Chương 3b
Siêu-loại hầu thở dài nói với Minh-Ðệ:
- Cô nương đã muốn dấu thân phận thì thôi. Nhưng thưa cô nương, không biết cơ duyên nào mà cô nương lại được gặp Ưng-sơn song hiệp. Già này cũng không rõ cô nương đã làm gì cho hai vị đệ nhất danh nhân đương thời này vui lòng, rồi truyền thụ võ công cho cô nương, mà chính cô nương cũng không biết? Cô nương thử xét xem, nếu không phải Ưng-sơn song hiệp truyền thụ võ công cho cô nương, thì sao cô nương lại có bản lĩnh cao đến như thế? Kìa, xá đồ Trịnh Phúc luyện võ với lão đã trên mười năm, thế mà không chịu nổi hai chiêu của cô nương.
Ông nhìn thẳng vào mặt Minh-Ðệ:
- Cái vụ làng xử cô nương bị đánh côn, già này cũng bỏ qua, và kính cẩn mời cô nương trở về chùa Từ-quang. Nếu cô nương gặp lại sư phụ, xin nói dùm: già này có lời vấn an, và khấu đầu trăm lạy để tạ tội về vụ không quản chế học trò, thành ra chúng vô lễ với cô nương.
Ông nói với Ðoàn Quang-Minh:
- Người mau đem con trâu mộng ra biếu tiểu cô nương, để tạ tội cho các sư đệ.
Minh-Ðệ lắc đầu:
- Thưa cụ cháu không dám đâu. Cụ bán trâu thì cháu xin mua, chứ cụ cho thì cháu không dám nhận đâu.
- Thôi được. Bay đâu, lấy tám lạng bạc trả lại cô nương, rồi nhận nén bạc.
Minh-Ðệ cứu được con trâu thì mừng vô kể. Nàng cùng bà Ðinh rời đại sảnh, rồi cùng đám trẻ dắt trâu thư thả về chùa.
Minh-Ðệ với bà Ðinh về tới chùa, thì thấy trong sân người tụ họp khá đông. Nguyên sau khi bà Ðinh với Minh-Ðệ bị bắt đi rồi, thì những người làm công quả trong chùa vội thông báo cho thiện nam tín nữ. Họ kéo nhau lên chùa, để hỏi cho ra lẽ nguyên ủy sự việc. Vừa lúc đó thì đại sư Viên-Chiếu cùng chư đệ tử trở về. Nghe mỗi người nói một đằng, đại sư không hiểu cái gì đã xẩy ra. Ông định truyền cho đệ tử lên bảo điện nhập thiền, rồi ông sẽ cùng mấy đệ tử đến dinh Trung-nghĩa để hỏi thăm tin tức. Mọi việc vừa xong thì Minh-Ðệ cùng bà Ðinh với năm trẻ dắt trâu về trong dáng an nhàn.
Ðám Phật tử kinh ngạc hỏi:
- Sao, cụ Trung-nghĩa xử sao?
Bà Ðinh tường thuật chi tiết cho mọi người nghe. Ðám Phật tử chùa Từ-quang bàn tán không ít về Minh-Ðệ. Họ đều biết nàng tới chùa làm công quả lâu rồi, nhưng họ không biết rõ chân tướng nàng. Bây giờ nghe bà Ðinh kể, họ đều tin rằng nàng phải đi ở, và quê mãi trong Thanh-hóa.
Sư ông Thiện-Căn vẫy Minh-Ðệ:
- Sư phụ truyền cháu lên bảo điện gặp người.
Minh-Ðệ bước lên bảo điện, liếc mắt qua, nàng thấy đầy đủ tăng chúng trong chùa, cùng đông đảo Phật tử, tất cả đang nhập thiền. Nàng đảnh lễ với đại sư Viên-Chiếu, rồi quỳ gối chờ đợi.
Một lát sau Viên-Chiếu mở mắt ra, ông hỏi:
- Con hãy tường thuật chi tiết về vụ hai quý nhân đến cư ngụ trong chùa hơn tháng cho thầy nghe.
Minh-Ðệ thuật lại, không dấu diếm một điều gì, rồi nàng hỏi:
- Bạch thầy, ông bà này xưng là sư đệ của thầy, vậy ông bà tên thực là gì?
Viên-Chiếu lắc đầu:
- Ta không hề quen biết hai người này. Họ cũng chưa từng đến chùa Từ-quang bao giờ, thế mới lạ chứ. Ta độ chừng họ biết ta đi vắng, nên đến đây với một chủ tâm khác hơn là lễ Phật. Hà, không biết họ là ai?
Minh-Ðệ kinh hãi hỏi:
- Trời ơi. Không lẽ ông bà ấy đói quá, nói dối vậy để kiếm ăn?
Nói đến đây nàng biết không phải, vì ông bà cho nàng số vàng bạc, mà nếu dùng để ăn uống, thì nàng ăn cả đời cũng không hết.
Viên-Chiếu hỏi:
- Trong những ngày ở đây, ông bà ấy có lên bảo điện lục lọi gì không?
