watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
18:43:4228/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Tình Nhỏ Làm Sao Quên
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 6

Tình Nhỏ Làm Sao Quên

Tác giả: Ðoàn Thạch Biền

Chương 1

Từ Sài Gòn lên Ðà Lạt ở gần một tháng, tôi vẫn chưa tìm được chỗ trọ nhất định. Hết tạm trú nhà người bạn này vài ngày, tôi lại đến ở nhà người bạn khác vài hôm. Ở chung như vậy tôi chỉ có dịp cùng bạn bè tán gẫu, chứ không có thì giờ riêng để viết cho xong một kịch bản còn dở dang.

Một tháng nữa nhóm kịch sinh viên của bạn tôi phải trình diễn buổi ra mắt ở Ðà Lạt cho đúng thời gian đã qui định. Vậy mà tôi vẫn chưa lo xong phần cung cấp kịch bản để các bạn tập dượt. Biết tính tôi chỉ có thể làm việc được khi sống một mình nên Ðăng, người trưởng nhóm kịch, đã vất vả đi tìm cho tôi một chỗ trọ riêng biệt.
Một buổi sáng khi tôi còn đang trùm mền ngủ nướng trên tấm nệm trải ở sàn nhà một người bạn, Ðăng đã đến đánh thức tôi dậy và nói tôi thu dọn đồ đạc gấp đến chỗ trọ mới. Ngồi phía sau xe Vespa do Ðăng lái chạy như bay trong buổi sáng lạnh buốt, tôi chẳng hiểu anh chạy đi đâu vì vẫn còn ngái ngủ. Khi anh dừng xe, đến nhấn chuông điện trước một biệt thự sang trọng, tôi trố mắt hỏi:
- Trọ ở đây à?
Ðăng cười nói:
- Nhà như vậy còn chê sao?
Tôi chỉ tấm bảng xanh kẻ chữ trắng "Nhà bán", đóng trên trụ cổng.
- Không đùa chứ?
Ðăng nhún vai:
- Vào trong rồi sẽ biết.
Tôi định hỏi Ðăng cho rõ chuyện nhưng đã nghe có tiếng chó sủa và tiếng cửa sắt rít lên. Một người đàn ông tóc muối tiêu, mặc áo veste xám cũ kỹ bước ra. Bên cạnh ông là một con chó berger to lớn. Sau khi nghe Ðăng chào hỏi và giới thiệu, người đàn ông bắt tay tôi và mời chúng tôi vào nhà.
Biệt thự không lớn lắm nhưng có vườn hoa rất rộng và những lối đi đều trải đá xanh. Tôi được dành cho một căn phòng xinh xắn ở tầng trệt. Phòng có giường nệm, bàn viết, tủ quần áo, cửa sổ mở ra vườn đầy hoa và một lò sưởi nhỏ nhưng chắc mùa này tôi không có dịp để dùng đến nó.
Khi bác quản gia đi ra ngoài lo công việc, tôi phóng người lên giường nằm và nói với Ðăng:
- Cứ như sống trong mơ. Từ nhỏ đến lớn tôi chưa bao giờ được ở một nơi sang trọng như thế này. Nhà của ai vậy?
Ðăng chậm rãi kéo ghế ngồi, đốt một điếu thuốc đen rồi hỏi tôi:
- Cậu có sợ ma không?
Tôi hỏi lại:
- Cậu muốn nói biệt thự này có ma?
- Phải.
Tôi phì cười, nói tiếp:
- Vậy càng tốt. Cậu nhớ hồn ma trong vở kịch Hamlet của Shakespeare không? Chính hồn ma đó đã giúp cho Hamlet biết rõ mọi chuyện để chàng dễ dàng giải quyết. Tôi đang phân vân chưa biết giải quyết thế nào cho các nhân vật của tôi được quyền tiếp tục sống đến màn cuối của vở kịch. Nếu có hồn ma ở đây, tôi mong muốn hồn ma đó sẽ giúp tôi.
Ðăng mỉm cười gật đầu:
- Nếu biết cậu không sợ ma, tôi đã dẫn cậu đến đây trọ ngay hôm cậu mới lên Ðà Lạt.
- Bộ đây là nhà "chùa" à?
- Giỡn chơi. Nhà có chủ đàng hoàng. Ðể tôi kể rõ ràng cho cậu hiểu.
