Trên đường lái xe về, Patch chọn lối rẽ Topsham và đỗ xe gần nhà máy giấy Topsham lịch sử bên bờ sông Androscoggin. Nhà máy này từng được dùng để chế biến bột thành giấy. Bây giờ, một tấm biển lớn đã chăng ngang sườn tòa nhà với dòng chữ CÔNG TY RƯỢU BIA HẢI CẨU. Dòng sông mênh mông gợn sóng, hàng cây bên bờ chìm khuất trong màn đêm đang dần buông… Trời vẫn mưa rất to, và đêm nay ngày càng mịt mùng. Tôi phải về nhà truớc khi mẹ tôi về. Tôi vẫn chưa nói với bà là tôi đi chơi bởi vì… ừ, sự thực là, Patch không phải kiểu người mà các bà mẹ tán thành. Cậu ta thuộc kiểu người sẽ khiến họ thay ổ khóa nhà ngay lập tức. “Bọn mình mua đồ ăn về được không?” Tôi hỏi. Patch mở cửa bên ghế lái. “Cậu muốn ăn gì?” “Sandwich gà tây. Nhưng không dưa góp. À, và không xốt mayonnaise nhé.” Hình như tôi lại nhận được một nụ cười kín đáo của cậu ta. Hình như tôi đã nhận được rất nhiều nụ cười như vậy. Lần này, tôi không biết là mình đã nói gì. “Mình sẽ ra ngoài xem,” Patch nói.
Patch vẫn cầm chìa khóa xe và hệ thống sưởi vẫn chạy. Mấy phút đầu, tôi nghĩ lại về buổi tối của chúng tôi. Và rồi tôi chợt nhận ra mình chỉ có một mình trong chiếc xe Jeep của Patch. Chốn riêng tư của con người ấy. Nếu tôi là Patch, khi muốn giấu thứ gì đó cực kỳ bí mật, tôi sẽ không giấu nó trong phòng, trong tủ để đồ ở trường hay trong ba lô, vì tất cả những thứ đó có thể bị tịch thu hay kiểm tra mà không báo trước. Tôi sẽ giấu nó trong chiếc xe Jeep đen bóng của tôi với hệ thống báo động tinh vi. Tôi tháo dây an toàn và lục lọi đống sách gần chân, mường tượng về một nụ cười bí ẩn nở ra trên miệng khi khám phá ra một trong những bí mật của Patch. Tôi không mong tìm được thứ gì cụ thể; tôi chỉ cần có được số khóa tủ để đồ hay điện thoại di động của cậu ta. Dò dẫm quanh những bài tập cũ ngổn ngang trên sàn xe, tôi thấy một chai xịt phòng mùi gỗ thông dìu dịu, một đĩa CD Highway to Hell AC/DC, những mẩu bút chì và một hóa đơn cửa hàng 7-Eleven ngày thứ tư lúc 10:18 tối. Chẳng có gì đặc biệt. Tôi mở ngăn chứa đồ trên xe và giở qua cuốn sách giáo khoa phẫu thuật cùng những giấy tờ khác. Có ánh chromem và những đầu ngón tay tôi chạm phải một vật bằng kim loại. Tôi lôi ra một cái đèn pin bằng thép và bật nó lên nhưng không thấy sáng. Tôi vặn đuôi đèn ra, nghĩ rằng cái đèn pin hơi nhẹ, và quả thực là nó không có pin. Tôi tự hỏi tại sao Patch lại giữ một cái đèn pin không dùng được trong ngăn chứa đồ. Đó là ý nghĩ cuối cùng của tôi trước khi mắt tôi hướng đến chất lỏng gì đó màu rỉ sét đã khô ở một đầu của đèn pin. Máu! Rất cẩn thận, tôi cất cái đèn pin vào ngăn chứa đồ và đóng nó lại. Tôi tự nhủ có rất nhiều thứ có thể dây máu lên một cái đèn pin. Chẳng hạn như cầm nó bằng một bàn tay bị thương, dùng nó để gạt một con vật bị chết vào lề đường, hay là… vung mạnh nó vào một thân người nhiều lần cho đến khi thân người đó bị thương. Tim đập thình thịch, tôi chộp ngay lấy kết luận đầu tiên nảy ra trong óc. Patch đã nói dối. Cậu ta đã tấn công Marcie! Tối thứ tư cậu ta đã đưa tôi về, rồi đổi xe máy lấy xe Jeep và đi tìm Marcie. Cũng có thể họ tình cờ gặp nhau và cậu ta đã hành động trong cơn bốc đồng. Dù thế nào, Marcie cũng đã bị thương, cảnh sát đã vào cuộc, còn Patch thì có tội.
