watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:06:4726/04/2025
Kho tàng truyện > Truyện Kiếm Hiệp > Tác Giả Khác > Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 1-10 - Trang 4
Chỉ mục bài viết
Tập 8 - Nam Quốc Sơn Hà - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ - Hồi 1-10
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Tất cả các trang
Trang 4 trong tổng số 21

 

Chương 2a

Hoa trôi, bèo dạt đã đành,
Biết thân mình, biết phận mình thế thôi
0

Minh-Ðệ mê mê tỉnh tỉnh, trong cơn sảng đó, phản ứng tự vệ của cơ thể khiến nàng nàng thở hít theo thức Quan-Âm dạy để chống lại đau đớn. Chỉ lát sau sức lực sinh ra, nàng bám bờ leo lên khỏi chuồng hôi. Người đầy phân, nàng lội xuống ao tắm trong đêm khuya. Biết rằng về nhà sẽ bị đánh đòn nữa, nàng nghĩ:
- Mình đã đến thế này thì thôi đành chịu thua nghiệp quả, nếu như mình về nhà bây giờ không chừng bị đánh chết cũng nên. Nhưng biết đi đâu đây?
Chợt một tia sáng lòe lên trong đầu:
- Hay ta sang chùa Từ-quang xã Dương-xá xin sư cụ trị bệnh cho, bệnh khỏi rồi, ta sẽ trở về nhà sau vậy.
Nàng thất thểu đi trong đêm khuya, trong khi cơn sốt hành hạ. Biết rằng bây giờ, cổng làng đã đóng, nàng chui theo lỗ chó, vượt qua lũy tre rào ra ngoài. Sau khi đi được một quãng, người vừa sốt, vừa mệt, nàng vấp chân phải mô đất, ngã lộn đi hai vòng, nằm lăn ra, không bò dậy được nữa. Tuy đau đớn, mệt mỏi cùng cực, nhưng đầu óc nàng vẫn tĩnh táo, nàng vẫn thở hít, để có sức lực.
Cứ như vậy không biết bao nhiêu lâu, khi thì nàng nhập tĩnh, khi thì nàng tụng kinh Bát-nhã. Nàng nghĩ thầm:
- Quan-Âm phán rằng khi nào ta hợp được cả thở hít, nhập tĩnh mà trong tâm niệm kinh Bát-nhã thì nghiệp chướng mới hết. Nhưng đã hơn năm qua, ta cố gắng làm hoài mà nào có đạt được. Bây giờ ta vừa thở hít, vừa tụng kinh Bát-nhã cho tăng sức khoẻ vậy.
Thế rồi nàng tiếp tục, nhưng cơn sốt làm cho đầu óc nàng mê loạn đi, trong khi tâm thức vẫn thở, vẫn hít, vẫn nhẩm đọc kinh Bát-nhã. Thực là chủ ý trồng hoa hoa chẳng mọc, vô tình tiếp liễu, liễu xanh tươi, trong cơn mê nàng đã làm được cái công việc mà Quan-Âm dạy. Nhưng chợt nàng thấy phía sau cần cổ cứng đơ, rồi hai đầu gối không động đậy được nữa, người nàng nóng bỏng như hòn than. Kinh hãi, nàng nghĩ thầm:
- Giá như có ai đập vào cổ mình một cái thì hay biết mấy?