Ðăng rút một điếu thuốc, châm nối rồi anh kể:
- Chủ nhân của biệt thự này là một thương gia giàu có. Cách đây hai năm không hiểu vì lý do gì ông đã tự tử bằng súng săn ở một phòng ngủ trên lầu. Sau cái chết của ông, người vợ và cô con gái đã về sống ở Sài Gòn. Biệt thự được cho thuê. Có một vài người đã đến ở nhưng rồi họ đều lần lượt dọn đi vì lý do thường bị đau ốm vô cớ và nhất là thường thấy hồn ma ông chủ hiện về. Bà chủ đã đổi ý muốn bán luôn biệt thự này với giá rẻ. Nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai đến mua.
Tôi ngạc nhiên ngắt lời Ðăng:
- Bộ cậu mua lại biệt thự này với giá rẻ?
Ðăng bật cười lắc đầu:
- Rẻ thì rẻ chứ tiền đâu mà tôi mua. Giá cả trăm cây vàng chứ ít sao. Cách đây vài hôm tôi nhớ ra bà chủ biệt thự này là một trong những mạnh thường quân cho nhóm kịch, nên tôi đã liên lạc bằng điện thoại xin phép bà cho cậu ở tạm đây một tháng để làm việc. Chính bà đã điện thoại từ Sài Gòn lên cho người quản gia thu dọn phòng này cho cậu ở. Cơm nước cậu có thể ăn với gia đình người quản gia ở nhà dưới hay đi ăn cơm quán tùy ý. Tôi mong rằng cậu sẽ ở đây cho đến khi viết xong vở kịch, đừng cuốn gói ra đi ngay trong buổi sáng ngày mai.
Tôi đứng dậy, bước loanh quanh trong phòng và nói:
- Sức mấy mà ngày mai tôi ra đi. Một chỗ ở ngon lành như thế này, thánh đuổi tôi cũng không chịu đi chứ đừng nói chuyện ma đuổi.
Ðăng siết chặt tay tôi, chào ra về. Tôi mở túi xách lấy quần áo bỏ vào tủ và miệng huýt sáo một đoạn nhạc vui.
Nửa tháng trôi qua. Mỗi ngày tôi đều làm việc rất chăm chỉ, bắt đầu từ 10 giờ sáng cho đến nửa đêm. Ðã nhiều lần tôi cố thức dậy sớm hơn để làm việc, nhưng vẫn không sao bỏ được thói quen ngủ nướng vì thời tiết quá lạnh vào buổi sáng.
Trong suốt thời gian ở đây mặc dù thức rất khuya tôi vẫn chưa có dịp gặp hồn ma như lời Ðăng nói. Không biết đó chỉ là tin đồn thất thiệt, hay là tại số tôi nghèo hèn nên không có diễm phúc được hồn ma ông chủ giàu có tiếp kiến?
Vở kịch kể như tôi viết sắp xong chỉ còn một màn cuối. Tôi phân vân không biết có nên để cho nhân vật chánh là một thiếu nữ tự tử để giải quyết sự việc, hay tiếp tục phấn đấu sống, đấy cũng là một cách giải quyết sự việc?
Có lý do chính đáng để người ta được quyền tự tử không? Suốt ba đêm liền, ngồi trước trang bản thảo trắng tinh, đầu óc tôi lẩn quẩn mãi câu nói bất hủ của Hamlet? "To be or not to be, that is a quesion". Sống hay không sống đấy là vấn đề. Và tôi đã rơi vào một khoảng trống mù mịt khi cố gắng giải quyết vấn đề.
Những lúc đó tôi thật tình thầm mong hồn ma của ông chủ nhà hiện ra, cho tôi biết lý do chính đáng về cái chết của ông, để tôi có thể giải quyết cho nhân vật của mình trong vở kịch. Nhưng sự chờ mong của tôi chỉ hoài công.
Ðêm thứ tư, không chịu nổi khoảng trống mù mịt trong đầu cuốn hút, tôi rời khỏi bàn viết đứng dậy mặc áo khoác, quấn thêm khăn quàng cổ rồi bước vội ra ngoài phòng trọ.
