watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
17:11:5429/04/2025
Kho tàng truyện
Chỉ mục bài viết
Vết Sẹo Cánh Thiên Thần
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Tất cả các trang
Trang 10 trong tổng số 17

Chương 14

Tôi quay về căn nhà trại lúc gần tám giờ. Tra chìa khóa vào ổ, tôi xoay nắm đấm và dùng hông huých vào cửa. Tôi đã gọi điện cho mẹ vài tiếng trước bữa tối; bà đang ở cơ quan để giải quyết vài công việc còn dở, không chắc sẽ về lúc nào, và tôi nghĩ khi về mình sẽ thấy ngôi nhà chìm trong yên ắng, tối tăm và lạnh lẽo.
Ở cú huých thứ ba, cánh cửa đành chịu thua, tôi ném mạnh túi xách vào trong bóng tối rồi giật mình chiếc chìa khóa vẫn còn cắm trong ổ. Từ buổi tối Patch đến đây, ổ khóa ngày càng dở chứng. Không biết lúc nãy Dorothea đã nhận ra điều này chưa.
“Trả-tao-cái-chìa-khóa-ngu-xuẩn-đây!!!” Tôi nổi cáu, cố lắc lắc nó ra.
Chiếc đồng hồ quả lắc trong hành lang điểm chuông, tám tiếng đinh đong lớn dội lại xuyên qua không gian tĩnh lặng. Tôi đang vào phòng khách để nhóm lửa lò sưởi thì phía bên kia căn phòng vang lên tiếng vải sột soạt và tiếng cọt kẹt khe khẽ.
Tôi thét lên.
“Nora!” Mẹ tôi nói, gạt chăn ra và lồm cồm ngồi dậy trên ghế sofa. “Có chuyện gì thế con?”
Tôi đặt một tay lên ngực còn tay kia bấu vào tường để giữ thăng bằng. “Mẹ làm con sợ!”
“Mẹ ngủ quên mất.” Bà vén tóc và chớp chớp mắt nghiêm nghị. “Mấy giờ rồi?”
Tôi thả mình xuống chiếc ghế bành gần nhất và cố hít thở đều để nhịp tim trở lại bình thường. Tôi đã nghĩ đến cặp mắt tàn nhẫn đằng sau chiếc mặt nạ trùm kín. Vì chắc chắn rằng hắn không phải là sản phẩm do trí tưởng tượng của tôi tạo ra, tôi bỗng dưng muốn kể cho mẹ nghe mọi chuyện, từ chuyện hắn lao vào chiếc Neon đến chuyện Vee bị tấn công. Hắn đang theo dõi tôi, cái kẻ hung bạo ấy! Chúng tôi phải thay khóa cửa mới. Và có thể phải nhờ đến sự can thiệp của cảnh sát. Vào ban đêm, tôi sẽ thấy an toàn hơn nhiều nếu có một sĩ quan đỗ xe bên lề đường.
“Mẹ định nói với con chuyện này,” mẹ nói, cắt ngang dòng suy nghĩ của tôi, “nhưng mẹ không biết lúc nào là thích hợp.”
Tôi cau mày. “Có chuyện gì thế ạ?”
Bà cất tiếng thở dài, băn khoăn. “Mẹ đang định bán căn nhà trại này.”
“Gì ạ? Tại sao ạ?”
“Mẹ con ta đã vật lộn kiếm sống một năm nay, và mẹ không kiếm được nhiều tiền như mong đợi. Mẹ đang định tìm việc làm thêm, nhưng thực sự mẹ không chắc mình có đủ thời gian để làm không.” Bà cười buồn. “Lương của Dorothea không nhiều, nhưng đó là khoản tiền phụ trội mà chúng ta khó có thể chi trả nữa. Điều duy nhất mẹ có thể nghĩ tới là chuyển đến một căn nhà nhỏ hơn. Hoặc một căn hộ chung cư.”
“Nhưng đây là nhà của chúng ta mà mẹ!” Tất cả các ký ức của tôi đều ở đây. Ký ức về bố tôi cũng ở đây. Tôi không thể tin nổi là mẹ lại không nghĩ về điều ấy. Tôi sẽ làm bất cứ điều gì để được ở lại ngôi nhà yêu quý này.
“Mẹ sẽ đợi thêm ba tháng nữa,” bà nói. “Nhưng mẹ không muốn con nuôi hy vọng.”
Lúc đó tôi biết mình không thể kể cho bà nghe về kẻ trùm mặt nạ. Nếu không mai bà sẽ bỏ việc. Bà sẽ kiếm một công việc gần nhà, và lúc đó mẹ con tôi sẽ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bán căn nhà trại.
“Hãy nói về thứ gì đó tươi sáng hơn,” mẹ tôi nói và mỉm cười, “Bữa tối thế nào con?”
“Tốt ạ,” tôi buồn rầu nói.
“Còn Vee? Con bé thế nào rồi?”
“Mai nó đi học được rồi ạ.”
Mẹ tôi cười gượng. “May là nó chỉ bị gãy tay trái. Nếu không nó sẽ không thể viết bài được, và mẹ đã tưởng tượng ra điều đó sẽ khiến con bé thất vọng đến mức nào.”
“Ha, ha,” tôi nói. “Con đi pha socola nóng đây,” Tôi đứng dậy và chỉ tay vào bếp. “Mẹ muốn uống không?”