Người càng cứng đơ, nàng càng như mê loạn, tức nhập tĩnh, trong khi mũi vẫn thở hít, trong tâm nhẩm đọc kinh Bát-nhã, rồi nàng ngất đi, nhưng tiềm thức vẫn làm việc.
Ðâu đó tiếng chuông chùa ban mai vọng lại, các cổng làng mở ra, người người đi chợ, ra đồng làm việc. Một cỗ xe ngựa từ xa đi tới. Thình lình thằng bé đánh xe thấy phía trước có cô gái nằm ngang đường. Nó vội giật cương cho ngựa dừng lại. Con ngựa bị kéo cương gấp, nó cất cao vó trước hí lên inh ỏi. Một người ngồi trong xe ngó đầu ra hỏi:
- Cái gì vậy Ðoan?
Ðứa bé đánh xe đáp:
- Thưa thầy có người đàn bà nằm chết trên đường.
Người trong xe vội vàng nhảy xuống, ông sờ tay lên trán Minh-Ðệ thấy còn nóng. Ông bắt mạch, thấy mạch còn nhảy. Nhưng người Minh-Ðệ tiết ra mùi phẩn hôi thối cùng cực. Ông gọi phu xe:
- Ðoan, xuống đây giúp thầy mau, người này đang bị sốt, chưa chết.
Vừa lúc đó, một nông dân già dắt trâu đi tới. Anh ta hỏi:
- Ủa kìa thầy lang Hòa, kìa cháu Ðoan có chuyện gì vậy?
Ðoan đáp:
- Thầy trò tôi đi thăm bệnh ở làng Thổ-lội vừa về tới đây thì thấy người này nằm chết ngang đường.
Ông Hòa xua tay:
- Người ta mới bị bệnh chứ chưa chết. Không biết nhà cửa đâu, mà lại ra nằm ở ngoài đường, ngoài chợ thế này. Mau gọi làng đưa về nhà, để tôi trị cho.
Người nông dân chỉ ngôi chùa:
- Kìa là chùa Từ-quang, tôi xin giúp thầy đưa người này vào đó tạm trú đã.
Lão nông dân, cùng với thằng Ðoan khiêng Minh-Ðệ để lên xe, rồi ra roi cho ngựa chạy đến cổng chùa. Tới cổng, lão giật chuông inh ỏi. Một đứa bé đầu trọc lóc, nhưng mặc y phục thường, không phải người đi tu, chạy ra cung tay:
- A-Di-Ðà Phật, chư khách có chuyện chi mà lên chùa sớm thế này? Ô kìa thầy lang Hòa. Ờ, cả Ðoan nữa.
Thầy lang Hòa đáp:
- Có người đàn bà nằm mê man trên đường, chúng tôi vực vào đây để nhờ bóng Phật cứu chữa cho bà ta.
Ðứa bé đánh xe hỏi đứa trẻ ở chùa:
- Nghi ơi! Thằng Ninh đen, thằng Quang con ghế đâu?
Hai đứa trẻ khác từ trong sân chạy ra. Một đứa mặt đen thui nói:
- Ninh Mai hắc đế là tao đây.
Nó chỉ vào thằng bé da trắng:
- Thằng Quang con gái, hồi này hết con gái rồi. Bọn tao nghe nói sáng nay mày theo thầy Hòa đi chữa bệnh, nên nghỉ học. Sao mày lại dẫn thầy vào đây?
Vừa nói thằng Ninh đen vừa mở cổng chùa mở. Xe vào trong sân.
Thằng Ðoan chỉ Minh-Ðệ:
- Có người bị bệnh dọc đường, thầy lang bảo tao đánh xe đưa họ vào đây để trị bệnh. Bọn bay giúp tao một tay.

Trời tảng sáng.
Ba đứa trẻ Ðoan, Ninh, Quang cùng khiêng Minh-Ðệ đưa vào nhà sau, để lên chiếc dường tre. Thầy lang Hòa xem mạch, ông chưa giải đoán xong bệnh thì sư trưởng tới. Thầy vội chắp tay:
- A-Di-Ðà Phật, bạch sư cụ.
Sư cụ đã đứng tuổi, khoảng trên dưới năm mươi, chắp tay đáp lễ thầy lang rồi hỏi:
- Bệnh tình tiểu thí chủ này ra sao?
Ghi chú:
Thời trước, các vị tăng thường được giới bình dân gọi bằng danh xưng: chú tiểu, sư bác, sư ông, sư cụ tùy theo tuổi hoặc tùy theo thứ bậc tu hành. Khi Phật-tử xưng hô với các vị sư, thường gọi là thầy hay sư-phụ. Như nhà sư còn trẻ thì gọi là tiểu-sư-phụ, trung niên thì gọi là sư phụ, còn đạo cao, đức trọng hoặc cao niên thì gọi là đại-sư-phụ. Những người không phải là Phật tử thì gọi chung các vị tăng bằng danh tự hòa thượng. Vị tăng còn nhỏ tuổi thì gọi là tiểu-hoà-thượng, trung niên thì gọi là hòa-thượng. Còn khi những vị ấy cao niên, hoặc đạo cao đức trọng thì gọi là đại-hòa-thượng, lúc đối thoại thì gọi là đại-sư. Còn những danh xưng đại đức, thượng tọa chỉ mới đây thôi.
- Bạch thầy khó chẩn đoán vô cùng. Tạm thời con làm cho cô ấy tỉnh lại đã, rồi sẽ tính sau.
Thầy rút trong bọc ra cái hộp bằng bạc, mở hộp lấy kim châm vào huyệt Nhân-trung của Minh-Ðệ. Minh-Ðệ đang mơ mơ, tỉnh tỉnh, nàng rùng mình rồi mở mắt ra. Nhìn thấy sư ông cùng những người lạ, nàng lên tiếng hỏi:
- Thưa thầy, đây là đâu? Tại sao con lại ở đây?
Vị sư nói:
- Ðây là Từ-quang tự. Bần tăng pháp danh Viên-Chiếu. Không rõ nguyên do nào tiểu cô nương lại nằm giữa đường, may gặp y-sư Xuân-Hòa đi qua, mang vào đây để chữa trị.
Nhìn gương mặt từ ái, cùng lời nói ôn nhu của nhà sư, bất giác Minh-Ðệ òa lên khóc. Viên-Chiếu nhỏ nhẹ:
- Tiểu cô nương chẳng nên thương tâm làm chi. Trên thế gian này có biết bao nhiêu điều đứt ruột ra được, mà chúng sinh vẫn phải chịu. Những đau khổ của cô nương là do nghiệp quả muôn vàn kiếp trước để lại, chứ đâu phải mới đây?
Mấy bà làm công quả cho chùa đã đến từ bào giờ. Viên-Chiếu bảo một bà:
- Bà Ðinh mau vực cô đây ra ao tắm rửa sạch sẽ, rồi cho cô mượn bộ quần áo mặc tạm. Tắm xong đưa cô vào phòng dành cho khách, để y-sư khám bệnh.