Bên ngoài gió thổi mạnh, giật nghiêng chòm cây mimosa trồng ở gần cổng. Mùa này cây không nở hoa vàng mà chỉ có những chiếc lá xanh trắng mốc. Sương đêm như tấm khăn ướt, phả vào mặt tôi mát lạnh khiến tôi tỉnh người sau một ngày giam thân trong phòng làm việc mệt nhọc.
Tôi đứng yên trong bóng tối trước hiên nhà, hít thở chậm rãi từng hơi dài, không khí đầy hương thơm những bông hoa nở đêm trong vườn. khoảng trống mù mịt trong đầu dần dần được lấp đầy bởi gió, sương mù và hương thơm của các loài hoa. Trong giây phút này tôi chợt hiểu chẳng có lý do nào chánh đáng để người ta được quyền tự tử. Nhân vật nữ của tôi phải sống, không vì một lý do cao cả nào mà vì một lý do rất bình thường, nàng đã sinh ra đời.
Tôi gần như gào lên sung sướng vì đã giải quyết được vấn đề. Chẳng thèm mở cổng, tôi chống tay nhảy vọt qua hàng rào thấp bao quanh biệt thự. Tôi bước thật nhanh về hướng trung tâm thành phố hy vọng một nhà hàng còn mở cửa, tôi sẽ vào uống một chai bia và ăn một đùi gà chiên bơ béo ngậy. Tôi thích khen thưởng sự thành công của mình bằng một bữa ăn ngon hơn là những lời tán tụng.
Mặc dù tôi bước đi hối hả, khi đến bờ hồ Xuân Hương cũng đã hơn 10 giờ đêm. Ở Ðà Lạt giờ này các nhà hàng đều đóng cửa. Tôi ngồi nghỉ chân ở một bệ xi măng xây quanh một gốc anh đào, để lấy sức trước khi leo dốc lên khu chợ Hòa Bình, tìm một quán cháo gà bán khuya ở trong hẻm mà có lần Ðăng đã dắt tôi đến ăn.
Gần phía cầu gỗ có buộc những chiếc pédalo, tôi chợt nhìn thấy một cô bé mặc áo khoác trắng đang đi thơ thẩn trên bờ hồ dưới ánh đèn vàng nhạt. Chắc em đang giận dỗi gia đình nên ra đây giải khuây.
Chú ý theo dõi cô bé một lúc, tôi thấy thỉnh thoảng em cúi xuống bới tìm một vật gì đó ở trong bụi cỏ. Có lẽ cô bé đã đánh rơi cái bóp hay đồng hồ gì đó, nên em không dám về nhà sợ ba má đánh. Tôi đoán vậy và đứng dậy đi đến định tìm kiếm giúp em.
Khi tôi đến gần phía sau lưng cô bé, tôi nhìn thấy rõ một giải khăn quàng cổ màu xanh lá cây có những đường kẻ ô vuông màu đỏ nổi bật trên vai chiếc áo khoác trắng. Cô bé cúi đầu chăm chú bới tìm ở một bụi cỏ xanh mướt. Tôi hỏi nhỏ nhẹ để em khỏi giật mình:
- Này em, em tìm kiếm gì đó?
Cô bé có vẻ không nghe thấy lời tôi nên em không quay lại nhìn. Em thản nhiên bước đi một đoạn rồi lại cúi xuống bới tìm ở một bụi cỏ khác. Tôi định đến hỏi lại em thì một người ngồi từ lâu trong bóng tối bên gốc thông bước ra.
- Xin cậu để mặc em ấy.
Nhìn người đàn bà già nua trong chiếc áo khoác bằng nỉ đen, tôi hỏi:
- Xin lỗi, bà là ai?
- Tôi là vú nuôi của em ấy.
Nghĩ bà cụ này mắt đã kém, khó mà nhìn rõ một vật nhỏ bé trong đêm tối, tôi nói:
- Cô bé đã đánh rơi vật gì vậy? Bà có thể cho biết, tôi sẽ tìm giúp cho.
- Cám ơn cậu. Nó đã đánh rơi một vật chẳng đáng gì.
- Một vật chẳng đáng gì mà phải mất công tìm trong đêm khuya! Cô bé đã đánh rơi đồng hồ phải không?
Bà cụ lắc đầu.
- Ồ, không. Nó đánh rơi một cái gì đó mà tôi cũng không biết.