Lý trí mách bảo đó là một kết luận vội vàng và cảm tính, nhưng cảm xúc của tôi lại cho rằng lúc này mọi chuyện đã trở nên quá nguy hiểm để dừng lại và suy nghĩ cẩn thận. Patch có một quá khứ đáng sợ và rất rất nhiều bí mật. Nếu hành hung người vô cớ và tàn bạo là một trong những bí mật ấy, tôi thật không an toàn chút nào khi đi riêng với cậu ta. Một tia sét lóe sáng nơi chân trời xa xôi. Patch ra khỏi nhà hàng và đi bộ qua bãi đỗ xe, một tay cầm cái túi màu nâu còn tay kia cầm hai lon soda. Chui vào trong chiếc xe Jeep, cậu ta bỏ mũ ra và giũ nước mưa khỏi tóc. Mái tóc đen bồng bềnh vẩy những giọt nước li ti ra xung quanh. Cậu ta đưa cho tôi cái túi nâu. “Một sandwich gà tây, không nước sốt và dưa góp, cùng vài thứ để nuốt trôi chúng đấy.” “Cậu có tấn công Marcie Millar không?” Tôi khẽ hỏi. “Mình muốn biết sự thật – ngay bây giờ!” Patch bỏ lon 7UP khỏi miệng. Mặt cậu ta nhìn xoáy vào tôi. “Cái gì?” “Chiếc đèn pin trong ngăn chứa đồ của cậu. Giải thích đi.” “Cậu đã lục ngăn chứa đồ của mình?” Giọng Patch không hẳn là bực mình, nhưng cũng chẳng mấy dễ chịu. “Có vết máu khô dính trên đèn pin. Lúc nãy cảnh sát đã đến nhà mình. Marcie bị tấn công tối hôm thứ tư, ngay sau khi mình kể với cậu là mình không thể chịu nổi cô ta. Họ nghĩ mình có dính líu đến vụ này.” Patch bật ra tiếng cười cộc lốc, thiếu hẳn sự vui vẻ thường thấy. “Cậu nghĩ mình dùng đèn pin để đánh Marcie?” Cậu ta với tay ra sau ghế và lôi ra một khẩu súng lớn. Tôi thét lên. Patch vươn người sang và lấy tay bịt miệng tôi. “Súng của trò bắn đạn sơn,” cậu ta nói, giọng lạnh đi. Tôi hết nhìn khẩu súng lại nhìn Patch, cảm thấy mắt mình trợn tròn lên. “Tuần này mình vừa chơi bắn đạn sơn,” cậu ta nói. “Hình như mình đã kể với cậu rồi.” ” Đ… điều đó không giải thích cho vết máu trên đèn pin.” “Không phải máu,” cậu ta nói, “là sơn đấy. Bọn mình đang chơi Cướp cờ.”
