Chỉ mục bài viết |
---|
Tình Nhỏ Làm Sao Quên |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Tất cả các trang |
Chương 3
Mùa hè Ðà Lạt, những cơn mưa đầu mùa cũng thường đổ xuống bất chợt, không một dấu hiệu báo trước như ở Saigon. Nhớ lời hẹn với Ðăng, 4 giờ chiều đến hội trường đại học xem các bạn tập kịch, nhưng nhìn cơn mưa ào ạt bên ngoài tôi đâm ngại không muốn rời khỏi phòng.
Phải đi bộ trong mưa một đoạn đường dài rồi phải chen lấn dành một chỗ ngồi ướt át trên xe lam để đến hội trường, đối với tôi lúc này là một cực hình. Tôi bật đèn trong phòng rồi nằm dài trên giường, đọc tiếp một cuốn truyện trinh thám nước ngoài tôi mới thuê hồi trưa. Những lúc rảnh rỗi tôi thích đọc truyện trinh thám hơn truyện tình cảm. Bởi khi không chú tâm suy nghĩ chuyện gì, đầu óc tôi thường nhảy lung tung như con khỉ và chỉ có loại truyện trinh thám mới giam giữ được nó.
Buổi tối trời vẫn còn mưa. Tôi xuống ăn cơm với gia đình bác quản gia ở căn nhà nhỏ phía sau biệt thự. Căn nhà chỉ có hai vợ chồng và một chú chó berger to lớn. Người con trai duy nhất của hai bác đã có gia đình ở Tùng Nghĩa, thỉnh thoảng anh dẫn một đứa con về chơi với ông bà nội vài hôm rồi lại đem đi.
Bữa ăn tôi không báo trước cho hai bác nên rất đạm bạc. Trên mâm cơm chỉ có một tô canh trái su, một đĩa thịt kho và một đĩa rau xà lách. Bác gái đi lấy thêm một củ dền đỏ, thái thành những lát mỏng để lên đĩa rau. Bác biết tôi rất thích ăn loại củ đó. Bác nói:
- Tôi cứ tưởng cậu đi ăn cơm quán nên không nấu nướng gì nhiều.
Tôi cười đáp:
- Trời mưa nên cháu lười xuống phố. Ðược ăn cơm nóng như thế này là tốt rồi.
Bác trai nói với vợ:
- Bà nướng ít miếng khô nai cho tôi nhậu lai rai với cậu đây.
Trong khi chờ đợi món nhậu, tôi và bác trai ăn cơm trước. Ðược ăn những chén cơm nóng hổi trong một buổi tối lạnh lẽo, dù thức ăn không nhiều tôi vẫn cảm thấy ngon miệng. Một lúc sau bác gái bưng từ dưới bếp lên một đĩa thịt nai nướng thơm phức. Bác trai rót đưa tôi một ly rượu trắng lờ lờ như nước dừa. Tôi hỏi:
- Rượu đậu nành hả bác?
Ông lắc đầu cười:
- Rượu đế Nùng đó. Con tôi mua của người Nùng ở Tùng Nghĩa đem lên cho. Cậu uống thử xem, ngon hơn rượu đậu nành nhiều.
Tôi ở đây đã gần một tháng, tối nay là lần đầu tiên tôi nhậu với bác trai. Những ly rượu đã giúp chúng tôi tâm sự với nhau dễ dàng hơn. Bác cho biết đã ở với ông chủ biệt thự này gần 30 năm. Trước kia bác làm tài xế cho ông chủ đến khi ông ta lập gia đình, bác trở thành quản gia.
Về cái chết của ông chủ, chính bác cũng không hiểu lý do. Người ta đồn ông đã thất bại trong một áp phe lớn, bị vỡ nợ nên tự tử. Bác không tin chuyện đó vì gia đình ông chủ vẫn giàu có sau khi ông ta chết.
Tôi hỏi bác có nghi ngờ gì cái chết của ông chủ không. Bác nói mặc dù là người rất thân cận với ông chủ nhưng bác cũng không hiểu tại sao ông ta lại tự tử. Bác vẫn thường đi săn bắn chung với ông chủ. Bác thấy đôi khi ông ta bắn thú dữ rất hung bạo. Con vật đã bị thương nằm giãy chết, ông ta còn bắn liên tục vào thân nó. Nhưng cũng có lúc tay ông run rẩy khi nhắm bắn một con thú và rồi ông đã để nó chạy mất. Ông ta đã sống quá nhiều với đầu óc và một người sống nhiều với đầu óc thì bác chịu thua không hiểu nổi.