- Bạch thầy, thường vào lúc chuông thu không, ông bà đều lên bảo điện ngồi thiền cho đến khuya, có khi tới sáng. Những lúc đó, ông bà bảo con với bà Ðinh cứ đi ngủ, không phải ứng hầu.
Viên-Chiếu cau mặt lại, tỏ vẻ khó hiểu, lát sau nói:
- Cái người đánh xe cho ông bà ấy, con cho anh ta ở đâu?
- Bạch thầy sau khi đến chùa, thì anh ta đánh xe đi mất. Tới ngày ông bà lên đường, anh ta mới trở lại.
Nàng đem số vàng, bạc ông bà quý nhân tặng, trình cho Viên-Chiếu:
- Bạch thầy, lúc ra đi, ông bà có cho con ba nén vàng, mười nén bạc. Con đã mua con trâu mất hai lạng, còn lại con xin gửi trả chùa.
Viên-Chiếu vẫy tay:
- Ông bà ấy cho con, chứ không phải cúng dàng cho chùa. Con cầm lấy mà chi dùng.
Minh-Ðệ cung tay:
- Bạch thầy, duyên khởi của đám vàng bạc này là ở điểm ông bà ấy đến sống ở trong chùa hơn tháng. Con lại sống dưới hào quang Tam-bảo, vì vậy con xin cúng dàng Tam-bảo.
- Không, thầy không nhận đâu.
Nét mặt ông trở thành từ ái, nhìn Minh-Ðệ:
- Thôi, việc xong rồi, con có thể lui.
Minh-Ðệ hành lễ, rồi lui ra ngoài làm việc.
Viên-Chiếu gọi năm trẻ lại. Ông cật vấn chúng về những gì xẩy ra khi ông vắng chùa. Chúng nhất nhất thuật lại không thiếu chi tiết nào.
Minh-Ðệ hoang mang vô hạn. Nàng nghĩ thầm: rõ ràng hai ông bà ấy là người tử tế. Ông bà dạy nội công, dạy võ công cho nàng, rồi còn cho nàng vàng bạc quá nhiều, như vậy ông bà là người tốt, chứ đâu phải người xấu? Nhưng tại sao ông bà lại đánh lừa nàng?
Suốt đêm đó nàng trằn trọc không ngủ được, tự nghĩ:
- Vàng bạc trong người ta không phải do ta mà có. Vàng bạc này do ông bà ấy đến chùa, ở trong chùa, ăn uống của chùa rồi cho ta, tức là ông bà ấy cúng dường. Nhưng thầy không nhận, thôi thì ta đem bỏ vào trong phúc-sương, như vậy sau này các thầy mở thùng ra, thì cho là của thập phương.
Nghĩ là làm, nàng rón rén lên bảo điện, móc vàng bỏ vào phúc-sương. Nhưng miệng phúc-sương nhỏ quá, bỏ vào không lọt. Nàng nghĩ:
- Làm sao bây giờ? À hôm trước ta lau tượng ngài Quan-Thế-Âm, thấy tượng rỗng bên trong. Vậy ta gói tất cả lại, rồi bỏ vào bụng tượng, như vậy là êm đẹp.
Nàng khẽ vận sức cho tượng Quan-Thế-Âm nghiêng đi, rồi bỏ vàng, bạc vào đấy. Xong việc, nàng về phòng, rồi thiu thiu ngủ. Không biết nàng ngủ trong bao nhiêu lâu, bỗng nàng giật mình thức giấc vì có nhiều tiếng động, tiếng người nói, tiếng kim khí chạm nhau. Hé cửa nhìn ra sân, bất giác nàng giật mình, vì trong sân đầy binh lính, đèn đuốc sáng chưng. Một người lính đập cửa phòng nàng, miệng hô lớn:
- Mở cửa mau.
Minh-Ðệ vội mở cửa, một người lính la lớn:
- Trong phòng này có con gái.
Một người mặc quân phục đội trưởng chạy lại hỏi nàng:
- Cô ở trong phòng này à? Trong phòng còn ai nữa không?
- Thưa không.
Tất cả tăng chúng đều bị lùa vào một chỗ. Minh-Ðệ cũng bị lùa đến phía trước tăng chúng. Nàng đưa mắt nhìn: quanh chùa binh lính gươm đao sáng choang bao vây chùa cực kỳ nghiêm mật. Một viên quan nói với Viên-Chiếu:
- Thưa đại sư, bản chức là Phạm Anh, lĩnh Kinh-lược an-phủ sứ lộ Kinh-Bắc này. Vì có người cáo giác rằng trong chùa Từ-quang tăng chúng không giữ giới luật, nào là chứa phụ nữ làm điều trên bộc trong dâu, nào là làm chuyện đạo thiết, nào là ăn mặn; cho nên bản chức phải đem quân đến khám xét, điều tra thực hư. Ở đây bản chức có năm thư lại, cùng năm tốt trưởng sẽ đi khám khắp chùa. Xin sư trưởng cho năm vị tăng đi theo năm toán, để hướng dẫn họ làm việc.
Viên-Chiếu lên tiếng gọi:
- Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa, các con hướng dẫn quan quân làm việc.