Tôi bật cười.
- Này bà cụ, bà sợ tôi tìm thấy rồi lấy mất chiếc đồng hồ à.
- Cậu không tin tôi thì thôi. Ðừng nói đánh rơi đồng hồ, nếu nó có đánh rơi vòng ngọc hay dây chuyền, má nó cũng không để nó phải khó nhọc tìm kiếm trong đêm khuya như thế này. Bà ta dư tiền mua cho nó một cái khác.
Chợt có tiếng cô bé réo gọi:
- Vú ơi.
Bà cụ vội chạy đến chỗ cô bé đứng.
- Gì vậy con?
- Vú nói chuyện với ai vậy?
- Một người qua đường.
- Vú coi chừng ông ấy lấy mất của con nghe.
Nghe hai người nói chuyện lạ lùng, tôi không ngăn được tò mò bước đến hỏi cô bé:
- Này em, em đánh mất cái gì vậy? Tôi sẽ tìm giúp em.
Cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Ông hứa không được lấy của em nghe.
Ðể cho cô bé tin, tôi làm bộ giơ cao một tay lên thề thốt:
- Nếu tôi lấy của em, thiên lôi sẽ đánh tôi bể đầu.
Cô bé gật đầu tỏ vẻ bằng lòng:
- Em tin lời ông. Vậy ông tìm giúp em đi.
- Nhưng em phải nói rõ đã đánh rơi cái gì, tôi mới tìm giúp được chứ.
- Ông cứ tìm đi. Gặp nó ông sẽ biết ngay nó là cái gì.
Tôi nghĩ cô bé này khùng rồi. Chẳng nên nói chuyện với người khùng làm gì cho mất thời giờ, hãy đi ăn một tô cháo gà rồi về nhà trọ trùm mền ngủ một giấc cho khỏe. Nhưng khi nhìn vào đôi mắt em, đôi mắt đen lóng lánh mở rộng trong đêm, đầy vẻ chân thành khiến tôi chẳng thể bước chân đi. Tôi vẫn thường tin vào đôi mắt của người khác hơn là vào lới nói của họ. Tôi hỏi:
- Có chắc em đã đánh rơi một vật gì đó không?
Cô bé cau mặt tỏ vẻ bất mãn:
- Ông không tin em?
Sợ cô bé buồn, tôi vội nói:
- Tin chứ. Nhưng em đã đánh rơi cái gì đó ở đâu?
- Nếu em biết đã đánh rơi nó ở đâu, em không cần nhờ ông tìm giúp.
- Vậy sao em lại đi tìm ở nơi này?
Cô bé giơ tay chỉ quanh:
- Lúc nãy ngồi trên xe, em đã nhìn thấy nó nằm ở đâu khoảng này. Bây giờ em đến tìm ở bãi cỏ đằng kia, còn ông tìm giúp em ở chỗ gần gốc cây thông.
Tôi gật đầu và chúng tôi quay lưng đi ngược chiều nhau. Tôi đoán chắc là cô bé đã đánh rơi một kỷ vật nào đó, em muốn giấu nên không nói tên. Một kỷ vật có thể đem theo trong người và dễ dàng đánh rơi là một chiếc vòng đeo tay, một cái kẹp tóc, một cây viết máy hay một cái gì ngồ ngộ rất dễ nhận ra.
Tôi đang lúi húi tìm ở những bụi cỏ quanh gốc cây thông, chợt nghe có tiếng còi xe kêu vang trong đêm im vắng khiến tôi giật mình. Tôi ngoảnh lại thấy một chiếc xe hơi màu đỏ thẫm đậu sát lề đường. Tiếng bà vú gọi:
- Xe đến rồi, về đi con.
Cô bé nói:
- Con chưa tìm thấy mà.
- Khuya rồi, con về đi ngày mai tìm tiếp. Má con đang đợi ở nhà.
Cô bé đưa tay vẫy gọi tôi:
- Này ông.
Tôi chạy đến hỏi:
- Chuyện gì đó?
- Em phải về. Ông hứa ở lại tiếp tục tìm kiếm giúp em nghe.
Tôi giơ tay lên định thề thốt, cô bé vội níu tay tôi.
- Thôi ông khỏi thề. Em tin ông mà. Mai chúng ta sẽ gặp lại. Chào ông.