Tôi là người không hay uống rượu nên đến ly thứ ba, mặt tôi đã nóng bừng. Tôi hỏi:
- Bác đã thấy hồn ma ông chủ hiện về bao giờ chưa?
Bác dằn ly rượu xuống mặt bàn rồi trợn mắt nhìn tôi:
- Cậu cũng tin chuyện bá láp đó sao. Chính tôi đã ngủ trong phòng ông chủ tự tử mấy lần nhưng nào có thấy ma quỉ gì đâu.
Tôi cười nói:
- Cháu hỏi cho biết vậy mà. Nếu thật có ma quỉ cháu cũng không sợ. Ðược quen với hồn ma ông chủ biết đâu sẽ có nhiều điều thú vị.
Bác gái ngồi im lặng ăn cơm, bây giờ mới góp tiếng:
- Có rượu vào cậu dễ nói cứng. Tôi sợ khi gặp hồn ma ông chủ, cậu sẽ chạy vắt giò lên cổ.
Tôi cười nói:
- Vậy chắc bác đã thấy hồn ma ông chủ?
- Có. Một lần vào lúc nửa đêm, tôi thức dậy nhìn ra vườn và thấy ông chủ đang đi giữa các luống hoa. Ðầu ông ta đầy máu trông thật tội nghiệp. Tôi đã đánh thức nhà tôi dậy để chỉ cho ông ấy thấy, nhưng khi chúng tôi đến cửa sổ để nhìn ra vườn thì ông chủ đã biến mất.
Bác trai quay sang hỏi vợ:
- Bà có chắc đó là ông chủ không?
- Tôi còn lạ gì hình dáng ông chủ. Ðêm đó ông ta mặc bộ quần áo ngủ sọc xanh lá cây giống như hôm ông tự tử.
Bác trai lắc đầu.
- Vào lúc nửa đêm trông gà hóa cuốc là chuyện thường, nhất là đối với đôi mắt kém cỏi như bà.
- Xì! Ông không tin thì thôi.
Bác gái thu dọn chén đũa rồi bưng mâm cơm xuống bếp. Bác trai nói với tôi:
- Ðàn bà mà. Họ luôn luôn quả quuyết đã nhìn thấy rõ ràng cái mà đàn ông chúng ta chẳng bao giờ nhìn thấy!
Uống cạn ly rượu, tôi nhìn đồng hồ đã hơn 8 giờ. Nhớ có hẹn với cô bé, tôi xin phép bác trai đứng dậy. Vừa mở cánh cửa lớn, gió thổi thốc những hạt mưa lâm râm vào mặt mát lạnh, tôi quay vào hỏi mượn bác trai chiếc áo mưa và chiếc dù đen. Bác hỏi:
- Giờ này, cậu còn đi đâu?
Tôi nói dối:
- Cháu có hẹn với người bạn lúc 9 giờ ở dưới phố.
Khi tôi mặc xong áo mưa và che dù bước ra khỏi nhà, bác còn nói với theo:
- Cậu nên đi về sớm. Trời mưa đi đường khuya rất nguy hiểm.
Mưa không còn nặng hạt như lúc chiều nhưng gió thổi tạt những hạt mưa nhỏ vào người, nên chỉ một lúc sau hai gấu quần của tôi đã thấm ướt. Ðường phố vắng tanh và tối đen. Những biệt thự hai bên đường đều đóng kín cửa, không có một chút ánh đèn nào hắt ra. Ði bộ suốt một đoạn đường dài, tôi không gặp một người bộ hành nào hay một chiếc xe nào chạy ngang. Ðêm ở Ðà Lạt thật buồn thảm như những cây hoa quì ủ rũ bên đường.
Hồ Xuân Hương ở gần trung tâm thành phố cũng ít có bóng người qua lại trên bờ. Nhà hàng Thủy Tạ đèn còn bật sáng nhưng tôi không thấy có chiếc xe hơi nào đậu bên ngoài, có lẽ bên trong khách khứa chẳng là bao. Những ly rượu tôi uống với bác quản gia đã tan nhanh vào gió lạnh. Tôi muốn bước vào nhà hàng uống một ly cafe Rhum cho ấm người. Nhưng sợ không nhìn thấy cô bé khi em đến, nên tôi đi bộ đến đợi em ở cầu gỗ có buộc những chiếc pédalo.