Ghi chú:
VIÊN-CHIẾU Bồ-tát -92tục danh là Mai Trực, người đất Phúc-Dương, huyện Long-Ðàm, là cháu của Linh-Cảm thái hậu, tức anh em con cô con cậu với Nhật-Tông 0. Ngài thuộc thế hệ thứ bẩy dòng thiền Quán-bích. Ngoài ra ngài còn là một thi sĩ. Ðộc giả sẽ thấy trong những hồi sau, ngài có rất nhiều công lao trong việc đánh Tống, cùng hoằng dương chính pháp thời Lý.

Bà Ðinh vực Minh-Ðệ đi rồi, nhà sư hỏi thầy lang:
- Phải chăng tiên sinh là đệ tử của Vạn-thảo sơn trang? Bần tăng mắt kém không biết tiên sinh là cao đồ của vị nào trong Vạn-thảo tứ tiên?
Thầy lang cung tay:
- Bạch thầy con là đệ tử của đệ tam tiên.
Viên-Chiếu á một tiếng:
- Thì ra tiên sinh là đệ tử của Yên-vương vương phi đấy, hèn chi y đạo cao thực.
Nguyên Hồng-Sơn đại phu có nhiều đệ tử, nhưng chỉ bốn người nổi danh y-thuật, y-đạo. Người lớn nhất là Dương Bình, thầy của nhà vua, hiện giữ chức Thái-sư, lĩnh Tả kim-ngô đại tướng quân, tổng chỉ huy thập đạo Thiên-tử binh, quyền hành cao hơn tể tướng. Người thứ nhì là Hoàng Giang cư sĩ, hiện là chưởng môn phái Sài-sơn, uy đức trải khắp thiên hạ. Người thứ ba là Lê Thiếu-Mai, con gái của đại phu, trước đây là Vương phi của Yên-vương Triệu Thành nhà Tống. Từ khi Yên-vương hoăng, Vương phi đi khắp một giải Hoa-Nam, Ðại-Việt, Ðại-lý cùng chư đệ tử hành y-đạo cứu nhân độ thế. Người thứ tư cũng là con trai đại phu tên Lê Văn, hiện là phò-mã Xiêm-quốc, lĩnh U-bon vương, tổng lĩnh binh mã toàn quốc. Tuy bận rộn quân vụ, nhưng Vương cũng thiết lập một trường y khoa, đào tạo y sĩ, đệ tử của vương hiện diện khắp nơi. Vì cả bốn đều có địa vị cao quý, nhưng vẫn hành y-đạo, phơi phới nay đây, mai đó, cứu nhân độ thế, nên được người đương thời tặng cho mỹ tự là Vạn-thảo tứ tiên.
Ghi chú:
Về hành trạng, xuất thân của Hồng-Sơn đại phu, Lê Thiếu-Mai, Lê Văn xin đọc Anh-hùng Tiêu-sơn, của Yên-tử cư-sĩ. Còn về việc Dương-Bình, Hoàng giang cư-sĩ oai trấn Hoa-Việt, xin đọc Anh-linh thần võ tộc Việt, cùng tác giả, cũng do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành.