Bà vú kéo cô bé vào xe rồi đóng cửa lại. Chiếc xe phóng vụt đi và mất hút ở một khúc quanh. Tôi trở lại gốc thông tiếp tục loay hoay tìm kiếm ở những bụi cỏ. Một lúc sau tôi bật cười vang. Bố khỉ ! Thằng ngốc. Nếu ai nhìn thấy mày lúc này chắc họ sẽ nói mày điên. Khi không nghe theo lời cô bé làm quái gì vậy. Biết cô bé có thật tình đánh rơi một cái gì đó hay đây chỉ là trò đùa của em?
Ðồng hồ đeo tay chỉ 11 giờ đúng. Quán cháo gà chắc đã đóng cửa. Tôi đành trở về nhà trọ với cái bụng trống rỗng và cái đầu đầy những câu hỏi vu vơ của cô bé.

Chương 2

Khi Ðăng đến lấy bản thảo màn cuối của vở kịch về tập dượt, để thưởng công lao chăm chỉ làm việc của tôi, anh mời tôi đi ăn sáng ở nhà hàng Palace.
Chúng tôi ngồi ở một bộ bàn ghế đan bằng mây, sơn trắng, đặt ngoài hiên rộng. Ðăng uống cafe đen, tôi uống cafe sữa và chúng tôi cùng ăn bánh paté chaud.
Ðẩy tách cafe đã cạn một nửa sang bên, Ðăng móc túi lấy sổ tay có kẹp một cây bút chì nhỏ đặt trên bàn. Anh cúi xuống vẽ hí hoáy một hồi rồi giảng giải cho tôi biết ý định dàn cảnh trên sân khấu cho màn đầu của vở kịch.
Một tấm màn xám nhạt căng ở phía cuối sân khấu, tượng trưng cho bầu trời ban đêm. Một tấm bìa sơn đen cắt hình những mái nhà, tượng trưng cho thế giới ở xa. Một hàng rào màu trắng, phía sau có những bóng đèn màu tím chiếu hắt lên để tạo khoảng cách giữa thành phố và công viên. Ở phía trái sân khấu có một gốc cây vươn thẳng lên cao, tàn cây sẽ căng bằng những chiếc dù có mắc những bóng đèn xanh. Ở phía phải sân khấu đặt một ghế đá, đèn spotlight màu vàng sẫm sẽ chiếu thẳng xuống ghế đá có đôi tình nhân đang ngồi. Phần nhạc đệm sẽ dùng bài Biển Nhớ của Trịnh Công Sơn, độc tấu bằng kèn saxo để có âm hưởng lê thê thích hợp với không khí màn đầu của vở kịch...
Nghe Ðăng nói, tôi luôn gật đầu tán thành. Tuy là người viết ra vở kịch, nhưng thú thực tôi cũng không biết phải làm thế nào cho vở kịch được sống động trên sâu khấu đúng như ý mình muốn. Khi xem một vở kịch, khán giả thường chú ý đến các diễn viên để nhận xét vở kịch thành công hay thất bại. Họ không biết một phần lớn của sự thành công hay thất bại đó chính là đạo diễn, người luôn luôn núp phía sau hậu trường.
Uống xong ngụm cafe, Ðăng nói:
- Dàn cảnh vậy có đúng ý tác giả?
Tôi cười:
- Còn hơn tác giả nữa vì tôi chưa nghĩ ra những điều đó trong khi viết.
Ðăng nói:
- Kịch mà. Nó đòi hỏi nhiều người cùng góp sức với nhau để xây dựng. Không như viết văn, chỉ một người lầm lũi làm việc.
Tôi nói:
- Chính vì vậy tôi thích viết kịch hơn viết văn làm thơ. Sau khi một mình cặm cụi làm việc trong phòng, tôi thích được ra ngoài cùng các bạn làm việc. Không khí bằng hữu giúp người ta dễ thở hơn.
Nhìn đồng hồ đeo tay, Ðăng nói:
- Tôi có hẹn lúc 8 giờ nên đi trước. Buổi chiều cậu nhớ đến hội trường lúc 4 giờ xem anh em tập dượt. Bây giờ cậu cần đi đâu, tôi chở cho một đoạn.
- Cám ơn. Tôi sẽ ngồi đây đến gần trưa rồi đi ăn cơm ở một quán cơm bình dân gần đây.