Ðứng dưới hiên một quán kem đã đóng cửa, tôi quay người áp sát vào vách gỗ để che gió châm thuốc hút. Mưa bụi vẫn rơi đều và bay lả tả trên mặt hồ đen thẫm. Hơi thuốc đã giúp tôi chịu lạnh dễ dàng hơn dù hai bàn tay còn hơi run.
Nửa giờ trôi qua vẫn không thấy cô bé đến. Tôi nghĩ có thể em đã bị người mẹ giữ lại ở nhà. Một đêm mưa như thế này, chẳng có người mẹ nào muốn con cái đi ra ngoài đường. Nhớ lời bác quản gia dặn đừng nên về khuya nguy hiểm, tôi đã muốn quay về nhà trọ. Nhưng không hiểu sao tôi vẫn tin là cô bé sẽ đến, mặc dù một người như em rất dễ quên những lời nói. Chờ đợi cô bé này cũng là một "trò chơi giết thời giờ" giống trò chơi hộp bi. Tôi nghĩ vậy và dựa lưng vào vách quán kem, tiếp tục trò chơi.
Một chiếc xe hơi từ xa chạy vụt đến rồi từ từ đậu sát lề. Tiếng máy xe tắt và cửa xe mở bung ra. Tôi nghe có tiếng nói:
- Thôi vú ngồi trong xe đợi con, ra ngoài lạnh lắm.
- Ừ, nhưng con tìm mau lên. Má con không cho con đi lâu.
Một người bước ra khỏi xe. Ðấy chính là cô bé tôi đang đợi. Em mặc chiếc áo mưa màu đỏ có mũ trùm kín đầu như loại áo của những người trượt tuyết. Em đóng cửa xe lại rồi đưa mắt nhìn quanh. Tôi bước ra khỏi hiên quán kem và gọi:
- Lan Hương.
Cô bé đi đến gần tôi, em hỏi:
- Ông là ai mà biết tên em?
Tôi giơ cao chiếc dù lên để em nhìn rõ khuôn mặt.
- Sáng nay em đã hẹn gặp tôi ở đây và tôi đã phải đợi em gần một tiếng đồng hồ. Vậy mà em còn hỏi tôi là ai nữa sao?
Cô bé gật gật đầu:
- Em nhận ra ông rồi. Trông ông khác lạ hơn buổi sáng.
- Chắc là tại tôi mặc chiếc áo mưa cánh dơi rộng thùng thình này.
Cô bé lắc đầu:
- Không phải đâu. Tại buổi sáng khác, buổi tối khác và người ta cũng vậy. Ông đã tìm giúp em chưa?
- Tôi đang đợi em đến để cùng tìm.
- Ông lười quá. Công việc đó em có thể làm một mình được mà.
Tôi biện hộ:
- Tìm một mình, tôi sợ lòng tham nổi lên và sẽ lấy mất của em.
Cô bé nhìn thẳng vào mắt tôi:
- Em không tin ông lấy mất của em.
- Tôi có thể lấy lắm chứ. Tính tôi rất tham lam.
- Nếu tham lam ông đã chịu khó tìm trước một mình rồi.
Tôi bật cười vì cô bé liến láu:
- Thôi nhỏ, chúng ta cùng đi tìm.
Tôi kiếm một thứ mà mình chẳng biết rõ nó là cái quái gì, tôi nghĩ đó cũng là một "trò chơi giết thời giờ". Tôi sốt sắng đi bới tìm những bụi cỏ với cô bé. Những bụi cỏ đọng đầy nước mưa khiến tay tôi lạnh run. không muốn tiếp tục hành hạ thân xác mình trong đêm mưa, tôi "dụ khị" cô bé đến một nơi ấm áp.
- Này nhỏ, có thể em đánh rơi nó trong nhà hàng Thủy Tạ. Vậy chúng ta đến đó tìm kiếm.
Cô bé lắc đầu:
- Chắc chắn em không đánh rơi nó ở những nơi đông người.
- Vậy chúng ta đên hiên quán kem kia tìm, nơi đó rất vắng vẻ.
- Cái đó màu xanh lá cây nên em nghĩ nó chỉ nằm ở những nơi có màu xanh lá cây.