Ðó là năm tăng trẻ, khoảng 25-30 ra, theo năm toán.
Phạm Anh ra lệnh:
- Chúng ta có năm toán, mỗi toán phụ trách khám xét một khu, với sự chứng kiến của một vị tăng. Tuy nhiên nếu có gì phạm pháp trầm trọng, thì các người phải gọi ta để thỉnh hoà thượng trị sự trưởng cùng chứng kiến.
Năm toán chia nhiệm vụ làm việc. Một toán lên bảo điện; một toán khám các tăng phòng; một toán khám nhà bếp, kho chứa lúa, chuồng trâu; một toán khám ngoài vườn; một toán khám sân chùa.
Ðến đó, năm trẻ cắp sách vào chùa. Chúng lấm lét nhìn quan quân, nhưng không dám hỏi han.
Sân chùa tuy rộng, nhưng ngoài tượng Quan-Thế-Âm đứng trên đài, với những chậu cảnh ra, không có gì khác lạ. Khi khám đến dưới gốc dàn thiên lý, thì quân sĩ tìm thấy một ít lông gà, cùng lông chó. Viên thư lại nói với sư ông Viên-Hoa:
- Lông gà, lông chó này còn mới, như vậy chứng tỏ trong quý tự có người làm thịt chó, làm thịt gà. Xin đại sư cho biết ai đã làm chuyện đó?
Nhà sư Viên-Hoa lắc đầu:
- Lông gà, lông chó này dường như có người cố ý bỏ vào đây, chứ trong bản tự giới luật rất nghiêm, đời nào lại để cho người ta sát sinh trong khuôn viên này nhỉ?
- Ðại sư nói thế, thì tôi biết vậy. Nhưng đại sư ơi, tôi không có quyền gì cả, đợi quan trên phân xử. Tang chứng này tôi xin giữ.
Lý Ðoan chạy lại cầm đám lông gà, lông chó lên xem, rồi nó nói:
- Nhất định là có ai bỏ vào đây. Bởi từ mấy hôm nay trời không mưa. Nếu như lông gà do người trong chùa vứt ra thì phải khô rồi chứ? Có đâu ướt nhèm thế này? Nhất định là ai bỏ vào rồi.
Phạm Anh quát:
- Ranh con im mồm, lý của mi không vững.
Toán khám vườn đã tìm ra được bốn hố rác, trong đó chôn đầy lông gà, xương gà, lông xương chó, xương lợn, xương trâu. Họ đào lên, cho tất cả vào một cái túi. Viên thư lại chỉ huy toán này chế diễu sư Viên-Mộc:
- Tất cả có 5 cái xương sọ chó, thế thì ít ra trong quý tự đã giết đến năm con chó. Tôi tìm được mười tám cái mỏ gà, thế thì ít nhất quý tự đã giết mười tám con gà. Tôi lại tìm được trước sau mấy chục cái xương gối lợn, năm cái xương gối trâu. Hà, cái này tội nặng quá. Nam-mô thịt chó, Nam-mô thịt gà, Nam-mô-thịt trâu, Nam-mô thịt lợn. Tu với hành. Như vậy chùa này là chùa của Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng rồi.
An-phủ-sứ nghe đến tiếng Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng thì mặt tái xanh, y quát:
- Im cái mõm đi. Việc mình mình lo, đừng có nói bậy nói bạ mà chết cả nhà bây giờ!
Ðây là lần thứ nhì Minh-Ðệ nghe đến danh tự Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng. Không biết Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng là ai, mà từ Lý-trưởng cho đến An-vũ-sứ nghe đến tên mà đã kinh hoảng?
Nhà sư Viên-Mộc là người thực thà, ông nói:
- Chùa chúng tôi giữ giới rất nghiêm, nhất định có ai hại chúng tôi, đem những thứ dơ bẩn này chôn vào đây, rồi đi báo quan mà thôi. A-Di-Ðà Phật.
Viên thư lại cười nhạt:
- Chứng cớ rành rành ra thế này, mà đại sư còn biện luận ư?
Hai biến cố động trời như vậy xẩy ra, mà đại sư Viên-Chiếu vẫn thản nhiên, không nói không rằng. Một lát viên thư lại khám nhà bếp chạy ra trình:
- Trong bếp còn một nồi lớn rựa mận thịt chó, hai con gà luộc, ba cái đùi chó luộc.
Tang vật được để tất cả trước mặt Phạm Anh với đại sư Viên-Chiếu. Ðến đó viên quan khám tăng phòng cùng nhà sư Viên-Chi ra sân. Viên quan trình cho Phạm Anh những phạm vật:
- Bẩm An-phủ-sứ. Trong phòng của sư Viên-Căn có cái yếm dấu dưới gối. Phòng của sư Viên-Mộc có hai cái quần nái đen. Phòng của sư Viên-Chi có một cái áo cánh, một cái yếm, một cái quần lụa đen đàn bà. Phòng của Viên-Diệp có cái khăn vuông, cái áo tứ thân. Phòng của Viên-Hoa có hai chai rượu đã uống đở, với hai cái quần thâm. Ðặc biệt phía sau, có một phòng của con gái ở.