“Hay lắm, mẹ sẽ nhóm lửa.”
Sau một thoáng loay hoay trong bếp để lấy tách, đường cùng bột ca cao, tôi quay lại thì thấy mẹ đã đặt một ấm nước lên lò. Tôi ngồi ghé lên tay ghế sofa và đưa cho bà một cái tách.
“Làm sao mẹ biết được rằng mẹ yêu bố?” Tôi hỏi, cố ra vẻ tự nhiên. Hầu như lần nào nhắc đến bố, mẹ con tôi cũng sụt sùi nước mắt, tôi hy vọng lần này sẽ không thế.
Mẹ ngồi vào ghế sofa và gác chân lên. “Mẹ đã không biết. Cho đến khi bố mẹ lấy nhau được khoảng một năm.”
Đó không phải là câu trả lời mà tôi muốn nghe. “Vậy…sao mẹ lại lấy bố?”
“Vì mẹ đã tưởng là mẹ yêu bố con. Khi con nghĩ rằng con đang yêu, con sẽ sẵn sàng theo đuổi nó đến cùng và biến nó thành tình yêu thực sự.”
“Mẹ có sợ không?”
“Lấy bố con á?” Bà cười. “Đó là một điều thú vị. Đi mua váy cưới, đặt chỗ ở nhà thờ, đeo chiếc nhẫn nạm duy nhất một viên kim cương.”
Tôi hình dung ra nụ cười ranh mãnh của Patch. “Mẹ có bao giờ sợ bố không?”
“Mỗi khi đội New England Patriost thua thôi!”
Mỗi khi đội Patriost thua, bố tôi lại vào ga-ra và khởi động cưa xích. Hai mùa thu trước, ông đã lôi cái cưa xích vào khu rừng sau nhà tôi, đốn mười cái cây rồi chẻ chúng thành củi. Chúng tôi vẫn còn lại hơn một nửa đống củi để đốt.
Mẹ vỗ nhè nhẹ lên bên cạnh, và tôi ngồi vào đó, nép mình vào mẹ, dựa đầu lên vai bà. “Con nhớ bố,” tôi nói.
“Mẹ cũng thế.”
“Con sợ mình sẽ quên mất hình ảnh của bố. Không phải trong những bức ảnh, mà là trong một buổi sáng thứ bảy đẹp trời nào đó, bố mặc bộ đồ nỉ, đi quanh bếp làm món trứng bác cho mẹ con mình…”
Mẹ đan những ngón tay vào tay tôi. “Con lúc nào cũng giống bố con như đúc ấy.”
“Thật không ạ?” Tôi nhổm dậy. “Giống thế nào ạ?”
“Bố con là một học sinh giỏi, rất thông minh. Ông ấy không quá bóng bẩy hay quá bộc trực, nhưng mọi người đều tôn trọng bố con.”
“Bố có bao giờ…bí ẩn không?”
Dường như mẹ tôi đang nghĩ đến điều này. “Những người bí ẩn thường có rất nhiều bí mật. Bố con thì rất cởi mở.”
“Bố có bất trị không?”
Bà bật ra tiếng cười ngắn đầy ngạc nhiên. “Con có thấy bố con như thế không? Harrison Grey, nhân viên kế toán có đạo đức nhất trên thế giới…mà bất trị ư?” Bà thở hổn hển một cách cường điệu. “Lạy Chúa! Bố con một thời từng để tóc dài. Nó gợn sóng và vàng hoe – y như một vận động viên lướt sóng vậy. Tất nhiên là đôi kính gọng sừng của bố con chẳng hợp chút nào với dáng vẻ đó. Mà…mẹ có được quyền hỏi vì sao chúng ta lại nói về chủ đề này không?”
Tôi không biết phải giải thích với mẹ ra sao về những cảm xúc mâu thuẫn của mình dành cho Patch. Tôi không biết phải giải thích ra sao về Patch, thế đấy. Có lẽ mẹ sẽ muốn nghe tôi kể chi tiết về bố mẹ cậu ta, điểm phẩy của cậu ta, những môn thể thao nào cậu ta chơi ở trường, và cậu ta định nộp đơn vào trường đại học nào. Tôi không muốn làm bà lo lắng bằng cách nói rằng tôi sẵn sàng đặt cược cả con lợn đất của mình để cá là Patch từng có tiền sự. “Có một cậu bạn,” tôi nói, không thể ngăn lại một nụ cười khi nghĩ đến Patch. “Gần đây bọn con hay đi cùng nhau. Chủ yếu là vì việc học.”
“Ô, một cậu bạn!” Bà bí ẩn nói. “Thế nào? Cậu ấy ở trong Câu lạc bộ Cờ vua hả? Hay là Hội sinh viên? Hay là đội tennis?”
“Cậu ấy thích bi-a,” tôi lạc quan nói.
“”Một vận động viên bơi lội à! Cậu ấy có dễ thương như Micheal Phelps? Dĩ nhiên, mẹ luôn nghiêng về Ryan Lochte khi xét đến yếu tố ngoại hình.” {Trong tiếng
Anh, từ pool có nhiều nghĩa, nghĩa thứ nhất là trò bi-a, nghĩa thứ hai là hồ bơi.}
Tôi định đính chính lại lời mẹ. Nhưng nghĩ lại, có lẽ tốt nhất là không nên nói rõ ra. Bi-a, hồ bơi, bơi lội…cũng gần như nhau, phải không?