Nghe cô bé lý luận, tôi muốn điên cái đầu. Tôi chỉ đại lên một ngọn cây thông và nói:
- Trên cao kia cũng có màu xanh lá cây, vậy em leo lên đó mà tìm.
- Nó không rơi ở trên cao kia đâu, nói chỉ rơi trên mặt đất. Ông tìm giúp em đi, cứ đứng nói hoài làm sao tìm thấy được.
Thấy cô bé nhăn mặt, sợ em giận, tôi vội cúi xuống tiếp tục tìm kiếm ở những bụi cỏ. Tôi tự an ủi Chúa đã dạy: "Hãy tìm sẽ thấy". Nếu tôi cứ tiếp tục kiên trì tìm kiếm ở những bụi cỏ rồi tôi sẽ tìm thấy... những đồng bạc người ta đánh rơi.
Sau một hồi tìm kiếm khó nhọc, mặt cô bé đã lộ rõ thất vọng. Muốn cho em quên đi vật đã ám ảnh em, tôi nói:
- Này nhỏ, thôi đừng mất công tìm kiếm nữa. Gió đã thổi nó bay xuống hồ chìm mất tiêu rồi.
Cô bé vụt đứng dậy và chạy ngay đến sát bờ hồ, tôi vội chạy đuổi theo níu giữ em lại:
- Này nhỏ, em làm gì vậy?
Ðôi mắt cô bé mở to nhìn chăm chăm mặt hồ rộng, có những cụm sương trắng đục bay là là bên trên. Rồi em òa khóc. Biết mình đã nói lỡ lời, tôi ôm chặt vai em và bào chữa:
- Ðừng khóc nhỏ. Tôi chỉ đoán mò vậy thôi. Nó không bị gió thổi bay xuống hồ đâu. Có thể em đã đánh rơi nó ở một chỗ khác.
Cô bé vẫn nhìn chăm chăm mặt hồ. Mưa bay lướt thướt như những sợi tơ:
- Em cũng mong như lời ông nói. Nếu không...
- Lan Hương, về đi con.
Chúng tôi cùng quay lại và thấy bà vú đứng che dù ở ngoài xe đang giơ tay vẫy gọi. Cô bé nói:
- Thôi em về. Ngày mai em sẽ đi tìm ở một chỗ khác. Ông hứa tiếp tục tìm giúp em nghe.
Tôi vỗ nhẹ lên vai cô bé:
- Ðược rồi. Tôi hứa sẽ tiếp tục tìm giúp em.
Tôi đứng yên tại chỗ nhìn cô bé đi về phía bà vú. Khi bà nắm tay em dẫn lên xe, em còn quay lại nhìn tôi. Cửa xe đóng lại, động cơ nổ nhẹ, chiếc xe phóng vụt đi và tôi vẫn đứng yên. Tôi nhớ đến đôi mắt cô bé. đôi mắt kia không hiểu có ma lực gì mà nó đã mê hoặc tôi, bắt buộc tôi phải tiếp tục tham dự trò chơi tìm kiếm một cái gì đó đã mất một cách vô vọng và buồn cười.
"Ngày mai em sẽ đi tìm ở một chỗ khác".
Bây giờ tôi mới nhớ mình đã quên hỏi cô bé "chỗ khác" là chỗ nào? Chẳng biết em ở đâu, liệu tôi có còn dịp gặp lại em để cùng nhau đi tìm kiếm ở một chỗ khác?
Trong khi cô bé cắm cúi đi tìm một cái gì đã mất thì tôi lại lặn lội đi tìm người đã đánh mất một cái gì. Thế có khùng không?
Chương 4
Tôi khuấy đều hộp sơn màu trắng rồi nhúng cọ, quẹt thử một vệt lên hàng rào gỗ. Màu sơn còn quá nhạt, tôi đổ thêm một chút sơn đen vào hộp sơn rồi lại khuấy đều. Hàng rào làm bằng gỗ thông sơn trắng sẽ được dựng trên sân khấu ở màn đầu của vở kịch.
Tôi làm việc một mình ở cuối hậu trường, được ngăn cách với sân khấu bởi một tấm màn màu xám. Tôi nghe có tiếng những người đang tập kịch và thỉnh thoảng có tiếng Ðăng xen vào chỉ dẫn. Ðáng lẽ tôi ngồi ở hàng ghế khán giả để xem các bạn tập dượt. Nhưng tôi tránh xung đột ý kiến với Ðăng về những hành động của các nhân vật.