Bà Ðinh chạy ra cung tay:
- Thưa thầy cô ấy đã tắm xong, xin thầy ra tay tiên.
Thầy Xuân-Hòa chẩn mạch, xem xét qua cơ thể Minh-Ðệ, rồi trầm ngâm nói một mình:
- Cô này còn là một trinh nữ, tuổi khoảng mười sáu, do lao lực quá độ, khí huyết hư nhược nên trúng phong-hàn cảm mạo từ hơn năm ngày nay. Nhưng nhờ cô luyện nội công phái Mê-linh từ lâu, nội lực phi thường, nên không bị liệt giường. Ừ, bị cảm đã không thuốc thang, không nằm nghỉ thì chớ, lại còn lao lực ở chỗ ẩm thấp, vì vậy kinh khí bế tắc, nên nội công cao, chân khí mạnh mà không đẩy được hàn tà ra ngoài. Hôm qua bị ngã, toạc chân đổ máu. Ðã dùng thuốc dấu, nhọ nồi cầm lại rồi.
Thầy hỏi Minh-Ðệ:
- Tiếp theo, cô nương còn bị người ta dùng cầm nã thủ bẻ tay, dường như là một chiêu trong Tản-viên quyền pháp. Sau khi bẻ tay, người ta ném cô nương xuống đất, nên trán, vai, đầu xương hông bị bầm. Cuối cùng cô nương bị họ dùng hai chiêu cước của phái Tản-viên đá vào huyệt Hoàn-khiêu phải, và Chí-thất trái. Chiêu số khá mạnh. Có lẽ người đánh muốn giết cô đấy, vì với hai cái đá này nếu người thường thì e mất mạng rồi, nhưng cô nương có nội công cao thâm, nên chỉ ngất đi thôi. Ai đã đánh cô nương? Ðánh trong trường hợp nào? Tại sao cô nương cũng biết võ công mà không chống trả?

Minh-Ðệ thấy thầy lang chẩn sơ mà biết rõ ngọn nguồn, nên nàng không dấu diếm:
- Thưa thầy người đánh con là em ruột con. Con không biết võ, mà nó lại là học trò trường Trung-nghĩa, vì vậy con chỉ biết nghiến răng chịu đau thôi.
Tất cả mọi người đều kinh ngạc kêu lên tiếng ồ.
Thầy lang lắc đầu:
- Tôi phải gặp Trung-nghĩa đại tướng quân để lý luận với ông ta về việc này mới được. Mang danh là Trung là Nghĩa, mà để cho học trò đả thương người không biết võ thì còn dạy ai được? Hơn nữa em định giết chị. Hừ...
Thầy im lặng một lát rồi tiếp:
- Tiếp theo, người ta dùng trứng gà luộc đánh cảm cho cô nương, rồi cô nương lại bị người nào đó đánh bằng gậy cứng tất cả 68 lần vào lưng, vào vai, bốn lần vào cánh tay. Như vậy chứng tỏ cô nương bị đánh trong lúc ngồi, mà tuyệt cô nương không có ý chống cự. Người đánh này không biết võ, nên các vết thương chỗ sâu, chỗ nông.
- Dạ, thưa thầy đúng đấy ạ. Người đánh con chính là mẹ con. Mẹ con đánh con bằng đũa cả.
Nhà sư Viên-Chiếu bật lên tiếng niệm Phật:
- A-Di-Ðà Phật.
- Rồi không hiểu sao trong lúc cô nương đau đớn ngất đi, lại rơi xuống nhà cầu, đáng lẽ đến đây thì cô nương chết. Nhưng nhờ cô nương luyện nội công phái Mê-linh đến trình độ khá thâm hậu, nên lại tỉnh dậy, rồi đi trong đêm đến nỗi ngất đi. Dám hỏi, cô nương là đệ tử của cao nhân nào trong phái Mê-linh?
Minh-Ðệ ngơ ngác:
- Thưa thầy con chưa từng học võ, con cũng không có sư phụ, con cũng chưa biết phái Mê-linh là gì!
Thầy lang Xuân-Hòa tỏ vẻ không hài lòng:
- Tiểu cô nương, tôi đem tâm não trị bệnh cho cô nương, sao cô nương lại dấu tôi? Cô nương đã luyện nội công thượng thừa của phái Mê-linh từ mấy năm nay rồi, mà cô nương còn dấu tôi làm gì?
Minh-Ðệ chắp tay lạy:
- Thưa thầy quả con chưa hề tập võ, nếu con tập võ, thì đời nào con để cho đứa em nó đánh đập nhục nhã như vậy?
Nàng ngồi dậy chắp tay ngửa mặt nhìn ra tượng Quan-Thế-Âm ngoài sân:
- Nam-mô cứu khổ cứu nạn Quan-Thế-âm bồ tát, đệ tử xin thề trước ngài rằng đệ tử chưa từng tập võ, cũng không hề biết phái Mê-linh là gì. Nếu đệ tử nói dối, thì thân này sa mười tám tầng địa ngục đời đời, kiếp kiếp.