Tôi nhìn lại ngăn chứa đồ đang cất đèn pin. Đèn pin là… lá cờ. Một cảm giác vừa nhẹ nhõm, vừa ngốc nghếch, lại vừa tội lỗi khi buộc tội Patch lan tỏa trong tôi. “Ôi”, tôi yếu ớt nói. “Mình… xin lỗi.” Nhưng cũng có vẻ như quá muộn để xin lỗi. Patch nhìn đăm đăm về phía trước qua cửa kính chắn gió, thở mạnh. Tôi tự hỏi không biết có phải cậu ta đang dùng sự im lặng để xả giận không. Rốt cuộc thì tôi vừa mới buộc tội cậu ta hành hung người khác. Điều đó thật tồi tệ, nhưng tâm trí tôi quá bối rối nên không thể đưa ra một lời xin lỗi tử tế. “Từ những lời cậu kể về Marcie, có vẻ cô ta đã tích lũy được vài kẻ thù đấy nhỉ,” Patch nói. “Mình chắc rằng Vee và mình đứng đầu tiên trong danh sách,” tôi nói, cố làm mọi thứ trở nên nhẹ nhõm, nhưng cũng không hoàn toàn là đùa. Patch dừng lại khi về đến nhà tôi. Chiếc mũ lưỡi trai sụp xuống tận mắt, nhưng giờ miệng cậu ta đã cười tủm tỉm một cách… khiêu gợi. Đôi môi ấy thật mềm mại và mịn màng, làm tôi thấy khó mà ngoảnh đi. Trên hết, tôi thấy cảm kích vì dường như cậu ta đã bỏ qua chuyện vừa rồi. “Mình sẽ phải luyện tập nhiều cho cậu trò bi-a, Thiên thần ạ.” Patch nói. “Nhắc đến bi-a,” tôi hắng giọng. “Mnh muốn biết khi nào và bằng cách nào cậu định đòi… thứ mà mình nợ cậu.”
“Không phải tối nay.” Mắt cậu ta nhìn tôi chăm chú, phán đoán phản hồi của tôi. Tôi vừa nhẹ nhõm lại vừa thất vọng. Chủ yếu là thất vọng. “Mình có một thứ dành cho cậu,” Patch nói rồi thò tay xuống gầm ghế lấy ra một cái túi giấy màu trắng in hình những quả ớt đỏ. Một cái túi đựng đồ ăn mang đi của cửa hàng Borderline. Cậu ta đặt nó giữa chúng tôi. “Gì thế?” Tôi hỏi, nhòm vào trong túi, hoàn toàn không biết bên trong có thể là thứ gì. “Mở ra đi.” Tôi lôi một chiếc hộp màu nâu xinh xắn ra khỏi túi và mở nắp. Trong đó có một quả cầu tuyết chứa mô hình công viên giải trí Hải cảng Delphic mini bên trong. Những sợi dây đồng được uốn cong thành một vòng tròn tượng trưng cho trò đu quay khổng lồ, những vòng xoắn là trò đi xe lửa, còn những mảnh kim loại dẹt tạo nên trò cưỡi Thảm thần. “Đẹp quá,” tôi nói, hơi ngạc nhiên khi Patch đã nghĩ về tôi, lại còn mua cho tôi một món quà nữa. “Cảm ơn cậu. Thực sự đấy. Mình thích lắm.” Cậu ta chạm vào quả cầu thuỷ tinh. “Đó là Archangel, trước khi nó được cải tạo.” Đằng sau chiếc đu quay khổng lồ là một sợi dây mỏng uốn lượn tạo nên những ngọn đồi và thung lũng của trò Archangel. Một thiên thần với đôi cánh gãy đứng ở đỉnh cao nhất, cúi đầu nhìn xuống đất, không thấy mặt. “Chuyện gì đã thực sự xảy ra vào cái đêm bọn mình chơi trò đó?” Tôi hỏi. “Cậu không muốn biết đâu.” “Nếu cậu kể với mình, cậu sẽ phải giết mình sao?” Tôi nửa đùa nửa thật. “Chúng ta không chỉ có một mình,” Patch trả lời, nhìn qua kính chắn gió.