Bỗng chuông điện thoại reo và mẹ tôi vươn người qua ghế sofa để trả lời. Sau mười giây, bà ngồi phịch xuống ghế và vỗ tay lên trán. “Không, không sao đâu. Tôi sẽ qua đó, lấy nó, và sáng sớm mai sẽ mang nó đến.”
“Ông Hugo à mẹ?” Tôi hỏi sau khi bà gác máy. Hugo là sếp của mẹ tôi, và nói rằng ông ta là kẻ gọi điện luôn mồm vẫn còn là quá nhẹ. Có lần ông ta đã gọi mẹ tôi đi làm vào chủ nhật chỉ vì ông ta không biết sử dụng máy copy.
“Ông ấy để lại vài giấy tờ chưa hoàn thành ở văn phòng và cần mẹ xem xét. Mẹ phải copy chúng, nhưng mẹ sẽ không đi quá một tiếng đâu. Con làm xong bài chưa?”
“Chưa ạ.”
“Vậy mẹ có thể tự an ủi rằng dù mẹ ở nhà thì mẹ con ta cũng chẳng dành nhiều thời gian cho nhau được.” Bà thở dài và đứng lên. “Một tiếng nữa gặp lại con nhé?”
“Mẹ hãy đề nghị ông Hugo trả thêm tiền cho mẹ.”
Bà cười. “Thêm nhiều ấy chứ!”
Ngay khi chỉ còn lại một mình trong nhà, tôi dọn đĩa rếch khỏi bàn ăn để lấy chỗ đặt sách vở. Văn học, Lịch sử thế giới, Sinh học. Trang bị cho mình một cái bút chì số hai mới toanh, tôi giở cuốn sách trên cùng ra và bắt tay vào việc.
Mười lăm phút sau trí óc tôi bắt đầu nổi loạn, không chịu tiêu hóa thêm một đoạn lịch sử nói về nền phong kiến châu Âu. Không thể tin được. Ăn pizza và xem bóng rổ trên TV? Có lẽ, nhưng hình như không đúng lắm. Chơi cá cược và bi-a ở quán Bo’s? Có vẻ đó là một phán đoán đúng.
Không hiểu sao tôi lại rất muốn lái xe đến Bo’s như lần trước, nhưng ý nghĩ đó nhanh chóng lùi xa bởi một điều đơn giản là tôi không có thời gian. Mẹ sẽ về nhà trước khi tôi kịp thực hiện chuyến lái xe nửa tiếng đồng hồ đến đó. Chưa kể, Patch không phải là mẫu người để tôi có thể đi tìm. Trước đây, những cuộc gặp của chúng tôi đều diễn ra theo thời gian biểu của cậu ta, chứ không phải của tôi. Luôn là như vậy.
Tôi leo lên gác để thay bộ đồ thoải mái hơn. Tôi đẩy cửa phòng ngủ, bước ba bước vào phòng rồi chợt sững lại. Ngăn kéo tủ của tôi bị kéo xệch ra, quần áo vương vãi khắp nơi. Giường bị lột tung lên. Cửa tủ để đồ bị mở, xộc xà xộc xệch. Sách vở và khung ảnh bị vứt bừa trên sàn.
Tôi thấy bóng người chuyển động phía sau cửa sổ đằng sau bèn quay ngoắt lại. Hắn đứng dựa vào bức tường đằng sau tôi, từ đầu đến chân toàn đồ đen, đầu trùm mặt nạ kín mít. Óc tôi bị bao phủ trong một màn sương mù cuộn xoáy, nó vừa mới kịp truyền từ “chạy!” xuống đôi chân tôi thì hắn đã lao đến cửa sổ, mở nó rồi nhảy phốc ra ngoài.
Tôi nhảy ba bước một xuống cầu thang, chạy quanh thanh lan can rồi lao như bay trên hành lang vào bếp và ấn số 911.
Mười lăm phút sau một chiếc xe cảnh sát tấp vào lối xe chạy. Tôi run rẩy mở cửa và hai sĩ quan cảnh sát vào nhà. Viên sĩ quan bước vào đầu tiên thấp và chắc nịch với mái tóc muối tiêu. Người kia cao gầy với mái tóc đen gần bằng tóc Patch, nhưng được cắt ngắn quá tai. Thật lạ lùng, ông ta mơ hồ giống Patch. Nước da Địa Trung hải, khuôn mặt cân đối, đôi mắt sắc.
Họ tự giới thiệu bản thân – viên sĩ quan tóc đen là thám tử Basso. Đồng nghiệp của ông là thám tử Holstijic.
“Cháu là Nora Grey?” Thám tử Holstijic hỏi.
Tôi gật đầu.
“Bố mẹ cháu có nhà không?”
“Mẹ cháu vừa đi được vài phút thì cháu gọi cho 911.”
“Vậy cháu đang ở nhà một mình?”
Tôi lại gật đầu.
“Hãy kể cho chúng tôi chuyện vừa xảy ra đi!” Ông ta hỏi, khoanh tay và đứng dạng chân, trong khi thám tử Basso bước vài bước vào trong nhà và nhìn quanh.