- Cậu làm gì trong suốt thời gian chờ đợi?
- Tôi nhìn bãi cỏ trước mặt.
Ðăng nhún vai:
- Cậu khó mà trở thành đạo diễn với tâm hồn thi sĩ.
Tôi cười:
- Cậu cũng khó mà trở thành người viết kịch nếu thiếu tâm hồn thi sĩ.
Ðăng cười, đứng dậy bắt tay tôi:
- Có lẽ tại kẻ thừa người thiếu nên chúng ta phải cộng tác với nhau.
Ðăng đi vào quầy tính tiền rồi anh đi ra bãi đậu xe lấy chiếc vespa. Nhà hàng xây trên đồi cao nên một lúc sau tôi thấy Ðăng phóng xe chạy trên con đường phía dưới thấp. Tóc anh để dài, gió thổi bay bồng bềnh về phía sau như một cụm mây. Trông dáng anh rất nghệ sĩ nhưng anh luôn luôn làm việc với một tinh thần khoa học. Ðó chính là lý do giúp anh thành công trong những công việc.
Còn một mình, tôi nâng tách cafe lên uống chậm rãi và ngắm nhìn bãi cỏ xanh trước mặt. Ở Ðà Lạt màu xanh có quá nhiều khiến tâm hồn con người thoải mái. Khác hẳn khu phố tôi ở Saigon, nơi màu xanh quá hiếm hoi nên đầu óc tôi thường căng thẳng.
Nắng buổi sáng vàng óng phủ lên bãi cỏ như một lớp mật. Những ngọn cỏ xanh mướt như những chiếc lưỡi nhỏ bé xinh xắn đang khoan khoái nếm hương vị mật ngọt dịu kia.
Tôi ngồi im say mê nhìn bãi cỏ gần nửa giờ. Rồi đầu óc quen hoạt động của tôi bắt đầu nhàm chán khung cảnh tĩnh lặng trước mặt. Tôi không biết phải làm gì để khỏa lấp khoảng thời gian chờ đợi đến giờ cơm trưa. Tôi không có thói quen ngồi viết ở nhà hàng như một vài nhà văn và phóng viên. Có lần đang ngồi viết trong phòng riêng, chợt ngẩng mặt lên nhìn thấy bóng mình trong gương, tôi đã phải đứng dậy đem chiếc gương soi để xa bàn viết vì không chịu được khuôn mặt của tôi trong gương. Khuôn mặt đó khi suy nghĩ trông "thộn" ra và ngu đần kinh khủng.
Tôi không có can đảm khoe "khuôn mặt đang suy nghĩ" ở chốn này.
Tôi móc túi lấy một món đồ chơi trẻ con mà tôi vẫn thường đem theo để đùa vui khi ngồi một mình rảnh rỗi.
Ðồ chơi là một chiếc hộp dẹp lớn bằng bao thuốc, mặt trên bằng nhựa trong suốt, đáy là lớp nhựa dày màu đen có đường rãnh chạy quanh co và nhiều ngõ ngách. Một hòn bi nhỏ mạ kền sáng loáng nằm sẵn trong lòng rãnh. Muốn chơi trò này chỉ cần lắc chiếc hộp cho hòn bi lăn đến đích nằm ở trung tâm chiếc hộp. Trò chơi rất giản dị nhưng không phải dễ thành công. Có lần tôi đã ngồi chơi suốt buổi sáng mà vẫn không đạt được kết quả. Ðường rãnh trơn trượt, nếu không khéo tay chỉ cần động nhẹ chiếc hộp, hòn bi sẽ lăn vào các ngõ ngách dẫn đi xa dần đích đến.
Ðồ chơi này tôi đã mua ở hè đường Lê Lợi Saigon. Chính người bán hàng cũng không biết gọi nó tên gì và tôi đã đặt cho nó cái tên "trò chơi giết thời giờ". Cái tên nghe hung bạo nhưng trò chơi rất hiền lành.
Tôi châm một điếu thuốc và bắt đầu trò chơi. Một tay nâng chiếc hộp lên, tôi giữ nó nằm ngang rồi khẽ nghiêng cho hòn bi chạy về điểm khởi hành. Tôi rung nhẹ bàn tay và hòn bi lăn đi, lăn đi...