Tôi ngẩng lên và thấy mẹ tôi đang đứng bên ngưỡng cửa. Tôi hoảng hốt khi thấy bà bước ra và tiến lên gần chiếc xe Jeep. “Hãy để mình nói chuyện với bà,” tôi nói, nhét quả cầu tuyết trở lại hộp. “Đừng nói gì – dù chỉ một lời!” Patch nhảy ra và đi vòng sang mở cửa cho tôi. Chúng tôi gặp mẹ tôi ở giữa lối xe chạy. “Mẹ không biết là con đi chơi,” bà bảo tôi, mỉm cười, nhưng đó không phải là nụ cười dễ chịu. Nụ cười ấy ám chỉ: Mẹ con mình sẽ nói chuyện sau. “Đến phút cuối con mới quyết định đi ạ,” tôi giải thích. “Mẹ về nhà ngay sau khi tập yoga,” bà nói. Vế sau của câu nói ám chỉ: May mắn cho mẹ, nhưng không may mắn cho con. Tôi cứ nghĩ là mẹ sẽ đi bù khú với bạn bè sau khi tan lớp. Mười hôm thì có đến chín hôm như thế. Bà chuyển sự chú ý sang Patch. “Rất vui khi cuối cùng cũng được gặp cháu. Rõ ràng con gái cô hâm mộ cháu đến cuồng nhiệt.” Tôi mở miệng định giới thiệu qua quýt và đuổi Patch về, nhưng mẹ tôi đã nhanh hơn: “Cô là mẹ của Nora. Blythe Grey.” “Đây là Patch mẹ ạ,” tôi nói, lục lọi trong óc xem phải nói gì để khéo léo chấm dứt cuộc đối thoại này thật nhanh. Nhưng điều duy nhất mà tôi có thể nghĩ ra là hét lên Cháy! hoặc giả vờ bị chóang. Không hiểu sao, cả hai cách đó đều là có vẻ đáng xấu hổ hơn là đương đầu với cuộc trò chuyện giữa Patch và mẹ tôi. “Nora kể với cô cháu là vận động viên bơi lội,” mẹ tôi nói. Tôi cảm thấy Patch đang cười rung lên bên cạnh. “Một vận động viên bơi lội ạ?”
“Cháu ở trong đội bơi lội của trường hay trong liên đoàn thành phố?” “Cháu bơi để… tiêu khiển nhiều hơn ạ,” Patch nói, nhìn tôi đầy nghi vấn. “Tiêu khiển cũng tốt,” mẹ tôi nói. “Cháu bơi ở đâu? Ở câu lạc bộ bơi lội à?” “Cháu là người thích các hoạt động ngoài trời hơn. Sông và hồ ạ.” “Không lạnh sao?” Mẹ tôi hỏi. Bên cạnh tôi, Patch giật nảy mình. Tôi tự hỏi mình đã bỏ qua điều gì. Cuộc đối thoại này dường như chẳng có gì bất thường cả. Và rồi tôi chợt nhận ra: Maine không phải là một vùng nhiệt đới ấm áp. Bơi lội ngoài trời sẽ rất lạnh, ngay cả trong mùa hè. Nếu Patch thực sự thường bơi lội ở sông hồ, cậu ta hẳn phải là một kẻ điên khùng hoặc chí ít cũng mình đồng da sắt. “Thôi thôi!” Tôi nói, lợi dụng lúc cả ba đều im lặng. “Patch phải đi rồi mẹ ạ.” Đi đi! Tôi mấp máy môi với cậu ta. “Một chiếc xe Jeep rất đẹp,” mẹ tôi nói. “Bố mẹ cháu đã mua cho cháu à?” “Cháu đã tự mua nó.” “Vậy chắc cháu có đi làm?” “Cháu làm nhân viên dọn bàn ở quán Borderline.” Patch đang nói ít hết mức, cẩn thận giữ mình trong bí ẩn. Không biết cuộc sống của cậu ta ra sao khi cậu ta không ở bên tôi. Sâu thẳm trong tâm trí, tôi không thể ngừng nghĩ về quá khứ đáng sợ của Patch. Trước đây, tôi luôn muốn được khám phá chúng, có lẽ vì tôi muốn chứng tỏ với Patch và với cả bản thân rằng tôi có thể hiểu được cậu ta. Nhưng lúc này, tôi muốn biết những bí mật ấy bởi chúng là một phần của cậu ta. Và dù tôi luôn cố phủ nhận, tôi vẫn có một thứ cảm xúc gì đó dành cho Patch. Càng ở gần cậu ta, tôi càng biết rằng cảm xúc đó luôn vương vấn trong mình.