Y chỉ vào Minh-Ðệ:
- Có phải phòng kia của cô không?
- Vâng.
Minh-Ðệ nhìn đám quần áo tang vật, bất giác nàng rùng mình kinh hãi. Vì đó đều là quần áo của nàng hồi còn ở với bố mẹ. Khi nàng rời nhà ra đi, thì trên người chỉ mặc có cái áo cánh nâu, với cái quần nái đen. Tất cả quần áo đều còn để ở nhà nàng, mà sao bây giờ lại ở trong phòng mấy vị sư kia?
Lát sau, sư Viên-Căn với viên quan khám bảo điện đi ra. Viên quan cung tay nói:
- Trình với An-vũ-sứ, trên bảo điện thì không có gì, nhưng dưới đế tượng Quan-Thế-Âm thì có ba nén vàng, tổng cộng 30 lạng; chín nén bạc, mỗi nén 10 lạng, thêm tám lạng lẻ, như vậy cộng chung thành 97 lạng bạc. Bẩy lạng bạc lẻ là bạc Ðại-Việt, còn lại vàng, bạc đều là vàng bạc của Tống.
Kinh-lược-sứ hất hàm ra lệnh:
- Phong tỏa chùa, niêm phong tài sản, sau đó giao cho hàng xã trông coi. Còn vàng, bạc, tang vật đem về về dinh của ta để điều tra thêm. Tất cả tăng trong chùa đều đóng gông. Riêng đứa con gái này thì chỉ trói lại giải đi mà thôi.
Các sư cùng Minh-Ðệ đều biện luận, nhưng đại sư Viên-Chiếu phất tay:
- Khi nghiệp quả đã đến, thì phải thản nhiên đón nhận, đừng có cưỡng. Nếu cưỡng chống, thì nó sẽ đeo bên mình mà đòi nữa.
Ông thản nhiên để cho lính đóng gông, cùng chư đệ tử ra khỏi chùa. Dân làng đứng chen nhau ngoài cổng, kẻ khóc kêu oan, người niệm Phật. Năm đứa trẻ khóc rống lên. Chúng chửi đổng:
- Ðịt mẹ... đứa nào hại các thầy.
Trong đám dân chúng, Minh-Ðệ thấy có cả bọn Phúc, Ðức, Ðạt, cùng Minh-Can, chúng cười cười, nói nói nét mặt hân hoan không thể tưởng tượng được. Ðoàn quân giải đại sư Viên-Chiếu cùng năm đệ tử, mười đồ tôn, với Minh-Ðệ đi hết buổi hôm đó mới đến dinh kinh-lược-sứ. Minh-Ðệ bị tống giam chung với ba người đàn bà khác. Nàng không bị đóng gông. Vì đi đường xa mệt mỏi, nàng nằm lăn ra ngủ, không để ý đến ba người đàn bà bị giam cùng. Trong giấc ngủ, tiềm thức làm việc, nàng vẫn luyện nội công.
Chiều hôm đó Minh-Ðệ thức giấc, nàng để ý đến ba người đàn bà. Một người tuổi khoảng năm mươi, bà này ngồi thu hình trong góc không nói gì. Người thứ hai là một trung niên thiếu phụ, bà ta nằm ngửa mặt lên trời, mắt mở thao láo. Người thứ tư là một thiếu nữ tuổi khoảng mười hai, mười ba, khá xinh đẹp. Cô ngồi ôm gối không nói không rằng. Thấy Minh-Ðệ thức giấc, cô hỏi:
- Này bà chị mới vào. Bà chị tên gì, tại sao bị tù vậy?
- Tôi tên Yến-Loan, tôi không hiểu tại sao mà bị tù. Có lẽ kiếp trước tôi làm tội, nên kiếp ngày phải trả. Tên em là gì?
- Em họ Chu, tên là Thúy-Phượng, năm nay mới mười ba tuổi. Nhà em nghèo, nên bố mẹ bán em cho nhà giầu làm con ở. Sau chủ bán em cho người khách phú thương làm lẽ. Em trốn đi. Chủ trình quan, quan bắt được, giam em ở đây, rồi sẽ trả về cho chủ.
Thúy-Phượng chỉ vào người đàn bà ngồi thu hình:
- Vì em trốn đi, nên mẹ em cũng bị bắt vào đây. Không biết rồi sẽ ra sao? Mẹ em tên Thúy-Hoàng.
Nó chỉ vào thiếu phụ trung niên:
- Bà kia tên là Phạm Thị-Nương, cũng nhà nghèo, có con gái bán cho người ta. Nhưng được hai năm, con gái trốn đi mất, chủ đem đơn kiện lên quan, nên quan bắt bà bồi thường. Bà không có tiền, nên bị bắt giam.