- Lan Hương, con làm gì vậy?
- Con đi tìm nó.
Tôi giật mình bỏ hộp đồ chơi xuống bàn. Giọng trả lời vừa rồi chính là giọng của cô bé tôi đã gặp đêm qua. Tôi nhìn ra sân cỏ và nhận ra ngay cô bé nhờ chiếc khăn quàng cổ màu xanh lá cây có những đường kẻ ô vuông màu đỏ. Sáng nay em mặc áo len màu vàng nghệ và chiếc váy dài màu trắng, trông em rạng rỡ hơn đêm qua mặc y phục màu xanh đen. Người đàn bà nói chuyện với em đang đứng chống tay ở lan can ngoài hành lang. Bà ăn mặc rất sang trọng và kiểu cách.
- Ði vào con. Nó không có ở đó đâu.
Cô bé vừa bới tìm ở những bụi cỏ vừa trả lời:
- Con mới thấy nó nằm ở đâu đây mà.
- Má nói con đi vào, nghe chưa.
Giọng người đàn bà nghe có vẻ gay gắt. Cô bé ngước nhìn mẹ rồi đứng dậy. Người đàn bà rời lan can đi vào nhà hàng trước và cô bé cúi đầu lững thững đi từ sân cỏ vào hành lang một cách miễn cưỡng. Khi cô bé đi ngang qua bàn tôi đang ngồi, không ngăn được niềm vui khi gặp lại em, tôi nói:
- Này cô bé, em đã tìm thấy cái đó chưa?
Cô bé dừng lại, ngơ ngác nhìn tôi, có lẽ em không nhận ra tôi là người đã nói chuyện với em trong đêm qua:
- Ông nói tìm cái gì vậy?
- Cái mà em muốn tìm đó.
Cô bé tròn xoe đôi mắt, hỏi:
- Ông đã tìm thấy nó rồi à?
- Chưa. Nhưng chắc chắn tôi sẽ giúp em tìm thấy nó.
- Ông biết nó nằm ở đâu không?
- Ngoài bờ hồ.
- Ngoài bờ hồ? Ðêm qua em đã tìm ở đó rồi mà.
- Nhưng em chưa tìm kỹ. Có thể nó nằm lẫn trong những bụi cỏ.
Giọng người đàn bà lại réo gọi:
- Lan Hương.
Cô bé quay nhìn về phía nhà hàng, người mẹ đang đứng ở cửa giơ tay vẫy. Em quay lại nói với tôi:
- Xin lỗi, em phải vào với má. Tối nay em sẽ đến tìm lại ở bờ hồ. Ông có đến tìm giúp em?
- Tôi sẽ đến.
- Cám ơn ông.
Cô bé cúi đầu chào tôi rồi bước đi. Ðôi mắt em mở lớn như nhìn vào cõi xa xăm nào đó, nên bước chân của em thỉnh thoảng va chạm vào bàn ghế đặt ở hành lang. Tôi không tin cô bé đã mất trí nhớ. Tôi nghĩ tại em quá chú tâm đến cái mà em muốn tìm kiếm, nên em đã quên đi những sự việc xảy ra chung quanh. Ðã nhiều lần tôi cũng ở tình trạng như vậy. Khi đầu óc mải suy nghĩ một nhân vật trong vở kịch, tôi đã sống luôn trong bầu không khí của nhân vật và quên đi thực tế bên ngoài.
Ngày xưa, triết gia Socrate người Hy Lạp đi dạo trong vườn vì mải suy nghĩ ông đã xẩy chân rơi xuống giếng và phải nhờ người hầu gái kéo lên. Câu chuyện nghe có vẻ buồn cười. Nhưng nếu Socrate không có sự chú tâm suy nghĩ, ông đã không viết được những tác phẩm giá trị còn lưu truyền cho đến ngày nay.
Cô bé kia chắc cũng vậy. Em cần phải chú tâm suy nghĩ mới nhớ đã đánh rơi cái đó ở đâu.
Chưa đến 11 giờ, tôi cũng kéo ghế đứng dậy rời khỏi nhà hàng. Kinh nghiệm ở quán cơm bình dân cho biết, tôi cần phải đến sớm để có chỗ ngồi tốt và được những món ăn nóng hổi.

 

Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 116
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com