“Cháu về nhà lúc tám giờ và làm một ít bài tập,” tôi nói. “Khi lên phòng ngủ, cháu đã thấy hắn. Mọi thứ bừa bộn khủng khiếp. Hắn đã phá tanh bành phòng cháu.”
“Cháu có nhận ra hắn không?”
“Hắn trùm mặt nạ kín. Mà lúc đó cháu lại chưa bật đèn.”
“Có dấu hiệu nổi bật nào không? Hình xăm chẳng hạn?”
“Không ạ.”
“Chiều cao? Cân nặng?”
Tôi miễn cưỡng lục tìm trong trí nhớ ngắn ngủi của mình. Tôi không muốn nhớ lại khoảng khắc đó, nhưng việc tôi nhớ ra được bất cứ manh mối nào là rất quan trọng. “Cân nặng trung bình, nhưng hơi cao. Gần bằng thám tử Basso.”
“Hắn có nói gì không?”
Tôi lắc đầu.
Thám tử Basso xuất hiện. “Mọi thứ ổn cả.” Nói rồi ông leo lên tầng hai. Ván sàn kêu cọt kẹt phía trên đầu khi ông đi dọc theo hành lang, mở và đóng các cánh cửa.
Thám tử Holstijic mở cửa trước và ngồi xuống kiểm tra chốt khóa. “Khi cháu về nhà, cửa có bị mở hay bị phá không?”
“Không ạ. Cháu đã mở khóa để vào. Mẹ cháu lúc đó đang ngủ trong phòng khách.”
Thám tử Basso xuất hiện trên đỉnh cầu thang. “Cháu chỉ cho chúng tôi thứ gì bị phá phách được không?”
Thám tử Holstijic và tôi cùng leo lên gác đến chỗ thám tử Basso, ông đang đứng ngay trong phòng ngủ của tôi với đôi tay chống nạnh, quan sát căn phòng.
Tôi đờ người ra, sống lưng lạnh toát. Giường tôi vẫn gọn gàng. Bộ đồ ngủ được xếp trên gối, nguyên vị trí như lúc tôi đặt chúng vào buổi sáng. Ngăn kéo tủ vẫn đóng, các khung ảnh được xếp ngay ngắn trên mặt tủ. Cái hòm ở chân giường cũng được đậy kín. Sàn nhà sạch sẽ. Rèm cửa sổ vẫn là những ô vải dài rủ xuống hai bên cánh cửa đang đóng.
“Cháu nói đã trông thấy kẻ xâm nhập?” Thám tử Basso hỏi và nhìn tôi chăm chăm với đôi mắt chăm chú không bỏ sót điều gì. Đôi mắt chuyên sàng lọc những lời nói dối.
Tôi bước vào phòng, nhưng nó không còn vẻ thoải mái và an toàn quen thuộc. Nó ẩn chứa một thông điệp ngầm đầy hiểm nguy. Tôi chỉ vào cửa sổ, cố giữ cho tay không run. “Cháu đi vào, thế là hắn nhảy qua cửa sổ.”
Thám tử Basso nhìn ra cửa sổ. “Quá xa mặt đất,” ông quan sát rồi cố mở nó ra. “Cháu có khóa cửa sổ sau khi hắn nhảy xuống không?”
“Không ạ. Cháu chạy xuống nhà và gọi 911.”
“Có người đã khóa nó.” Thám tử Basso vẫn nhìn tôi với đôi mắt sắc như dao cạo, miệng ông mím lại.
“Không thể tin nổi là có người lại thoát được sau một cú nhảy như thế,” thám tử Holstiji nói rồi đến bên người đồng nghiệp. “Quả là may mắn nếu hắn chạy thoát được với một cái chân gãy.”
“Có lẽ hắn không nhảy, có lẽ hắn đã trèo cây,” tôi nói.
Thám tử Basso quay ngoắt lại. “Nào? Vậy là thế nào? Hắn trèo hay nhảy? Hay là hắn đã xô vào cháu và chạy ra ngoài cửa trước? Nghe hợp lý đấy. Nếu là tôi thì tôi sẽ làm như vậy. Tôi sẽ hỏi một lần nữa. Hãy suy nghĩ thật cẩn thận. Tối nay cháu có thực sự thấy ai trong phòng mình không?”
Ông ta không tin tôi. Ông ta nghĩ tôi đang bịa chuyện. Trong một thoáng, tôi cũng muốn nghĩ như vậy. Tôi bị làm sao thế này? Sao thực tại của tôi cứ rối tinh như mớ bòng bong? Tại sao những sự thật không bao giờ ăn khớp với nhau? May mà tôi vẫn còn minh mẫn, và tôi tự nhủ vấn đề không phải đến từ bản thân mình. Là tại hắn. Cái kẻ trùm mặt nạ. Hắn đang làm thế này. Tôi không biết là bằng cách nào, nhưng chính hắn đã gây ra chuyện này.
Thám tử Holstijic phá vỡ không khí im lặng đầy căng thẳng bằng câu hỏi: “Bao giờ bố mẹ cháu về nhà?”
“Cháu sống với mẹ. Mẹ cháu phải ghé qua văn phòng một lát.”
“Bọn chú phải hỏi hai mẹ con cháu vài câu,” ông ta tiếp tục và ra hiệu cho tôi ngồi lên giường, nhưng tôi lặng lẽ lắc đầu. “Gần đây cháu có chia tay với bạn trai không?”