Minh-Ðệ tường thuật qua biến cố của chùa Từ-quang cho mẹ con Thúy-Phượng với bà Nương nghe. Bà Thúy-Hoàng tỏ vẻ thương hại Minh-Ðệ:
- Ta nói cho cháu biết. Trong trấn này thì Kinh-lược-sứ phu nhân là người nắm quyền chứ không phải chồng bà. Bà là cháu gọi Thượng-Dương hoàng hậu bằng cô ruột. Kinh-lược-sứ trước kia chỉ là một đô thống xuất thân. Từ sau khi hết hôn với bà, thì công danh lên như diều. Ông được thăng lên làm Vũ-kị đại tướng quân, chỉ huy hai đạo quân Thiên-tử binh. Năm sau chẳng công trạng gì, lại được cất nhắc lên làm Kinh-lược an-phủ-sứ. Còn quan coi về án ở đây gọi là đề điểm hình ngực có tên là Hoàng Khắc-Dụng, ông xuất thân từ quan văn, tính tình cương trực. Hai hình quan cũng là người ngay thẳng tên Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ. Nếu cháu có phạm tội, thì phải khai thực, để ông ấy xử nhẹ cho.
- Cháu có nghe rằng mỗi án đều do vua xử kia mà?
- Cháu chưa hiểu gì về tổ chức tư pháp cả. Trước tiên những việc nhỏ, tội nhẹ thì do hương lý xử. Nếu phạm nhân kháng án, thì đưa lên châu-quận xử. Còn những tội nặng thì do quan Ðề-điểm hình ngục cùng với hai hình-quan xử. Xử xong, tư lên quan Kinh-lược an-phủ-sứ duyệt xét. Quan Kinh-lược có quyền giảm án, hay tăng án. Nếu giữa quan Ðề-điểm hình ngục với quan Kinh-lược an-phủ-sứ bất đồng ý kiến thì sẽ đưa về bộ hình phúc thẩm. Tuy nhiên đương kim Hoàng-thượng là người nhân từ, nên ngài định rằng tất cả các án tử hình đều phải để chính ngài xử.
Chuyện vừa hết, thì cai ngục gọi:
- Yến-Loan đâu, lên hầu quan.
Minh-Ðệ vội vàng đứng dậy theo cai ngục lên công đường. Tại công đường, một viên quan ngồi trên cái sập, sau cái án thư. Nàng biết đó là viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng. Hai bên viên Ðề điểm hình ngục là hai viên hình quan Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ chuyên hỏi cung và hơn mười người lính đứng hầu, mỗi người cầm một hình cụ, đó là hình-binh, chuyên việc tra khảo phạm nhân. Nàng từng nghe nói, những viên quan, binh này gan bằng sắt, tim bằng gỗ lim, tra khảo người không nương tay.
Hình quan Tô Sơn-Lâm hô:
- Yến-Loan quỳ xuống.
Minh-Ðệ quỳ gối.
Hình quan Vương Ðình-Thụ hỏi:
- Con kia, họ tên là gì? Quê quán ở đâu? Bố mẹ là ai, năm nay bao nhiêu tuổi?
Minh-Ðệ đã có chủ tâm, nàng khai láo như đã khai ở chùa:
- Bẩm con mồ côi từ nhỏ, không biết bố, mẹ là ai. Con ở với dì. Dì con chết rồi, thì người ta bắt con bán cho nhà giầu. Nhân chủ nhân ác độc đánh đập tàn nhẫn, con trốn đi, được sư cụ chùa Từ-quang thương tình, cho con tá túc, làm công quả.
- Thế mi đến chùa từ bao giờ?
- Bẩm tháng hai vừa rồi, đến nay là 6 tháng.
- Trong khi ở chùa, mi đã ăn nằm với bao nhiêu nhà sư?
- Bẩm con còn là trinh nữ. Con ở chùa làm công quả. Các thầy thương con là trẻ mồ côi, coi con như đệ tử, có đâu làm chuyện trên bộc trong dâu.
- Những quần áo trong phòng các nhà sư đều một khổ người với mi. Phải chăng đó là quần áo của mi?
- Bẩm vâng. Quả là quần áo của con.
Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng-khắc-Dụng đập tay xuống sập:
- Nói láo. Mi bảo mi không ăn nằm với sư. Thế sao quần áo của mi lại để rải rác ở phòng năm nhà sư?
- Con cũng không biết tại sao nữa.
- Khảo.
Hai tên quân nọc cổ Minh-Ðệ nằm xuống nền nhà, rồi dùng roi mây quất túi bụi. Minh-Ðệ vội vận công chống đau. Vì vậy roi đánh xuống, mà nàng không cảm thấy đau đớn gì. Nàng nằm yên cho tên quân đánh. Sau khi tên quân đánh đủ 20 roi, mà nàng không dãy dụa, cũng chẳng kêu khóc.
Hai tên quân nọc cổ Minh-Ðệ nằm xuống nền nhà, rồi dùng roi mây quất túi bụi. Minh-Ðệ vội vận công chống đau. Vì vậy roi đánh xuống, mà nàng không cảm thấy đau đớn gì. Nàng nằm yên cho tên quân đánh. Sau khi tên quân đánh đủ 20 roi, mà nàng không dãy dụa, cũng chẳng kêu khóc.