Một vở kịch khi trình diễn trên sân khấu, quyền hành không còn của tác giả mà của đạo diễn. Tôi biết vậy nhưng tránh sao khỏi đưa ra những ý kiến bênh vực cho nhân vật của mình đã sáng tạo ra, đang bị đạo diễn "sáng tạo" lại.
Ở hậu trường có một cánh cửa mở ra ngoài. Nắng buổi chiều hắt vào in một hình chữ nhật màu vàng đậm trên nền xi măng. Hình chữ nhật đó càng lúc càng thu nhỏ lại rồi biến mất lúc nào tôi không hay biết. Ðang sơn dở dang hàng rào gỗ, tôi nghe có tiếng Ðăng nói:
- Tạm ngưng đi. Tôi muốn giới thiệu cậu với các diễn viên.
Tôi quay lại hỏi Ðăng:
- Họ tập xong rồi à?
- Màn một tạm xong. Họ đang chuẩn bị về.
Tôi đứng dậy lấy khăn thấm dầu hôi lau sạch những vết sơn dính trên tay. Tôi hỏi:
- Trông được không?
Ðăng nhìn hàng rào gỗ còn ướt sơn, cười nói:
- Chính tay "tác giả" sơn, vậy khỏi sợ sai với kịch bản.
Tôi châm một điếu thuốc rồi theo Ðăng bước lên tam cấp ra sân khấu. Có năm người đang đứng uống nước giải khát quanh một cái bàn nhỏ. Tôi nhận ra một người quen là Trung, người trông coi ánh sáng. Tôi đã có dịp nói chuyện với anh vài lần, còn bốn người kia hoàn toàn xa lạ đây là buổi tập dượt sơ khởi, các diễn viên chưa hóa trang nên tôi không hiểu người nào đóng vai nào trong vở kịch của tôi.
Ðăng giới thiệu tôi là tác giả vở kịch rồi lần lượt giới thiệu những người kia. Người thanh niên cao có đôi mắt sắc, tên Huân. Người thanh niên nhỏ con có bộ râu rậm, tên Tường. Cô gái tóc dài có khuôn mặt hơi gầy, tên Liên và khi Ðăng chỉ tay giới thiệu cô gái cắt tóc ngắn, mặc áo dài vàng thì nàng xua tay:
- Anh Ðăng khỏi giới thiệu. Em biết ông ấy từ lâu rồi.
Ðăng ngạc nhiên hỏi lại:
- Biết từ lâu rồi?
Cô gái gật đầu, liếc nhìn tôi:
- Phải. Cách đây năm năm rồi. Ðúng không ông Trịnh?
Tôi nhìn sững cô gái rồi nói:
- Xin lỗi, tôi...
- Tôi là Hạnh, em anh Tuấn.
Tôi bật tiếng kêu:
- A! Tôi nhớ ra rồi. Hạnh thay đổi nhiều quá, tôi nhận không ra.
Cô gái cười nhếch môi:
- Không phải tại Hạnh thay đổi mà tại trí nhớ anh thay đổi. Nó không còn "tốt" như xưa.
Cả bọn bật cười. Ðăng nói:
- Thôi chúng ta về. Chiều mai tập tiếp. Các bạn nhớ đến đúng 2 giờ.
Anh quay sang hỏi tôi:
- Cậu cùng về với tôi chứ?
- Cậu định bắt tôi đi bộ à?
- Tôi sợ cậu tình nguyện đi bộ.
- Còn lâu.
Chúng tôi đi ra khỏi hậu trường. Bên ngoài lá thông kêu vo vo và nắng còn vàng ửng trên đỉnh một ngọn đồi phía xa. Tôi và Ðăng đi xe Vespa. Bốn người kia đi hai xe Honda, còn Hạnh đi bộ. Khi Ðăng nổ máy xe, tôi vỗ vai anh nói:
- Thôi để tôi đi bộ.
Ðăng mỉm cười, lắc đầu rồi rồ ga cho xe phóng đi. Tôi bước thật nhanh đuổi theo Hạnh đang đi trên lề đường lởm chởm đá sỏi. Có một bụi hoa marguerite trắng mọc lẻ loi ngoài hàng rào một ngôi nhà bên đường. Tôi dừng lại, hái một bông rồi đem đến tặng Hạnh:
- Xin lỗi, lúc nãy tôi thật tình không nhớ.