“Không ạ.”
“Ma túy thì sao? Cháu có từng dùng hay đang dùng ma túy không?”
“Không.”
“Cháu nói rằng cháu sống với mẹ. Thế còn bố cháu. Ông ấy đâu?”
“Chỉ là nhầm lẫn,” tôi nói. “Cháu xin lỗi. Đáng lẽ cháu không nên gọi điện.”
Hai sĩ quan nhìn nhau. Thám tử Holstijic nhắm mắt lại và xoa bóp đầu mắt. Thám tử Basso trông có vẻ như đã lãng phí quá đủ thời gian và đang sẵn sàng cáo lui.
“Chúng tôi còn có việc phải làm,” ông ta nói. “Cháu có thể ở nhà một mình cho đến khi mẹ cháu về không?”
Tôi hầu như không nghe thấy ông ta nói gì; tôi không thể rời mắt khỏi cửa sổ. Hắn đã làm thế nào? Mười lăm phút. Hắn có mười lăm phút để tìm cách quay trở vào trong và dọn dẹp lại căn phòng trước khi cảnh sát đến. Và suốt lúc đó tôi đang ở dưới nhà. Suốt lúc đó chỉ có riêng tôi và kẻ đáng sợ đó ở trong nhà với nhau! Tôi rùng mình.
Thám tử Holstijic đưa danh thiếp ra. “Khi nào mẹ cháu về, cháu bảo bà gọi điện cho chúng tôi được không?”
“Không cần tiễn đâu,” thám tử Basso nói. Ông ta đã đi được nửa hành lang.

Chương 15

“Cậu nghĩ Elliot đã giết ai đó hả?”

“Suỵt!” Tôi ra hiệu với Vee, nhìn quanh dãy bàn thí nghiệm để chắc chắn rằng không ai nghe thấy được.
“Ôi, mình xin lỗi, cưng ạ, nhưng chuyện này đang bắt đầu trở nên kỳ cục. Đầu tiên cậu ta tấn công mình. Giờ thì cậu ta biến thành sát thủ. Mình xin lỗi, nhưng Elliot ư? Một kẻ giết người ư? Cậu ta là, ôi, anh chàng dễ thương nhất mà mình từng gặp đấy! Lần cuối cậu ta quên mở cửa cho cậu là khi nào? Ôi, phải rồi…không bao giờ, đúng không?”
Hai đứa tôi đang ở lớp Sinh học, và Vee đang nằm ngửa trên bàn. Chúng tôi làm thí nghiệm về huyết áp – Vee có nhiệm vụ phải nằm im trong năm phút. Bình thường tôi sẽ làm việc với Patch, nhưng thầy đã cho chúng tôi một ngày tự do, nghĩa là chúng tôi được tự do ghép đôi để thực hành. Vee và tôi đang ở cuối lớp, còn Patch đang làm việc với một thành viên của đội thể thao tên là Thomas Rookery ở đầu lớp.
“Cậu ta từng bị tình nghi trong một vụ giết người,” tôi thì thầm, cảm thấy đôi mắt của thầy McConaughy đang hướng về phía mình. Tôi viết ngoáy vài chữ lên tờ giấy ghi kết quả thí nghiệm: Đối tượng thí nghiệm bình tĩnh và thư giãn. Đối tượng thí nghiệm đã nhịn nói trong ba phút rưỡi. “Cảnh sát cho rằng cậu ta có động cơ và phương tiện.”
“Cậu có chắc đấy là Elliot này không?”
“Cậu nghĩ có bao nhiêu Elliot Saunders ở trường Kinghorn vào tháng hai?”
Vee nhịp nhịp ngón tay lên bụng. “Điều này quả thực rất rất khó tin. Với lại dù sao đi nữa, cậu ấy bị tình nghi thì có sao nào? Điều quan trọng là cậu ấy đã được thả. Họ không thấy cậu ấy có tội.”
“Bởi vì cảnh sát đã tìm thấy thư tuyệt mệnh của Halverson.”
“Halverson nào?”
“Kjirsten Halverson,” tôi kiên nhẫn nói. “Cô gái được cho là đã tự treo cổ.”
“Có thể cô ấy đã tự treo cổ thật. Ý mình là, ngộ nhỡ một ngày cô ấy nói “Ôi, cuộc đời thật tồi tệ”, và treo cổ lên một cái cây thì sao? Chuyện đó vẫn thường xảy ra mà?”
“Thế tại sao căn hộ của cô ấy lại có dấu hiệu bị đột nhập khi họ phát hiện ra bức thư tuyệt mệnh?”
“Cô ấy sống ở Portland. Những vụ đột nhập vẫn thường xảy ra mà!”
“Mình nghĩ có người đã đặt bức thư vào đó. Ai đó muốn Elliot thoát tội.”
“Ai muốn Elliot thoát tội thế?” Vee hỏi.
Tôi làm bộ ngớ ngẩn.
Vee chống khuỷu tay lành lặn để nhỏm dậy. “Thế ý cậu là Elliot đã lôi Kjirsten đến một cái dây, buộc dây thừng vào cổ cô ấy, treo cô ấy lên, rồi đột nhập vào căn hộ của cô ấy và dựng lên bằng chứng cho một vụ tự tử à?”
“Sao lại không?”