Thời bấy giờ Phật-giáo là quốc giáo, từ tăng ni cho tới Phật tử đều hết sức thuần thành, đạo đức. Bất cứ người ta bị nghi ngờ điều gì, thì chỉ cần tới bàn thờ Phật thề, là sự oan uổng được cởi bỏ. Thấy Minh-Ðệ tâm thành, thề độc như vậy, nhà sư Viên-Chiếu bước tới cầm mạch, rồi ông dùng nội công đẩy vào người nàng. Ông thấy trong người nàng có một luồng nội công âm nhu, pha lẫn thiền công, đúng là nội công Mê-linh, phản ứng lại cực mạnh. Ông dồn chân khí sang mạnh hơn, sức chống tự nhiên biến mất, mà lại hóa thành sức hút, khiến chân khí của ông ào ào tuôn ra. Kinh hãi ông vội thu liễm chân khí lại, rồi nhảy lùi ba bước. Ông biến sắc nhìn Minh-Ðệ, thấy nét mặt nàng ôn hòa, thành thực chứ không phải sảo trá. Như vậy nội công của nàng do đâu mà có?
Thầy lang Xuân-Hòa thở dài:
- Bạch thầy, đệ tử nói có đúng không?
- Vâng, thầy luận đúng.
Viên-Chiếu đáp: Nhưng bần tăng e trung gian có điều gì bí mật chăng. Tiểu cô nương đây là con Phật, ắt không dám thề dối đâu. Ta không nên kết tội cô vội.
Ông hỏi Minh-Ðệ:
- Thế từ trước đến giờ có ai giảng cho con về yếu quyết kinh Bát-nhã không?
- Bạch thầy có. Con là Phật-tử, nên ngày nào sáng, chiều, cùng những lúc gặp điều khổ ải, con đều niệm kinh Bát-nhã cả.
Viên-Chiếu, Xuân-Hòa nhìn nhau gật đầu.
- Thế có ai dạy con thở hít không?
- Thưa thầy có.
Thầy lang Xuân-Hòa gật đầu:
- Ai đã dạy cô nương, dạy trong trường hợp nào?
Minh-Ðệ cúi đầu thuật chi tiết việc nàng được dạy nhập tĩnh, thở hít, nhưng nàng không nói rõ là do Quan-Âm dạy, mà lướt qua:
- Người dạy con, bắt con phải phát thệ không được nói cho ai biết danh hiệu của người, nên con... con không dám khai.
Xuân-Hòa thở phào:
- Tôi nói cho cô nương biết, phúc trạch cô nương dồi dào còn hơn núi Tản-viên nữa. Cô nương đã được một vị có thân phận cao không biết bao nhiêu mà kể dạy khí-công thượng thừa cho cô nương, rồi lại giảng tâm pháp thiền công cho cô nương nữa, mà cô nương không biết đấy thôi.
Sự thực Xuân-Hòa muốn nói đến một người tại thế, trong khi Minh-Ðệ lại tưởng là ông nói đến ngài Quán-Thế-Âm, nàng gật đầu, tỏ ý hiểu:
- Dạ khi con thấy người xuất hiện, con đã biết người là ai và đảnh lễ rồi.