Hạnh vừa bước đi vừa xoay xoay đóa hoa màu trắng trong tay.
- Anh biết hoa marguerite có ý nghĩa gì không?
- Tôi vốn dốt về các loại hoa.
- Vậy tại sao anh tặng Hạnh bông hoa này?
- Tôi nghĩ nó sẽ đẹp hơn khi được Hạnh cầm trong tay.
Hạnh cười nhếch môi, chắc đấy là thói quen của nàng chứ nàng không có ý giễu cợt:
- Anh "nịnh đầm" giỏi lắm. Chẳng bù khi xưa miệng câm như hến.
- Ðấy cũng là nhờ Hạnh đã gợi ý cho tôi nói.
Chúng tôi đi bộ một đoạn đường dài. Buổi chiều xuống thấp dần. Trước khi leo lên một con dốc, tôi mời Hạnh vào ngồi nghỉ chân ở một quán kem. Tôi muốn có một chỗ ngồi để trò chuyên thoải mái, đồng thời tôi vừa nghe loáng thoáng từ trong quán vẳng ra bản nhạc Joe le taxi của cô bé Vanesse Paradis.
Ở Saigon lên đây gần hai tháng, tôi ít có dịp được nghe nhạc trẻ. Nhưng qua báo chí tôi được biết Vanessa Paradis lại vừa đoạt giải Cesar dành cho nữ diễn viên nhiều triển vọng. Em đã thành công rực rỡ ở tuổi 17, tôi muốn nghe lại bài hát đầu tiên của em ở tuổi 15. Tôi đã hơn em 10 tuổi, vậy mà tôi vẫn chưa làm được cái "bước đầu ngoạn mục" như em.
Người phục vụ bưng ra một ly kem dâu, một ly cafe đá, một đĩa bánh ngọt đặt lên trên mặt bàn mica trắng. Hạnh cầm muỗng khuấy ly cafe đá trong khi tôi vẫn mãi lắng nghe bài ca.
- Anh đang nhớ lại một kỷ niệm?
Tôi giật mình, trả lời:
- Hạnh có nhớ lần Tuấn chiêu đãi chúng ta đi ăn kem Bạch Ðằng ở Saigon? Hôm ấy chúng ta cũng đã ăn kem dâu.
Hạnh gõ gõ chiếc muỗng vào miệng ly kem của tôi:
- Anh hãy quên đi những ly kem kỷ niệm. Chúng đã tan hết rồi. Anh xem ly kem của anh chiều nay cũng sắp tan.
Tôi ngượng ngùng cầm muỗng xúc kem ăn rồi hỏi:
- Tuấn bây giờ ra sao?
- Anh Tuấn đã lập gia đình và có một cháu trai vừa đầy năm. Hiện anh đang sống ở Nha Trang.
- Ồ! Vậy mà Tuấn không báo tin mừng cho tôi biết.
- Biết anh ở đâu mà báo tin? Nhiều người còn đồn anh đã vượt biên.
Tôi bật cười làm miếng kem lạnh buốt trơn tuột vào cổ họng:
- Ước gì người ta đồn tôi đã có vợ rồi cho khỏe. Thật ra vì sinh kế tôi phải đi nhiều nơi để kiếm ăn. Còn Hạnh sao lưu lạc lên đây?
- Gia đình em đã chuyển về Nha Trang. Em lên đây để học đại học đã hai năm và ở trọ nhà bà dì.
- Khi còn ở Saigon, tôi và Tuấn thường đi xem kịch. Chưa bao giờ tôi thấy Hạnh cùng đi, vậy Hạnh đã "mê" kịch từ lúc nào?
Hạnh uống một ngụm cafe đá rồi lắc lắc mái tóc ngắn:
- Từ khi em lên đây. Thành phố này lạnh quá. Em muốn "đóng kịch" cho ấm người. Ðóng kịch ở ngoài đời riết thành quen, khi anh Ðăng mời lên sân khấu đóng kịch, em thấy cũng dễ dàng thôi. Không cần phải có mối "đam mê lớn" người ta mới đóng kịch được.
Tôi nhíu mày nhìn Hạnh. Ðôi mắt nàng mở to nhìn những đám mây trắng mỏng bay là là trên những chòm cây thông bên ngoài cửa sổ. Chắc Hạnh đã gặp chuyện gì buồn phiền khiến nàng phải nói ra những lời chua chát. Năm năm trước, tôi nhớ khi đến nhà Tuấn chơi, Hạnh thường đùa nghịch giấu đôi giày của tôi để ở trước cửa rồi bắt tôi chuộc lại bằng những bịch kẹo hay những ly chè. Tuấn phải la rầy em trong khi em cứ ôm bụng cười nắc nẻ. Vậy mà bây giờ...
