ít  ra cụ cũng có cháu tứ đại. Hình như cũng nhận mình là bậc già lão  trong xã hội báo giới, cho nên, hàng ngày tuy vẫn nói bàn việc nọ  việc kia, mà lúc nào cụ cũng ra thái độ mỗi ngày mỗi suy. Suy như  nằm kề miệng lỗ. Thấy cái giọng nói rời rạc uể oải của cụ, mấy kẻ  hậu tiến đương muốn khuyên cụ xây sẵn một ngôi sinh phần, để  phòng bị cho cái tuổi "ngọn đèn trước gió" thì thình lình thấy cụ  rao lớn lên rằng:
"Xuân Trung Bắc Vui vẻ trẻ trung... Nhớ đón xem..." Té ra cụ  tuy tuổi tác, nhưng cũng thích làm đỏm như bọn Tiểu thuyết thứ  năm bây giờ và Phụ nữ tuần báo độ nọ. si! "Bà già đã tám mươi tư,  ngồi bên cửa sổ đưa thư kén chồng", câu ca dao ấy đúng với cái cử  chỉ này của cụ. Tuy vậy, chúng ta cũng nên nhớ rằng: sự làm đỏm  ấy không phải tự cụ mà ra. Cái người làm đỏm cho cụ chính là ông  Nguyễn Văn Luận, thừa trọng tôn của cụ. Bởi ông ấy còn thích vui  vẻ, trẻ trung, nên mới bắt cụ cũng phải vui vẻ trẻ trung như ý  muốn của mình. Nhưng mà ông Luận, kể tuổi cũng không phải là  hạng trai tơ. Ở làng báo ông ấy đã lên bậc "bô", anh em báo giới đã  tặng cho ông cái tên "bô" Luận. Ngó bộ trán hói gần đỉnh đầu, người ta có thể đoán rằng tý nữa bô sẽ sáu chục tuổi. Thế mà bô  còn thích vui vẻ, trẻ trung: thật là nhân lão tâm bất lão. Nói vậy  thì nói, không phải tôi dám chê bai gì bô. Cố nhiên trên đời ai cũng  kính trọng người có tuổi. Nhưng tự các bậc có tuổi, phần nhiều lại  ghét cái già, chỉ muốn người ta coi mình là hạng còn tơ. Các bạn  không tin hãy coi ở các đường phố Hà Nội thì biết. Trên các đường  phố Hà Nội, nhất là phố Paul Bert biết bao nhiêu bà mắt đã lõm, má đã hóp, có khi mái tóc đã bạc gần nửa. Nhưng vẫn gia công tô  son đánh phấn, kẻ lông mày, nhuộm má đào và vẽ môi trái tim, để  hòng kéo cái xuân xanh ở lại. Với những bà ấy, nếu kẻ nào vô phúc  mà chào là cụ, tuy có xứng đáng, nhưng không khéo sẽ bị nguyền  rủa một hồi. Bô Luận có lẽ cũng cùng một tâm lý với mấy bà ấy.  Bô không thích già, không muốn cho cụ Trung Bắc nhà mình mang tiếng già, nên mới cố bắt cụ phải vui vẻ trẻ trung trong dịp  năm mới. Tiếc thay bô là đàn ông.
Giả sử trời cho là đàn bà, quyết là phen này bô phải cạo răng  đen, cạo lông mày, để lượt thượt với bộ quần áo tân thời, dù mà  hàm răng của bô sắp rụng. Chúc bô vui vẻ trẻ trung. Và khuyên  anh em thợ in ở nhà in Trung Bắc, tết này đừng mừng tuổi bô. Vì  mừng tuổi bô tức là rủa bô.