Vee đáp lại vẻ mặt làm bộ ngớ ngẩn của tôi: “Cảnh sát đã phân tích mọi thứ. Nếu họ kết luận đó là một vụ tự tử, thì mình cũng tin như vậy.”
“Thế còn điều này thì sao?” Tôi nói. “Chỉ vào tuần sau khi được ra khỏi diện tình nghi, Elliot đã chuyển trường. Sao lại có người chuyển từ trường dự bị Kinghorn đến trường Coldwater chứ?”
“Cậu cũng có lý đấy.”
“Mình nghĩ cậu ta đang cố trốn tránh quá khứ. Elliot cảm thấy không thoải mái khi phải học ở ngôi trường nơi cậu ta đã giết Kjirsten. Lương tâm cậu ta bị dằn vặt.” Tôi gõ bút chì lên môi. “Mình cần đến Kinghorn để hỏi mấy thứ. Kjirsten mới chết tháng trước, mọi người chắc vẫn còn bàn tán về chuyện đó.”
“Mình không biết, Nora. Mình cảm thấy việc tiến hành thăm dò ở Kinghorn không ổn chút nào. Ý mình là, cậu định hỏi cặn kẽ về Elliot à? Nếu cậu ấy phát hiện ra thì sao? Cậu ấy sẽ nghĩ gì?”
Tôi nhìn xuống nó. “Nếu Elliot phạm tội thì cậu ta mới là người phải lo lắng.”
“Và rồi cậu ấy sẽ giết cậu để bịt miệng!” Vee nhe răng cười giống hệt con mèo Cheshire . Tôi thì không. “Mình cũng nóng lòng muốn biết kẻ nào đã tấn công mình như cậu vậy,” nó tiếp tục với một giọng nghiêm túc hơn, “và mình dám lấy tính mạng ra mà thề rằng đó không phải là Elliot. Mình đã nghĩ đi nghĩ lại, ờ, đến hàng trăm lần. Đó không phải là cậu ta. Thậm chí cũng chẳng có gì tương đồng. Hãy tin mình.” {Mèo Cheshire: Là chú mèo nổi tiếng trong truyện Alice ở xứ sở thần tiên của nhà văn Lewis Carroll, rất đặc trưng với điệu cười nhe răng toe toét.}
“Ừ thì có thể Elliot không tấn công cậu,” tôi nói, cố nhượng bộ Vee – nhưng không có nghĩa là tôi đã coi Elliot vô tội. “Nhưng vẫn có rất nhiều bằng chứng chống lại cậu ta. Thứ nhất, cậu ta liên quan đến một vụ án mạng. Thứ hai, cậu ta hầu như lúc nào cũng quá tử tế. Thật đáng sợ. Và thứ ba, cậu ta là bạn thân của Jules.”
Vee cau mày. “Jules? Jules thì sao?”
“Cậu không thấy kỳ cục khi mỗi lần chúng ta đi với họ, Jules đều chuồn mất à?”
“Thế có nghĩa là gì?”
“Tối hôm bọn mình đến Delphic, Jules bỏ đi gần như ngay lập tức để vào nhà vệ sinh. Cậu ta có quay lại không? Sau khi mình đi mua kẹo bông, Elliot có tìm thấy cậu ta không?”
“Không, nhưng mình cho rằng đó là vì Jules có vấn đề về tiêu hóa.”
“Rồi, tối hôm qua, cậu ta lại cáo ốm một cách khó hiểu.” Tôi cọ cục tẩy bút chì dọc theo sống mũi, nghĩ ngợi. “Dường như cậu ta bị ốm quá nhiều.”
“Mình nghĩ cậu đang phân tích vấn đề này hơi thái quá rồi đấy. Có lẽ…có lẽ cậu ấy bị mắc chứng IBS chăng?”
“IBS?”
“Hội chứng ruột kích thích.”
Tôi chẳng để ý mấy đến điều Vee vừa nói vì còn mải bận tâm đến một ý nghĩ chợt thoáng qua trong óc. Trường dự bị Kinghorn rõ ràng cách trường tôi một giờ xe chạy. Nếu ngôi trường đó có tiếng là khắt khe như Elliot tuyên bố, sao Jules lúc nào cũng có thời gian lái xe đến thăm Coldwater? Hầu như sáng nào trên đường đến trường tôi cũng thấy cậu ta ở quán Enzo’s Bistro với Elliot. Thêm nữa, cậu ta còn đưa Elliot về nhà sau khi tan học. Như kiểu Elliot nắm được Jules trong lòng bàn tay vậy.
Nhưng đó chưa phải là tất cả. Tôi cọ cục tẩy vào mũi mình mạnh hơn. Tôi đang bỏ sót điều gì nhỉ?
“Sao Elliot lại giết Kjirsten?” Tôi thốt ra lời băn khoăn. “Có thể cô ấy đã thấy Elliot làm điều gì đó bất hợp pháp, và cậu ta giết cô ấy để bịt miệng.”
Vee buông một tiếng thở dài. “Chuyện này đang bắt đầu trở nên hoàn toàn vô nghĩa rồi đấy.”
“Còn có điều gì đó. Điều gì đó mà chúng ta chưa rõ.”
Vee nhìn tôi như thể logic của tôi đang tha thẩn đâu đó ngoài vũ trụ. “Về phần mình, mình nghĩ cậu đang tưởng tượng quá nhiều. Giống như một cuộc truy lùng phù thủy vậy.”