Mẹ tôi cau mày. “Cô hy vọng công việc sẽ không làm cháu xao lãng chuyện học hành. Theo ý cô, học sinh không nên đi làm trong năm học. Cháu đã có quá nhiều việc quan trọng cần lo rồi.” Patch cười. “Đó không phải là vấn đề ạ.” “Cô có thể hỏi về điểm phẩy của cháu không?” Mẹ tôi nói. “Như thế có quá bất lịch sự không nhỉ?” “Ôi, muộn rồi!” Tôi nói to, nhìn vào cái đồng hồ tưởng tượng trên tay. Tôi không thể tin nổi là mẹ lại quá căng thẳng về vấn đề này. Đó là một dấu hiệu xấu. Ấn tượng ban đầu của bà về Patch còn tệ hơn những gì tôi đã lo lắng. Đây không phải là một cuộc gặp gỡ và giới thiệu. Nó giống như một cuộc phỏng vấn hay hỏi cung. “Hai phẩy hai ạ,” Patch nói. Mẹ tôi nhìn cậu ta chằm chằm. “Cậu ấy đùa đấy mẹ ạ,” tôi nói nhanh rồi bí mật huých Patch về phía chiếc xe Jeep. “Patch có việc cần làm. Cần đi đâu đó. Chơi bi-a…” Tôi đưa tay bịt miệng. “Bi-a?” Mẹ tôi nói, vẻ khó hiểu. “Nora đang nhắc đến quán Bo’s ạ,” Patch giải thích. “Nhưng cháu không định đến đó. Cháu cần phải làm vài việc.”
“Mẹ chưa bao giờ đến Bo’s,” bà nói. “Nó chẳng thú vị chút nào,” tôi nói. “Mẹ chẳng có gì phải tiếc cả?” “Chờ đã,” mẹ tôi nói, như thể một lá cờ đỏ vừa phất lên trong trí nhớ của bà. “Nó nằm bên bờ biển đúng không? Gần hải cảng Delphic à? Vài năm trước từng có một vụ đọ súng ở Bo’s phải không?” “Giờ nơi đó tử tế hơn nhiều rồi ạ,” Patch nói. Tôi lườm cậu ta vì đã cướp lời tôi. Tôi đã định phủ nhận hoàn toàn chuyện Bo’s từng bị mang tiếng là nơi bạo lực. “Cháu muốn vào ăn kem không?” Mẹ tôi hỏi. Bà hơi ngập nhừng vì nửa muốn tỏ ra lịch sự với khách, nửa lại muốn lôi tôi vào trong và chốt cửa lại. “Nhà cô chỉ có kem vani thôi,” bà nói thêm để lời mời bớt hấp dẫn. “Nó đã để được vài tuần rồi.” Patch lắc đầu. “Cháu phải đi rồi. Có lẽ để lần sau ạ. Cháu rất vui khi được gặp cô. Cô Blythe.”
Nhân lúc cuộc đối thoại tạm ngưng, tôi kéo mẹ về phía cửa trước, lòng thấy nhẹ hẳn đi vì cuộc trò chuyện không quá tệ như đáng lẽ nó phải thế. Đột nhiên mẹ tôi ngoảnh lại. “Tối nay cháu và Nora đã làm gì?” Bà hỏi Patch. Patch nhìn tôi và khẽ nhướng mày. “Bọn con ăn tối ở Topsham,” tôi đáp nhanh. “Sandwich và soda. Một buổi tối hoàn toàn vô hại.” Vấn đề là, những cảm giác tôi dành cho Patch không vô hại.
Chương 19
Tôi để quả cầu tuyết vào trong và nhét nó vào tủ quần áo sau một chồng áo len có hoa văn hình quả trám mà tôi đã lấy của bố. Khi tôi mở món quà trước mặt Patch, Delphic trông thật lung linh và xinh đẹp, những chiếc cầu vồng xoắn bằng dây kim loại tỏa sáng lấp lánh. Nhưng lúc này, khi tôi còn lại một mình trong phòng, trông nó rờn rợn và ma quái. Một nơi trú ngụ lý tưởng cho những linh hồn đã lìa khỏi xác. Và tôi không chắc liệu trong đó có giấu cái camera nào không. Sau khi thay một cái áo hai dây co giãn và quần ngủ in hoa, tôi gọi cho Vee. “Sao?” Nó nói. “Mọi chuyện thế nào? Rõ ràng hắn không giết cậu, thế là một khởi đầu tốt đấy.” “Bọn mình đã chơi bi-a.” “Cậu ghét bi-a mà!” “Cậu ta đã dạy mình chút ít. Bây giờ khi đã biết chơi, mình thấy nó cũng không tệ lắm.” “Mình cá là hắn còn có thể dạy cậu vài chuyện khác trong đời nữa đấy.” “Hừm.” Nếu là lúc bình thường, lời nhận xét của nó ít nhất cũng có thể khiến tôi đỏ mặt, nhưng lúc này tâm trạng của tôi quá nặng nề. Tôi đang mải suy nghĩ. “Mình biết mình đã nói điều này rồi, nhưng Patch không đem lại cho mình cảm giác dễ chịu và an toàn,” Vee nói. “Mình vẫn gặp ác mộng về gã trùm mặt nạ. Trong một cơn ác mộng, hắn đã lột mặt nạ, và cậu có biết đó là ai không? Là Patch. Theo mình, cậu nên coi hắn như một khẩu súng đã nạp đạn. Ở hắn có điều gì đó không bình thường.”