HẾT NĂM


Còn một ngày và nửa đêm nữa thì đủ ba trăm sáu chục ngày  của "ông ba mươi". Nếu quan thế của nhà trời đúng với sự tin tưởng của người phương Đông, thì khi số báo này đến tay các bạn,  có lẽ cụ lớn Đương niên hành khiển của năm Mậu Dần đương làm  bàn giao với cụ lớn Đương niên hành khiển của năm Kỷ Mão, để  nghỉ một hạn là mươi hai năm. Năm cũ đã hết. Theo lệ, nhà báo  cũng như nhà buôn, lúc giao thời này phải cộng hết số công việc  trong mười hai tháng vừa qua, để báo cáo. Và luôn thể để quảng  cáo với độc giả. Nhiều bạn đồng nghiệp của chúng tôi đã làm tròn  cái phận sự ấy. Tựu trung làm được oanh liệt hơn hết là ông Hoàng Đạo của báo Ngày nay. Phải! Giữa lúc dừng chân ngắm công đức của báo ấy trong năm Mậu Dần, nhà "độc quyền ru ngủ  chúng ta bằng món xã thuyết" của đồng nghiệp trên đường Quan  Thánh đã nói thế này:
"Trong công cuộc ấy, một điều rõ rệt hơn nhất, là chúng tôi  đã dừng hai bước -để tỏ lòng phẫn uất đối với những vụ bất công, những điều ức hiếp, công kích chế độ dã man, những phong tục cổ  hủ, những sự mê tín không lý, vạch rõ những sự thật xấu xa che  đậy dưới sự xảo quáệt của người..." Chà chà công đức vô lượng!  Nhưng chưa hết, ông ấy còn bới trong tập lưu cảo của Ngày nay để  nhắc lại với chúng ta nhiều công lao khác và kết luận rằng:
"Ngay bên công cuộc chỉ trích, phác họa xưa (?) chúng tôi đã  xây dựng một công cuộc kiến thiết vững vàng (?). Trên đời còn gì  hơn hiểu và biết. Các bạn và chúng tôi đã dắt tay nhau đi vào vườn trí thức, ngắt những bông hoa của tinh thần, những bông  hoa thơm của văn chương, những bông hoa lạ của tư tưởng...". Tốt  đẹp vậy thay những sự nghiệp ấy của báo Ngày nay. Té ra báo  Ngày nay đã dắt được những ông nào, có lẽ bà nào thì đúng hơn - những bà nào đó, vào vườn trí thức, không rõ là kiến thiết cái gì - rồi đấy. Thế mà đồng bào, quốc dân và cả mấy ông Ngày nay vẫn  đều không biết. Oan uổng. Đọc hết bài ấy của ông Hoàng Đạo, tôi  rất kính phục và nhớ luôn đến câu này của mấy ông lang thuốc lậu  vẫn nói trong máy truyền thanh:
"A lô! A lô! Xin các quí ngài chú ý! A lô! A lô! Bản hiệu từ khi  ra đời, đã chữa được mấy triệu người bệnh, danh tiếng lừng lẫy  khắp cả Đông Dương không ai mà không biết! A lô! A lô!". Hai thứ  văn chương ý thật giống nhau như tạc có điều ông Hoàng Đạo là  nhà ngôn luận, cho nên giọng nói của văn hơn, mấy ông cứu thế độ  của... hạ bộ nước nhà. Trông người mà ngắm đến ta, tôi rất buồn  bã. Là vì, tôi cũng là kẻ viết báo, đáng Chế giễu văn chương báo  Ngày nay đã quyến rũ các bà các cô vào con đường lãng mạn, hư  hỏng. lẽ cũng phải tụng công đức của mình như người ta chứ.  Nhưng mà nghĩ mãi hai ba ngày nay, chưa biết nên tụng các công  đức nào. Thật khổ cho tôi. Giả sử cũng gác liêm sỉ một bên để  quảng cáo cho mình như ông Hoàng Đạo hay bọn lang thuốc lậu,  thì tôi cũng có thể khoe với các bạn như vầy:
"Một điều rõ rệt hơn nhất là tôi đã dùng trào phúng để đánh  đổ cái chính sách độc tài của Hít le, cái thủ đoạn chuyên chế của  Muạạolini, cái cử chỉ tàn bạo của bọn Nhật Bản. Và ngay bên ấy,  tôi đã xây dựng một nền tảng cho cuộc hòa bình của âu châu. Vì có  lời nói của tôi mà nước Đức mới thân thiện với nước Pháp bằng  bản hiệp ước Pháp - Đức, vì có lời nói của tôi, nước Pháp mới tỏ  thái độ cương quyết trong khi nước ý đòi đất của mình, vì có lời nói  của tôi, quân Nhật ở đất Tàu, mới dùng dằng không dám đánh vào  Quảng Tây, Vân Nam". Nói vậy, tôi cũng có lý hơn ông Hoàng Đạo, bởi vì chính tôi đã có nói tới công việc của mấy nước ấy. Và tôi tin  rằng nói thế Hít le, Muạạolini hay bọn quân phiệt Nhật Bản, cũng  không cải chính. Nhưng chỉ sợ bạn mắng tôi là vô liêm sỉ. Thế thì  tôi biết nói làm sao? Không lẽ lại nín không nói. Vậy theo cái lễ  phép của mọi năm, tôi xin chúc mừng các bạn năm mới. Nhưng mà  những cái bình an, mạnh giỏi, đắc tài, đắc lộc, các bạn chắc không  thiếu gì bởi vì người ta chúc tụng các bạn đã nhiều. Về phần tôi,  tôi xin cầu cho các bạn, trong năm sắp tới, không phải nghe giọng  ru ngủ của ông Hoàng Đạo. Đó là hạnh phúc thứ nhất trên đời.

HOMECHAT
1 | 1 | 266
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com