Và rồi đột nhiên tôi biết mình đang bỏ sót thứ gì. Nó đã thôi thúc tôi cả ngày, vẫy gọi tôi từ sâu trong tâm trí, nhưng tôi lại bị lấn át bởi quá nhiều thứ khác nên không chú ý đến. Thám tử Basso đã hỏi tôi có mất thứ gì không. Bây giờ thì tôi đột nhiên nhớ ra rằng mình có mất một thứ. Tôi đã đặt bài báo về Elliot lên mặt bàn trang điểm tối qua. Nhưng sáng nay – tôi lục lại trí nhớ để chắc chắn thêm – nó đã biến mất! Hoàn toàn biến mất!
“Ôi trời ơi,” tôi nói. “Elliot đã đột nhập vào nhà mình đêm qua. Chính là cậu ta! Cậu ta đã ăn cắp bài báo!” Vì bài báo đó được đặt ở nơi dễ thấy, nên rõ ràng lý do Elliot phá phách phòng tôi là để khiến tôi kinh hãi – một cách trừng phạt vì lúc trước tôi đã tìm thấy bài báo.
“Hơ, gì thế?” Vee nói.
“Có chuyện gì thế?” Thầy hỏi, tiến đến đứng cạnh tôi.
“Ừ, có chuyện gì thế?” Vee hùa theo. Nó chỉ và cười tôi sau lưng thầy.
“Dạ…Đối tượng thí nghiệm hình như không có mạch đập,” tôi nói, véo vào cổ tay Vee một cái thật đau.
Khi thầy kiểm tra mạch đập của Vee, nó làm những cử chỉ ngất xỉu và tự quạt quạt cho mình. Thầy hướng dẫn mắt nhìn tôi qua phía trên cặp kính. “Xem đây Nora. Mạch đập rất mạnh và khỏe. Em có chắc là đối tượng thí nghiệm đã ngừng hoạt động, bao gồm cả nói chuyện, trong suốt năm phút liền không? Mạch đập không chậm như tôi tưởng.”
“Đối tượng thí nghiệm đã phải cực kỳ cố gắng với bước không nói chuyện,” Vee xen vào. “Và đối tượng thí nghiệm đang cực kỳ khó chịu khi phải nằm thư giãn trên cái bàn thí nghiệm cứng như đá này của lớp Sinh học. Đối tượng thí nghiệm muốn xin đổi vai để Nora có thể là đối tượng thí nghiệm mới.” Vee lấy bàn tay lành lặn bám vào tôi và đứng dậy.
“Đừng khiến tôi hối hận vì đã cho phép các em tự chọn đôi thực hành với nhau,” thầy bảo chúng tôi.
“Đừng làm em hối tiếc vì đã đi học ngày hôm nay,” Vee duyên dáng nói.
Thầy chiếu vào nó một tia nhìn cảnh cáo rồi cầm tờ kết quả thí nghiệm của tôi lên, lướt mắt qua tờ giấy gần-như-trắng-tinh.
“Đối tượng thí nghiệm coi những giờ thực hành Sinh học như là việc sử dụng quá liều một loại thuốc giảm đau cực mạnh,” Vee nói.
Thầy tuýt còi, và cả lớp đổ dồn mắt về phía chúng tôi.
“Patch?” Thầy nói. “EM lại đây được không? Có vẻ chúng ta đang gặp rắc rối với việc chia cặp thực hành.”
“Em chỉ đùa thôi,” Vee lập tức nói. “Đây – em sẽ làm thí nghiệm ạ.”
“Đáng lẽ em nên nghĩ thế mười lăm phút trước,” thầy nói.
“Xin thầy tha cho em!” Con bé chớp mắt ngây thơ.
Thầy nhét quyển vở xuống dưới cánh tay lành lặn của nó. “Không.”
Xin lỗi! Vee ngoảnh lại mấp máy với tôi khi miễn cưỡng đi lên dãy bàn trên.
Một lát sau Patch đến ngồi bên cạnh tôi. Cậu ta kẹp hờ tay giữa hai đầu gối và cứ nhìn tôi chăm chăm.
“Gì thế?” Tôi nói, cảm thấy luống cuống dưới cái nhìn đó.
Cậu ta cười. “Mình đang nhớ lại đôi giày da cá mập. Tối qua.”
Như thường lệ, Patch lại làm tôi bối rối, và như thường lệ, tôi không tài nào phân biệt nổi cảm giác đó là tốt hay là xấu.
“Buổi tối hôm qua của cậu thế nào?” Tôi hỏi, giọng cố tỏ ra bình thường. Chuyến đi dò la tối qua vẫn lơ lửng một cách khó chịu giữa hai chúng tôi.
“Thú vị. Còn cậu?”
“Không ổn lắm.”
“Bài tập về nhà khó nhằn lắm à?”
Patch đang chế nhạo tôi.

“Mình không làm bài tập.”
Cậu ta có nụ cười của một con cáo. “Thế cậu “làm” ai?”
Trong một thoáng tôi không nói được gì. Tôi đứng đó, miệng hé mở. “Đó có phải là một lời bóng gió không?”
“Chỉ tò mò muốn biết đối thủ của mình là ai thôi.”
“Người lớn hơn đi.”
Cậu ta nhe răng cười. “Đừng căng thẳng thế!”