Đây chính là điều tôi muốn nói đến. “Thứ gì sẽ gây nên một vết sẹo hình chữ V trên lưng người ta?” Tôi hỏi nó. Một thoáng im lặng. “Chúa ơi,” Vee nói như bị nghẹt thở. “Cậu đã thấy hắn khỏa thân? Chuyện đó xảy ra lúc nào? Trong xe Jeep của hắn? Nhà của hắn? Hay phòng ngủ của cậu hả?” “Mình không thấy Patch khỏa thân! Đó chỉ là tình cờ thôi.” “À há, mình từng nghe lời biện bạch này rồi,” Vee nói. “Cậu ta có một vết sẹo lớn hình chữ V ngược trên lưng. Điều đó có hơi kỳ cục không?” “Dĩ nhiên là kỳ cục. Nhưng bọn mình đang nói chuyện về Patch mà! Hắn là người có phần lập dị. Mình thử đoán xem sao nhé… ẩu đả giữa các băng nhóm? Hay là vết tích từ trong tù? Hay vết bánh xe cán lên người từ một cú đâm-xe-rồi-bỏ trốn?” Một nửa trí óc tôi tập trung vào cuộc đối thoại với Vee, nhưng nửa còn lại, thuộc về tiềm thức, đã vẩn vơ nghĩ về chuyện khác. Trí nhớ tôi quay lại cái đêm Patch thách tôi chơi trò Archangel. Tôi nhớ lại những bức tranh kỳ cục và đáng sợ trên thành toa xe. Tôi nhớ lại những con quỷ có sừng đang xé đôi cánh của một thiên thần. Tôi nhớ tới hình chữ V ngược màu đen ở nơi đôi cánh thiên thần từng hiện diện.
Tôi suýt nữa đánh rơi điện thoại. “X… xin lỗi, cậu nói gì cơ?” Tôi hỏi Vee khi chợt nhận ra nó đã nói thêm gì đó và đang đợi tôi tiếp lời. “Chuyện gì. Xảy ra. Tiếp theo?” Nó lặp lại, nhấn mạnh từng từ. “Cậu có nghe mình không đấy, Nora? Mình muốn nghe chi tiết. Mình đang nóng lòng đây?” “Cậu ta đánh nhau và bị rách áo. Hết chuyện. Chẳng có cái điều-gì-xảy-ra-tiếp-theo nào cả.” Vee hít vào một hơi. “Đây là điều mình muốn nói đến đấy. Hai người bọn cậu đi chơi cùng nhau… và hắn đánh nhau? Hắn làm sao thế? Hắn giống thú hơn là giống người thì phải.” Tôi cứ nghĩ đi nghĩ lại từ vết sẹo của thiên thần trong bức tranh tới vết sẹo của Patch. Cả hai đều đã liền và biến thành màu cam thảo, cả hai đều chạy từ xương bả vai xuống vùng thắt lưng, và cả hai đều cong cong khi chúng chạy dọc theo chiều dài của lưng. Có thể việc những bức tranh ở trò Archangel miêu tả hoàn hảo vết sẹo của Patch chỉ là một sự trùng hợp đến rùng mình. Có thể có nhiều nguyên nhân gây ra những vết sẹo như thế. Ẩu đả giữa các băng nhóm, những vết tích trong tù, vết bánh xe cán lên – như Vee nói chẳng hạn. Nhưng, tất cả những lý do đó dường như đều không đúng. Như thế sự thật đang nhìn thẳng vào mặt tôi, nhưng tôi không đủ can đảm để nhìn lại. “Hắn là một thiên thần sao?” Vee hỏi.