Thầy lang Hoà gật đầu:
- Bây giờ trước hết tôi trị cảm mạo cho cô nương bằng châm cứu, sau tôi tặng cô nương mấy lá cao để dán vào các vết thương.
Nói rồi thầy lấy kim châm vào huyệt Phong-trì, Phong-phủ, Phong-môn, Túc-tam-lý, Hiệp-cốc, Thận-du, sau đó quay kim. Một khắc sau mồ hôi trên người Minh-Ðệ xuất ra như tắm, bao nhiêu cái mệt mỏi, bao nhiêu cái nặng nề trên cơ thể biến mất. Thầy hỏi:
- Sao, cô nương thấy sao?
- Thưa thầy con chỉ còn thấy nhức trên trán một tẹo thôi ạ.
- Dễ mà.
Thầy lại dùng kim châm vào huyệt Dương-bạch, Toán-trúc, Hậu-khê, rồi quay kim, chưa đầy mười tiếng đập tim, thì cảm giác đau đơn, nhức trán của Minh-Ðệ hoàn toàn biến mất. Thầy móc trong bọc ra hai hộp cao:
- Tôi biếu tiểu cô nương hai hộp cao này. Hộp xanh, cô nương bôi vào mấy vết thương chảy máu. Khi nào những vết đó đóng vảy, thì cô nương dùng hộp mầu vàng xoa lên các vết bầm. Cứ như vậy khoảng nửa tháng thì khỏi hẳn, không lo gì nữa. Thôi tôi xin kiếu.
Minh-Ðệ chắp tay lễ ba lễ:
- Hiện trên người con không có một đồng, chả biết lấy gì tạ thầy.
Xuân-Hòa xua tay:
- Cô nương đừng ái ngại.
Minh-Ðệ cúi đầu:
- Ân đức này của thầy không bao giờ con quên.
Thầy lang bước khỏi phòng. Thằng bé đánh xe tên Ðoan nói với hai đứa trẻ tên Ninh, Quang:
- Chiều gặp lại.
- Ừ, chiều gặp lại.
Nhà sư Viên-Chiếu tiễn thầy lang ra cửa, rồi trở vào nói với bà Ðinh:
- Bà cho tiểu cô nương đây trú tại căn phòng phía sau nhà tổ, hằng ngày chăm sóc cho cô. Khi nào cô khỏi, thì thầy sẽ cho người đưa cô về với bố mẹ cô.
Hai đứa trẻ tên Ninh, Quang lăng xăng dọn phòng cho Minh-Ðệ ở. Minh-Ðệ nhìn hai đứa: mặt mũi khôi ngô, dáng khoẻ mạnh, tuổi khoảng 8-9. Thằng Quang chỉ cái giường bảo nàng:
- Chị nằm đây mà nghỉ, em đi lấy cháo nóng cho chị ăn. Cháo nóng nấu với lá hành, gừng, chữa cảm hay lắm.

Minh-Ðệ hỏi thằng Ninh:
- Các em đi tu đấy à?
- Không! Bọn em là trẻ trong làng, cùng đến trường học chữ với nhau. Ðợi lớn lên mới xin học thầy đồ Thái.
- Trong chùa có mấy đứa như em?
- Tất cả mười tám đứa. Nhưng chỉ năm đứa em là chơi thân với nhau thôi. Năm đứa chúng em là con nhà nghèo, nên phải giúp đỡ việc vặt trong chùa, làng mới nuôi bọn em. Năm trước, riêng thằng Ðoan được thầy lang Hòa đem về nhà dạy thuốc nên chỉ còn bốn đứa. Em tên là Ninh, vì da em đen nên chúng nó gọi em là Ninh đen, rồi Ninh Mai hắc-đế. Thằng Quang tính rụt rè như con gái, nên có qúy danh là Quang con ghế. Trước kia thằng Ðoan không có qúy danh, từ ngày theo thầy lang Hòa, nó có tên là Ðoan lang băm.
- Em nói bọn em có năm đứa, sao chỉ thấy có ba?
À thằng Nghi lùn vắng mặt, vì sư cụ sai nó đi đưa thư. Có lẽ chiều mới về. Còn thằng Dật lé thăm quê, mai mới lên.
- Thế bọn em làm việc gì trong chùa?
- Có làm gì đâu? Sáng dậy sớm nhập thiền, xong làm việc vặt như lau tượng, quét sân. Trưa thì học chữ. Thằng Ðoan ở với thầy lang Hòa nhưng trưa phải đến đây học chữ.
Vì vết thương trên người quá nhiều, hơi cử động là đau, nên Minh-Ðệ đóng cửa, ngồi trong phòng thở hít, nhập tĩnh cùng luyện yếu chỉ kinh Bát-nhã. Bốn đứa trẻ Dật, Quang, Nghi, Ninh thay nhau đem cháo, nước đến phòng cho nàng. Nhờ thầy lang, nàng biết ba bảo bối mà Quan-Âm dạy nàng là nội công thượng thừa của phái Mê-linh, nên nàng cứ luyện đi, luyện lại suốt ngày. Sang đến ngày thứ tư, thì các vết thương chảy máu đã đóng vảy, nên sáng, chiều nàng đều lên bảo điện dự khóa lễ. Thời giờ còn lại, nàng giúp việc chùa như quét sân, nhặt rau, dã gạo, nấu bếp, kể cả làm cỏ. Những người làm công quả trên chùa, ngoài bà Ðinh ra, còn đến trên mười bà. Họ đều ở vào tuổi trên năm mươi, rất thuần thành. Nghe chuyện Minh-Ðệ, bà nào cũng thương cảm hết. Các bà may quần áo cho Minh-Ðệ mặc. Trong các bà, thì bà Hiếu, bà Liên, bà Ðức là ba bà hay săn sóc nàng nhất. Vì vậy, đôi khi nàng tủi thân:
- Tại sao mẹ mình lại không thương mình bằng mấy bà này? Giá mình có một bà mẹ như mấy bà này có phải hạnh phúc biết bao nhiêu không?