“Mình vừa gặp rắc rối với thầy, vì thế hãy tha cho mình và tập trung vào thí nghiệm đi. Mình không muốn làm đối tượng thí nghiệm, vì vậy nếu cậu không phiền…” tôi nhìn thẳng xuống bàn.
“Không thể,” Patch nói. “Mình không có tim.”
Tôi tự nhủ rằng cậu ta không nói theo nghĩa đen.
Tôi nằm lên bàn và đặt tay lên bụng. “Hãy bảo mình khi hết năm phút.” Tôi nhắm mắt lại, không muốn thấy đôi mắt đen thẳm của Patch nhìn như xoáy vào mình.
Vài phút sau, tôi hé mở một bên mắt.
“Hết giờ,” Patch nói.
Tôi giơ cổ tay lên để cậu ta có thể bắt mạch cho tôi.
Patch cầm lấy tay tôi, một cảm giác nóng bừng lan lên cánh tay và kết thúc với một cú quặn thắt ở bụng.
“Mạch của đối tượng tăng lên khi tiếp xúc,” Patch nói.
“Đừng viết thế!” Tôi định kêu lên một cách phẫn nộ. Nhưng chẳng hiểu sao giọng tôi lúc ấy lại nghe như đang cố nén một nụ cười.
“Thầy muốn bọn mình phải làm cho cẩn thận.”
“Cậu muốn gì?” Tôi hỏi.
Patch nhìn vào mắt tôi. Cậu ta đang cười thầm. Tôi có thể nhận ra điều đó.
“Ngoại trừ, cậu biết đấy, chuyện đó,” tôi nói.

***
Sau giờ học tôi ghé qua văn phòng của cô Greene theo lịch hẹn. Ngày trước, cuối mỗi buổi học, Tiến sĩ Hendrickson luôn để ngỏ cửa – một lời mời không lời dành cho các học sinh ghé qua. Bây giờ, mỗi lần tôi đi qua đoạn hành lang này, cô Greene đều đóng cửa im im. Nó ám chỉ Đừng làm phiền.
“Nora,” cô nói rồi mở cửa sau tiếng gõ của tôi. “Em vào và ngồi xuống đi.”
Hôm nay văn phòng của cô đã được sắp xếp và trang trí hẳn hoi. Cô đã mang vài cái cây và một dãy tranh tĩnh vật đóng khung được treo thành hàng phía trên bàn làm việc.
Cô Greene nói: “Cô đã nghĩ nhiều về những lời em nói tuần trước. Cô đã đi đến kết luận rằng mối quan hệ của chúng ta cần được xây dựng trên sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau. Chúng ta không nhắc đến bố em nữa, trừ phi em đề cập đến.”
“Vâng ạ,” tôi thận trọng nói. Vậy chúng tôi sẽ nói về chuyện gì đây?
“Cô vừa nghe được một tin đáng thất vọng.” Nụ cười của cô Greene chợt tắt. Cô cúi về phía trước, chống khuỷu tay lên bàn, lăn cây bút giữa lòng bàn tay. “Cô không muốn can thiệp vào đời tư của em, Nora, nhưng cô nghĩ mình có quyền quan tâm đến mối quan hệ của em với Patch.”
Tôi không rõ cô Greene sẽ đưa chuyện này đi đến đâu. Và, thực sự thì, đó có phải là việc của cô ấy không? “Em vẫn chưa kèm cậu ấy.”
“Tối thứ bảy Patch đã đưa em về nhà từ hải cảng Delphic. Và em đã mời cậu ấy vào nhà.”
Tôi cố nén lại một lời phản đối. “Sao cô biết ạ?”
“Một phần công việc của bác sĩ tâm lý trường học là khuyên bảo và chỉ dẫn cho các em,” cô Greene nói. “Hãy hứa với cô rằng em sẽ rất cẩn thận khi ở bên Patch, Nora nhé.” Cô nhìn tôi như thể cô đang thực sự chờ đợi một lời hứa từ tôi.
“Cũng khá rắc rối ạ,” tôi nói. “Em bị kẹt lại ở Delphic. Em không có lựa chọn nào khác. Không phải em tìm cơ hội để được ở bên Patch.” Chà, ngoại trừ tối qua ở
Borderline. Nhưng tại tôi thực sự không nghĩ là mình sẽ gặp Patch! Tôi cứ tưởng hôm qua là ngày nghỉ của cậu ta.
“Cô rất vui khi nghe thấy em nói thế,” cô Greene đáp, nhưng có vẻ cô không tin lắm vào sự ngây thơ của tôi. “Gác lại chuyện đó qua một bên đã, hôm nay em có muốn nói chuyện gì không? Em có băn khoăn vướng mắc gì không?”
Tôi không định kể cho cô Greene về vụ Elliot đột nhập vào nhà tôi. Tôi không tin tưởng cô ấy lắm. Tôi không biết vì sao, nhưng ở cô ấy có điều gì đó làm tôi khó chịu. Và tôi không thích cái kiểu cô cứ bóng gió cho rằng Patch nguy hiểm nhưng lại không nói lý do vì sao. Như thể cô ấy đang có kế hoạch gì đó vậy.
“Không ạ,” tôi nói rồi nhấc ba lô lên và mở cửa.

HOMECHAT
1 | 1 | 171
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com