Tô Sơn-Lâm lại hỏi:
- Mi gan đấy. Hai mươi roi mà mi không kêu khóc, mi có chịu khai hay không?
- Bẩm quan khai gì cơ ạ?
- Khai đã ngủ với những nhà sư nào? Ngủ bao nhiêu lần? Ngoài mi ra, còn có đứa nào ngủ với các nhà sư nữa?
- Bẩm quan lớn là đèn trời soi xét cho con. Con vẫn còn là con gái chưa vẩn bụi đời, thì sao có thể có việc làm chuyện kia được?
Hoàng Khắc-Dụng bảo Tô Sơn-Lâm, Vương Ðình-Thụ:
- Ðược rồi, việc này dễ. Ðể ta sai bà mụ khám xem nó còn đồng trinh không thì biết ngay chứ khó gì đâu. Hỏi sang vụ ăn mặn.
Tô Sơn-Lâm hỏi:
- Mi làm bếp trong chùa, mà trong chùa có thịt chó, thịt gà, rồi xương lợn, xương trâu, lại có cả mấy chai rượu nữa. Như vậy chính mi nấu thịt cho các nhà sư ăn hẳn?
- Bẩm từ khi con đến chùa, con cũng ăn chay theo sư cụ với các sư ông, sư bác. Chùa rất thanh tịnh. Ðến người ta còn say rượu mà lên chùa, các thầy cũng không cho vào, huống hồ ăn thịt chó?
Tô Sơn-Lâm lắc đầu:
- Tang chứng rành rành ra thế kia, mà mi còn dẻo miệng chối ư? Mi không chịu khai ra, ta sẽ cho kẹp tay mi. Kẹp tay đau lắm chứ không như đánh roi đâu.
- Bẩm quan dù quan có đánh chết con cũng chịu, chứ khai láo cho các thầy, sau này xuống âm phủ sẽ bị quỷ sứ rút lưỡi ra.
Viên Ðề điểm hình ngục chỉ vào hai thanh tre trên tay một tên quân:
- Dù cho mi gan đến mấy, nếu mi không khai thực, ta sẽ cho kẹp tay mi.
- Bẩm quan, xương thịt ai mà chẳng đau, nhưng điều quan hỏi, thực không hề có, mà quan bắt con nhận, thì sao con nhận được?
Viên Ðề điểm hình ngục Vương Ðình-Thụ vẫy tay:
- Kẹp nó!
Một tên quân nắm tay Minh-Ðệ đưa ra. Tên khác dùng hai thanh tre lớn kẹp năm đầu ngón tay nàng. Y nghiến răng bóp hai thanh tre. Minh-Ðệ vội hít hơi, vận khí ra mười đầu ngón tay. Rắc một tiếng, hai thanh tre bị gẫy.
Vương Ðình-Thụ mắng tên quân:
- Tại sao mi lại dùng hai thanh tre mục mà kẹp nó. Mau lấy hai thanh khác.
Tên quân lấy hai thanh tre khác. Lần này y cầm từng thanh một bẻ thử, rồi gõ vào nhau, chứng tỏ còn tốt. Y lại kẹp tay Minh-Ðệ, nàng vội hít hơi vận khí chịu đòn. Tên quân nghiến răng kẹp, nhưng Minh-Ðệ chỉ cảm thấy hơi khó chịu, chứ không đau đớn gì. Hai thanh tre gặp ngón tay đầy chân khí của Minh-Ðệ cứng ngắt, nên cong lại. Thấy Minh-Ðệ im lặng dường như không đau đớn gì, mà tên quân mỏi tay quá, phải ngừng lại.
Vương Ðình-Thụ cau mặt:
- À, con này nó có nghề đây. Nó luyện thân thể thành mình đồng da sắt chắc. Thôi được, gọi nhà sư Viên-Căn lên.
Một lát nhà sư Viên-Căn được giải lên. Viên đề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng nói:
- Sư ông có phải là đệ tử lớn nhất của chùa Từ-Quang không?
- Bẩm quan vâng.
- Tang chứng rành rành, rõ ràng tăng chúng trong chùa phạm giới sát; giết chó, giết gà ăn thịt. Trong tăng phòng có quần áo của đàn bà, như vậy thì chắc là phạm giới dâm rồi. Quân lại tìm thấy mấy chai rượu, trong đó có những chai uống dở, như vậy là phạm giới tửu. Dưới tượng Quan-Âm còn dấu vàng của công khố nhà Tống. Vàng đó ở đâu ra? Việc này không giản dị đâu, chắc là các người làm gian tế cho Tống phải không? Sự việc đã như vậy, thì cứ nhận tội đi, đức hoàng-đế là bậc chí nhân như vua Hùng, vua Trưng sẽ ân giảm tội cho, bằng không thì tất cả thầy trò đều phải tội lăng trì.
Viên-Căn lắc đầu:
- Bần tăng chắc ai đó thù oán nhà chùa, nên trong đêm tìm cách bỏ thịt, bỏ xương thú vật vào để vu vạ cho thiểm tự. Xin quan trên xét lại.
Vương Ðình-Thụ quát:
- Khảo.