Trong chùa, ngoài sư trưởng Viên-Chiếu, còn có năm nhà sư trẻ, pháp danh Viên-Căn, Viên-Mộc, Viên-Chi, Viên-Diệp, Viên-Hoa, tuổi khoảng 24-25 và mười chú tiểu, tuổi từ 10 đến 15, với năm đứa trẻ Dật, Quang, Nghi, Ðoan, Ninh.
Công việc của chư tăng trong chùa rất giản dị. Sáng sớm dậy dự khóa lễ, sau đó ngồi nghe sư trưởng giảng kinh. Buổi giảng kinh thường kết thúc trước Ngọ. Ăn cơm trưa xong, thì chư tăng phân tán đi làm việc. Chiều, ai nấy về tịnh thất của mình nhập thiền.
Khi dọn dẹp Tàng-kinh các, Minh-Ðệ thấy ở đây cạnh những kinh điển nhà Phật, còn có không biết bao nhiêu sách của Nho-gia, Ðạo-gia, cùng kinh, sử, tử, tập. Vì vậy ngoài những lúc làm việc, nàng lại đem sách về phòng đọc, thành ra cuộc sống ở chùa với nàng trở thành những ngày thanh nhàn, hạnh phúc gấp trăm, gấp nghìn lần ở với cha mẹ.
Năm đứa trẻ đối với nàng cực kỳ thân thiết. Tuy chúng mới học có ba năm, mà đã hết Tam thiên tự, Ấu học ngũ ngôn thi, và bắt đầu học Nam sử. Sau buổi học trên chùa do thầy đồ trong làng dạy, chúng lại xuống phòng nàng, xin nàng kể chuyện cổ tích, chuyện lịch sử cho chúng nghe. Riết rồi Minh-Ðệ trở thành một bà đồ của chúng. Vì nàng ngọt ngào, dễ tính, nên chúng luôn luôn ở cạnh nàng.
Một hôm sư trưởng gọi bà Ðinh với Minh-Ðệ lên bảo điện, dạy rằng:
- Thầy có việc cùng chư tăng phải đi xa dự kiết hạ trong mấy tháng mới về. Vậy nhất thiết mọi việc ở nhà thầy giao cho bà với Minh-Ðệ. Nếu có chư tăng, hoặc khách vãng lai, thì phải làm cơm chay, mang hoa quả cúng dàng cho chu đáo.
Ông dặn năm đứa trẻ:
- Năm con ở nhà phải hết sức nghe lời chị Minh-Ðệ. Mỗi khi có điều gì không hiểu, thì nhờ chị giảng cho.
Năm đứa reo hò:
- Bạch cụ, chúng con xin tuân pháp dụ của cụ ạ.
Ðúng là vắng chủ nhà, gà mọc đuôi tôm. Năm đứa trẻ đang tuổi lớn, chúng leo trèo, nghịch ngợm khiếp lắm. Lúc đầu Minh-Ðệ la chúng. Nhưng hôm nay la, thì mai chúng lại tái phạm. Biết cái tuổi này ưa ngọt, nàng bảo năm đứa:
- Nếu trong năm em, mà em nào phạm tội, thì tối chị không kể chuyện cho nghe nữa.