Tôi muốn hỏi Hạnh cho rõ chuyện nhưng nghĩ chưa phải lúc. Ðâu phải khi nào người ta cũng dễ dàng giải bày tâm sự. Tôi lấy một chiếc bánh ngọt có phủ lớp kem dầy mời Hạnh. Nàng lắc đầu:
- Cám ơn. Em không thích ăn ngọt.
- Tôi nhớ hồi xưa Hạnh rất thích ăn kẹo và chè mà.
- Ðầu óc anh thật lạ. Chỉ nhớ những đồ ăn xưa còn người xưa thì lại quên.
Tôi cười:
- Cái gì vào bụng tôi, tôi khó quên.
- Còn vào tim anh?
- Thì tôi chết. May mắn thay chưa có cái gì "găm" vào tim tôi.
- Anh nói thật hay đóng kịch đấy?
- Hạnh hãy tin tôi đi. Tôi viết kịch để được đóng kịch trên sân khấu, khỏi phải đóng kịch ngoài đời.
- Em ráng tin anh là một người sống vô tư. Có lẽ nhờ vậy mà năm năm qua, anh chẳng già thêm.
- Còn tôi tin chắc chắn em đã trưởng thành hơn xưa.
Hạnh cười, nâng cao ly cafe đá:
- Già hơn xưa thì đúng hơn. Lên đây anh ở đâu?
Tôi nói địa chỉ cho Hạnh biết. Nàng bỏ ly cafe xuống bàn, trợn mắt hỏi:
- Anh dám ở ngôi nhà ma đó à?
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Em cũng biết ngôi nhà đó có ma?
- Khi em mới lên đây ở vài tháng thì vụ ông chủ nhà tự tử xảy ra. Thành phố này nhỏ, mọi người đều biết. Chính vì vậy mà ngôi nhà đó bán không được.
- Em đã vào trong ngôi nhà đó lần nào chưa?
- Em chỉ đi ngang qua chứ chưa có dịp vào bên trong.
- Vậy tại sao em biết nơi đó có ma?
- Người ta đồn như vậy.
- Lại tin đồn thất thiệt. Tôi ở đó cả tháng có thấy gì đâu. Không tin hôm nào em thử đến đó chơi.
- Ai mà dám đến đó chơi.
- Nơi tôi ở, em cũng không dám đến thăm?
- Anh đã ở thì lại là chuyện khác. Nhưng anh có thật lòng mong em đến thăm?
- Em nghi ngờ nhiều quá. Ðiều đó có thể giúp người ta khôn hơn nhưng cũng già đi.
- Ðược rồi. Sẽ có ngày "em đến thăm anh một chiều mưa".
Tôi cười, nói thêm:
- "Và quên đường về".
Hạnh lại cười nhếch môi.
- Ðời không giống như một bài hát mà giống như một vở kịch. Ðiều đó chắc anh rành hơn em.
- Ðúng. Trong những bài hát không có những món ăn. Còn bây giờ thì tôi đang đói bụng. Tôi mời em cùng đi ăn cơm tối.
Ðèn trong quán bật sáng. Hai chúng tôi đứng dậy bước ra ngoài. Bóng tối đã lẩn khuất ở dưới thung lũng thấp. Gió thổi mạnh ở phía sau lưng giúp chúng tôi bước đi nhanh hơn. Hạnh giữ lọn tóc khỏi bay vào mắt rồi quay sang tôi, hỏi:
- Ở ngôi nhà đó anh có gặp...
- Gặp ma à? Tôi đã nói không có mà.
- Không. Em muốn hỏi anh có gặp con nhỏ "mát".
Tôi dừng bước, hỏi:
- Con nhỏ "mát" là ai vậy?
- Con ông chủ đó.
- Em có biết cô bé ấy không?
- Em được người ta chỉ cho thấy một lần khi nó đi lang thang trên đồi cù. Phải công nhận con nhỏ trông rất đẹp. Chỉ tội nó "mát".
Tôi lầm bầm trong miệng vái trời đấy không phải là cô bé tôi đã gặp bên bờ hồ.