Hình quan vẫy tay, một tên lính cầm hai thanh tre kẹp bàn tay Viên-Căn. Nhà sư nghiến răng, uốn cong người lại chịu đòn. Chỉ lát sau không chịu nổi đau đớn, nhà sư ngã lăn ra, nhưng bàn tay vẫn bị kẹp cứng. Hai chân nhà sư đạp loạn xạ để chống với cái đau. Tô Sơn-Lâm vẫy tay cho quân dừng lại:
- Này, thầy Viên-Căn. Tôi nghĩ mình làm tội thì mình chịu, bất quá thì bị xung quân, đồ làm lính là cùng. Cớ sao thầy không nhận tội, để đến nỗi phải chịu đau đớn thân xác như thế.
Viên-Căn từ từ lắc đầu:
- Bần tăng có làm thì có chịu, đây bần tăng không hề thấy, không hề biết thì sao mà khai được? Cái việc quần áo của Phật-tử Yến-Loan ở trong tăng phòng lại càng lạ lùng hơn nữa. Ðúng là tiền oan nghiệp chướng, hẳn vì thù oán chi đây, nên người ta hại thiểm tự. Thôi thì bần tăng đành mang cái xác này ra để giải nghiệp vậy.
Viên-Căn từ từ lắc đầu:
- Bần tăng có làm thì có chịu, đây bần tăng không hề thấy, không hề biết thì sao mà khai được? Cái việc quần áo của Phật-tử Yến-Loan ở trong tăng phòng lại càng lạ lùng hơn nữa. Ðúng là tiền oan nghiệp chướng, hẳn vì thù oán chi đây, nên người ta hại thiểm tự. Thôi thì bần tăng đành mang cái xác này ra để giải nghiệp vậy.
Tiếp theo bốn nhà sư Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa đều bị gọi lên khảo đả, nhưng không ai chịu nhận tội cả. Khi gọi đến sư cụ Viên-Chiếu, thì ông chỉ nhắm mắt nhập thiền. Hình quan định ra lệnh khảo đả Viên-Chiếu thì nhà sư Viên-Hoa nói:
- Thưa thượng quan, với những tang vật, cùng chứng cớ rành rành ra như vậy, thì thượng quan không cần anh em bần tăng nhận tội, cũng có thể làm án được rồi. Thượng quan khỏi phải khảo đả nữa. Bần tăng xin thưa với thượng quan rằng, những quần áo đàn bà trong tăng phòng, cũng như xương chó, lông thú vật... nhất định có bàn tay nào đó hại tăng chúng thiểm tự. Bần tăng xin thượng quan cho bần tăng chịu hình phạt thay cho sư phụ cùng chư huynh đệ, chư đệ tử.
Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng nói:
- Cái tội phạm giới dâm, giới tửu, giới sát sinh thì chỉ đưa đến đánh đòn, đuổi về trần tục mà thôi. Nhưng còn vàng, bạc của Tống triều, thì ngoài thẩm quyền của bản chức. Bản chức phải giải các người về triều để quan Hình-bộ cùng đức Kim-thượng xử về tội làm gian tế cho Tống.
Minh-Ðệ quỳ tâu:
- Thưa đại nhân, về việc vàng bạc này hoàn toàn do con, tội ở con, chứ không do các thầy. Con xin chịu tội thay cho các thầy.
Rồi nàng thuật lại chi tiết việc quý nhân tới chùa cư ngụ trong hơn tháng. Ðúng ra nàng phải kể rằng trước khi đi, ông bà cho nàng vàng bạc, thì nàng nói là ông bà cúng dàng tam bảo, rồi nàng nộp vàng cho sư cụ Viên-Chiếu, mà sư cụ không nhận. Vì vậy nàng mới đem cất vào tượng Quan-Âm. Việc ông bà dạy võ cho nàng cho nàng, nàng cũng bỏ qua luôn.
Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng truyền lấy giấy bút cho thư lại để viết tờ cung.
Thời bấy giờ chữ Khoa-đẩu của người Việt bị mai một đi, thành ra mọi công văn; từ chiếu, chế, biểu của triều đình cho tới văn tự trong dân gian đều dùng chữ Nho hay còn gọi là chữ Hán. Triều Lý khuyến khích, mở rộng học đường, nhưng dân chúng biết chữ rất ít, thường họ chỉ học để đọc thông văn tự mà thôi. Còn phụ nữ, tuy ảnh hưởng của Vua bà Bình-Dương, cùng các công chúa Kim-Thành, Trường-Ninh, Côi-Sơn, Ôn-Thuận còn vang dội, nhưng con gái được cho đi học không làm bao. Vì vậy viên Ðề điểm hình ngục mới bảo viên thư lại Quách Ðồng viết tờ cung khai.
Quách Ðồng viết xong, y sao làm hai bản rồi truyền lệnh cho Minh-Ðệ:
- Mi ký vào đây.
Minh-Ðệ cầm tờ khai lên đọc. Nàng thấy rõ ràng lời khai hai tờ khác nhau. Ðọc xong nàng nói với viên thư lại Quách Ðồng:
- Tại sao chú lại viết như thế này?