Quả nhiên biện pháp này hiệu nghiệm. Từ đấy, nàng nói gì, chúng nghe răm rắp. Trong năm đứa thì Phạm Dật lớn tuổi nhất, tính tình cẩn trọng. Bố mẹ nó làm tá điền, nhưng năm ngoái ruộng bị sâu ăn, không đủ lúa dẫn tô cho chủ điền, nên chủ điền siết nợ căn nhà ọp ẹp với miếng đất nhỏ đem bán trừ nợ. Mẹ nó phải bán thân làm đầy tớ cho một phú gia, bố nó thì làm lực điền cho nhà giầu kiếm ăn. Riêng nó, được sư cụ mang về chùa nuôi cho ăn học. Trong chùa, nó phụ trách chăn trâu cắt cỏ. Thứ nhì là Vũ Quang, gia đình nó tương đối khá giả, nhưng năm trước đây bố nó bị bệnh hoạn, nên gia đình khánh kiệt. Khi bố nó chết, mẹ nó phải vay tiền của một ông nhà giầu chôn cất. Ðoạn tang chồng, mẹ nó không có tiền trả nợ, phải chịu tái giá, làm lẽ cho chủ nợ. Nhưng ông chủ nợ chỉ yêu mẹ, mà không yêu con, ông đánh đập nó hoài, chịu không nổi, nó bỏ đi ăn mày. Sư cụ thương tình, đem nó về nuôi dạy. Ðứa thứ bà là Hoàng Nghi, không biết lý lịch ra sao. Người trong làng thuật rằng, cách đây mười năm, có một ông cỡi ngựa bị thương nặng, lưng địu đột đứa trẻ đến chùa xin trú ngụ qua đêm. Sư cụ thương tình băng bó vết thương cứu ông, cùng nấu cháo cho đứa trẻ uống. Ðêm đó sư cụ với ông ta nói chuyện đến sáng. Hôm sau, ông ta trao đứa trẻ cho sư cụ nuôi dùm, rồi lên ngựa ra đi. Ðứa trẻ lớn lên trong chùa, không biết cha mẹ là ai. Cái tên Hoàng Nghi là do sư cụ đặt cho nó. Trong năm trẻ, thì Nghi cực kỳ thông minh. Tuy mới mười tuổi, mà nó đã học sang Tứ-thư, biết làm thơ, phú, soạn văn tế; nó lại lắm mưu nhiều mẹo. Ðứa trẻ thứ tư là Lý Ðoan. Bố mẹ nó làm nghề thợ rèn, năm trước đây có giặc, bố nó bị xung quân, rồi tử trận. Làng cấp ruộng tử tuất cho mẹ con nó. Nhưng năm sau, mẹ nó chết, làng lại giao ruộng tuất cho chùa, để chùa nuôi dạy nó. Cuối cùng là Trần Ninh, nó là con ông thủ bạ trong làng. Cho nên sáng nó đến chùa học, chiều lại trở về nhà.

Hơn nửa tháng sau, có chiếc xe song mã đậu trước chùa, trên xe, một đôi nam nữ ngồi rất nhàn nhã, tuổi khoảng trên bốn chục. Nam thì tướng mặt, thân hình cực kỳ hùng tráng, uy vũ. Nữ thì thanh nhã, nhưng đẹp tuyệt trần. Cả hai đeo kiếm trên lưng. Phu đánh xe là một người đàn ông lực lưỡng tuổi trên hai mươi. Minh-Ðệ vội chạy ra chắp tay:
- Kính chào quý khách. Không mấy khi quý khách vãng cảnh chùa, mời qúy khách vào chùa lễ Phật.
Người nữ hỏi:
- Cháu gái, thế sư trưởng đâu?
Minh-Ðệ nghe giọng nói của bà hơi lạ, nàng cung tay:.
- Thưa bà thầy cháu cùng chư tăng vắng nhà ít ngày.
Người đàn bà nói:
- Tiếc quá, Viên-Chiếu đại sư vân du xa. Chúng tôi với đại sư là chỗ thâm giao. Tuy đại sư vắng nhà nhưng chúng tôi cứ vào chùa chờ ít ngày vậy.
Tiếng « đại » bà nói thành tiếng « lại ».
Người đàn ông nói nhỏ với vợ:
Người đàn ông nói nhỏ với vợ:
- Em xem, sư huynh mình thực ngang tàng. Ai lại chùa toàn tiểu sa di, mà anh ấy dám cho con gái ở nhờ, không sợ làng bắt lỗi ư?
Người nữ cười, nét mặt bà rất tươi:
- Tự sư huynh nhiễm phải tính ngang tàng của chúng mình đấy.
Tiếng « tính » bà nói thành « lính ».
Minh-Ðệ cung kính dẫn đường cho hai ông bà. Dường như ông bà đã đến đây nhiều lần, nên tỏ vẻ thành thạo đường lối. Sau khi lễ Phật xong, người đàn bà nói:
- Chúng ta là bạn hữu của đại sư Viên-Chiếu. Chắc cháu mới đến đây, nên chưa gặp ta. Ta họ Trần, phu quân ta họ Triệu. Chúng ta tạm ở lại đây mấy ngày chờ sư huynh ta về vậy.
Minh-Ðệ sai năm ông thiên lôi dọn phòng vãng lai cho hai ông bà ở. Nàng bưng một mâm quả, pha trà bưng lên:
- Kính mời ông bà thụ lộc Phật ạ.

 

<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 170
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com