Tôi giật mình. “Cái gì?” “Hắn tốt bụng như thiên thần, hay hắn sống theo đúng hình ảnh gã trai bất hảo của hắn? Bởi vì, thực ra mà nói, mình không tin hắn không nhúng tay tý nào vào toàn bộ câu chuyện này.” “Vee! Mình cần phải đi.” Giọng tôi như bị mắc một đống mạng nhện. “Mình biết mà! Cậu sẽ gác máy trước khi mình biết được chi tiết vấn đề nghiêm trọng này.” “Chẳng có gì xảy ra trong cuộc hẹn cả, và sau đó cũng vậy. Mẹ mình đã gặp bọn mình trước cửa nhà.” ”Thôi đi!” “Mình không nghĩ là bà thích Patch.” “Thật không!” Vee nói. “Ai mà biết được?” “Mai mình sẽ gọi lại cho cậu, được không?” “Chúc ngủ ngon, cưng.’
Còn lâu, tôi nghĩ. Sau khi gác máy, tôi bước vào phòng làm việc của mẹ tôi và khởi động chiếc máy IBM cổ lỗ. Căn phòng thật nhỏ, mái nhà lại dốc, nên trông giống một cái đầu hồi hơn là một căn phòng. Khung cửa sổ bóng loáng với những tấm rèm màu cam nhạt từ những năm 1970 trông ra cái sân bên cạnh. Trong khoảng không gian chiếm một phần ba diện tích căn phòng, tôi có thể đứng thẳng người, hai phần ba còn lại, đỉnh đầu tôi sẽ chạm phải xà nhà. Một cái bóng đèn không có chao lủng lẳng treo trên đó. Mười phút sau máy tính đã kết nối với Internet, và tôi gõ cụm từ “những vết sẹo cánh thiên thần” vào thanh tìm kiếm Google. Ngón tay tôi do dự trên phím enter, sợ rằng nếu thực hiện động tác này, tôi sẽ phải thừa nhận rằng tôi đang thực sự cân nhắc khả năng Patch… không phải… con người. Tôi nhấn phím enter và nhấp chuột vào đường dẫn đầu tiên trước khi kịp ngăn mình lại.
NHỮNG THIÊN THẦN SA NGÃ: MỘT SỰ THỰC ĐÁNG SỢ Thuở Vườn địa đàng mới được tạo lập, những thiên thần trên trời được phái xuống Trái Đất để trông nom Adam và Eve. Tuy nhiên, vài thiên thần trong số đó lại sớm để mắt đến thế giới bên ngoài những bức tường của khu vườn. Họ tưởng tượng mình là chủ nhân tương lai của cư dân trên Trái Đất, họ thèm muốn quyền lực, tiền bạc và thậm chí là những người đàn bà trần gian. Họ cùng nhau dụ dỗ và thuyết phục Eve ăn trái cấm, mở cánh cổng bảo vệ Vườn địa đàng. Để trừng phạt tội lỗi khủng khiếp này và tước đi trách nhiệm của họ, Chúa đã tước đôi cánh thiên thần của họ và đày họ xuống trần gian mãi mãi. Các thiên thần sa ngã – còn được gọi là các linh hồn tội lỗi (hay ác quỷ) - được miêu tả trong Kinh Thánh như những kẻ chiếm đoạt cơ thể con người. Các thiên thần sa ngã lang thang trên Trái Đất tìm kiếm cơ thể con người để quấy nhiễu và kiểm soát. Chúng dụ dỗ con người làm điều ác bằng cách truyền trực tiếp những ý nghĩ và hình ảnh vào đầu óc họ. Nếu một thiên thần sa ngã biến đổi thành công một con người thành ác quỷ, hắn có thể chui vào cơ thể của người đó rồi điều khiển tính cách và hành động của anh ta hay cô ta. Tuy nhiên, các thiên thần sa ngã chỉ có thể sở hữu được cơ thể con người trong tháng Cheshvan theo lịch Do Thái. Cheshvan, được biết đến với tên gọi “tháng đẩng,” là tháng duy nhất của người Do Thái không có hội hè hay ăn chay, khiến nó trở thành một tháng tội lỗi khủng khiếp. Giữa ngày trăng non và trăng tròn trong tháng, các thiên thần sa ngã sẽ ồ ạt chiếm đoạt cơ thể con người.