Viên thư lại tái mặt:
- Ta viết đúng như lời mi khai, chứ có gì khác đâu?
Minh-Ðệ chỉ vào tờ khai thứ nhì:
- Tờ thứ nhất, chú viết đúng. Tờ thứ nhì chú viết sai hoàn toàn. Chú viết rằng đại sư Viên-Chiếu không phải là chân tu, mà là gian tế của Tống đem vào tiềm ẩn ở Ðại-Việt, rằng chùa Từ-quang là chỗ cho gian tế Tống lưu ngụ, chúng thường ăn thịt chó, bắt lương gia phụ nữ hành dâm. Tôi là con gái giả đến chùa làm công quả, chứ thực ra là gian dâm với các nhà sư. Chính Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai với Vương phi là trưởng đại công chúa Huệ-Nhu điều động vụ này. Vương tới lưu ngụ ở chùa truyền võ công cho tôi. Vàng bạc mà vương cúng dàng đó để giao cho đại sư Viên-Chiếu hối lộ, mua chuộc tướng sĩ, võ lâm Ðại-Việt theo Tống, làm gian tế cho Tống, khi quân Tống sang đánh. Sao... sao... chú lại ác vậy?
Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng nghe Minh-Ðệ nói, vội cầm hai tờ khai lên đọc. Khi đọc xong tờ thứ nhì, ông ta vỗ bàn chỉ vào mặt tên Quách Ðồng quát:
- Mi thực là tên gian xảo. Mi định làm hai tờ khai khác nhau, đưa cho tội nhân ký, rồi ta kiềm thự. Bản thứ nhất mi sẽ dấu đi. Còn bản thứ nhì trình lên ngài An-phủ-sứ. Như vậy là mi gắp lửa bỏ bàn tay người ta rồi. Bay đâu, gông cổ nó lại, đem biệt giam để chờ điều tra.
Hình-quân lập tức đóng gông viên thư lại Quách Ðồng, đem đi.
Viên Ðề điểm hình ngục Hoàng Khắc-Dụng hỏi Minh-Ðệ:
- Mi có thể tự viết tờ cung khai được không?
- Bẩm quan được ạ.
Minh-Ðệ mài mực, rồi cầm bút viết. Nàng viết liên tiếp một lúc mười trang giấy, cung khai từ đầu đến cuối vụ qúy nhân đến chùa, rồi nàng còn chép cả chuyện viên thư lại làm tờ cung khai hại nàng với chùa Từ-quang. Nàng đưa cho viên Ðề điểm hình ngục. Viên này thấy Minh-Ðệ cầm bút viết dễ dàng, y đã kinh ngạc không ít. Nay cầm tờ khai, nét chữ nàng như rồng bay phượng múa, khiến y kinh hãi vô cùng. Y càng kinh hãi hơn, vì tuy bị tra khảo, bị hành hạ, mà văn phong của Minh-Ðệ vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát, mỗi lời, mỗi ý đều sâu sắc. Y liếc nhìn nàng, mà trong lòng cảm phục. Ðọc xong y hỏi:
- Mi nói quý nhân cúng dàng ba nén vàng, mười nén bạc, sao bây giờ chỉ có ba nén vàng, chín nén tám lạng bạc. Còn hai lạng nữa đâu?
Minh-Ðệ lại khai chi tiết việc học trò trường Trung-nghĩa giết trâu mừng sinh nhật Siêu-loại hầu, rồi nàng bị bắt ra sao, cuối cùng nàng dùng bạc mua lại con trâu như thế nào.
Viên Ðề điểm hình ngục nhăn mặt tỏ vẻ đăm chiêu, nhưng giọng nói đã có đôi phần khách khí, không coi Minh-Ðệ là thứ trốn chúa lộn chồng nữa:
- Không ngờ vụ án chùa Từ-quang lại trở thành to lớn, liên quan đến trường Trung-nghĩa. Tại sao Quách Ðồng lại cố ý viết tờ khai cho giống với lời tố giác của đám đệ tử trường Trung-nghĩa, làm hại Kinh-Nam vương? Thôi thì đành để Kinh-lược-sứ định liệu, chứ thẩm quyền của bản chức, không thể hỏi cung tước hầu như Trung-nghĩa đại tướng quân. Có điều cặp vợ chồng quý nhân kia là ai mà lại cúng dàng số vàng quá lớn. Không lẽ ông bà là Kinh-Nam vương thực? Nhưng với giọng nói ngọng của bà vợ, thì rõ ràng bà là người Hán rồi. Chỉ có người Hán mới nói tiếng chết thành chiết, rồi thành dồi, được thành lược.
Y nhìn năm nhà sư mình mẩy đầy thương tích, bàn tay tím bầm vì bị kìm kẹp, rồi tiếp:
- Hiện có đến ba chục viên võ quan trong vùng Kinh-Bắc này xuất thân ở trường Trung-nghĩa. Mà cái việc cáo giác chùa Từ-quang lại do mấy võ quan gốc Trung-nghĩa trình lên ngài Kinh-lược-sứ. Vụ án này coi ra nhiêu khê đây.