Vài phút sau khi đọc xong, tôi vẫn nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. Tôi không nghĩ gì cả. Không. Chỉ là một mớ cảm xúc đang hỗn độn trong minhg. Những cảm giác ớn lạnh, kinh hoàng và nhiều linh cảm xấu. Rồi một luồng điện chạy dọc sống lưng tôi. Mấy lần tôi đều chắc chắn rằng Patch đã phá vỡ các phương thức giao tiếp thông thường và truyền những lời thì thầm vào thẳng tâm trí tôi, giống như những thiên thần tội lỗi mà bài báo nhắc tới. So sánh thông tin này với những vết sẹo trên lưng Patch, có lẽ nào… Patch là một thiên thần tội lỗi? Có lẽ nào cậu ta muốn sở hữu cơ thể tôi? Tôi lướt nhanh qua phần còn lại của bài báo, rồi ngừng lại khi đọc được một điều còn kỳ quái hơn. Thiên thần sa ngã nào có quan hệ với người phàm trần sẽ sinh ra một giống người siêu phàm gọi là Nephillim. Người Nephillim là một giống người xấu xa và dị thường. Họ không bao giờ được phép sinh sống trên Trái Đất. Dù nhiều người tin rằng trận Đại Hồng Thuỷ ở thời Noah là nhằm quét sạch người Nephillim trên mặt đất, nhưng chúng ta không có cách nào biết được liệu giống người lai này đã bị tuyệt chủng hay chưa và kể từ hồi đó các thiên thần sa ngã có tiếp tục quan hệ với người trần nữa hay không. Dường như theo logic, họ sẽ vẫn tiếp tục làm điều đó, có nghĩa là giống người Nephillim ngày nay có khả năng vẫn còn tồn tại trên Trái Đất.
Tôi bật ngửa ra sau. Tôi nhét tất cả những gì vừa đọc được nhét vào một tệp tin trong óc đóng dấu hai chữ RÙNG RỢN vào đó. Bây giờ tôi không muốn nghĩ về nó nữa. Tôi sẽ xem xét nó sau. Có lẽ thế. Điện thoại rung lên trong túi làm tôi giật nảy mình. “Bọn mình đã thống nhất rằng quả bơ là màu xanh hay màu vàng ấy nhỉ?” Vee hỏi. “Mình đã ăn đủ khẩu phần quả màu xanh trong ngày hôm nay, nhưng nếu cậu bảo là quả bơ màu vàng mình sẽ tiếp tục.” “Cậu có tin vào các siêu nhân không?” “Sau khi mình thấy anh chàng Tobey Maguire đẹp trai trong phim Người nhện thì có. Và cả Christian Bale nữa chứ. Già hơn, nhưng vẫn rất hấp dẫn. Giá mà chàng ấy cứu mình từ tay những tên ninja có kiếm nhỉ…” {Nam diễn viên đóng vai Người dơi trong hai bộ phim Batman begins và The dark knight} “Mình đang nghiêm túc đấy.” “Mình cũng thế.” “Lần cuối cậu đi nhà thờ là khi nào?” Tôi hỏi.
Tôi nghe thấy nó thổi vỡ đánh bụp một cái bong bóng kẹo cao su. “Chủ nhật.” “Cậu nghĩ Kinh thánh có đúng không? Ý mình là, cậu nghĩ những câu chuyện trong đó có thật không?” “Mình nghĩ mục sư Calvin thật là tuyệt vời. So với lứa tuổi trung niên. Câu nói đó gần như đã tổng kết cho niềm tin tôn giáo của mình.” Sau khi gác máy, tôi về phòng và trùm kín chăn. Tôi đắp thêm một cái chăn nữa để xua đi cái lạnh đột ngột. Không biết vì căn phòng lạnh hay cảm giác ớn lạnh đang lan tỏa từ sâu thẳm trong tôi. Tôi không chắc lắm. Những từ đầy ám ảnh như “thiên thần sa ngã”, “chiếm đoạt con người” và “Nephillim” làm giấc ngủ của tôi cứ chập chờn, chập chờn…