Chương 6b
Thường-Kiệt chỉ vào một tủ đầy chững chai lọ nói:
- Ðây là tủ đựng thuốc. Nếu sư muội thấy khó chịu thì nói cho huynh biết, huynh sẽ đưa thuốc cho mà uống.
Nói rồi ông chỉ từng lọ một mà giảng. Ðến một hộp bằng gỗ sơn son thiếp vàng, Thường-Kiệt nói:
- Thuốc này Hoàng Giang cư-sĩ chưởng môn phái Sài-sơn mới chế ra, định đem vào cho Khu-mật viện dùng, nhưng nay thì chưa cần đến.
- Thuốc gì vậy?
- Thuốc để trị Chu-sa huyền âm độc chưởng.
Minh-Ðệ muốn ngộp thở:
- Có phải dùng để trị tuyệt loại chưởng quái ác này không? Em chỉ nghe nói sơ lược về chưởng này mà thôi.
Thường-Kiệt giảng chi tiết về nguốn gốc Chu-sa huyền-âm chưởng. Minh-Ðệ thấy những điều ông giảng giống hệt sư phụ Tự-An đã giảng. Ông kết luận:
- Hiện chưởng này khá thịnh hành bên Tống. Ðại-Việt ta cũng có nhiều người luyện. Ai trúng chưởng của họ, thì đau đớn đến chết đi sống lại. Bấy giờ họ bắt phải làm gì cũng làm. Rồi cả đời phải trung thành với họ, mỗi năm phải tìm họ xin ba viên thuốc, uống vào dịp tiết Ðông-chí, bằng không sẽ lên cơn trong 49 ngày rồi chết. Vì chúng dùng độc chưởng khống chế những nhân vật quan trọng để làm gian tế cho chúng, nên Khu-mật viện dùng tế tác dò tìm ra phép chế thuốc giải, rồi chế thuốc, để phát cho những gian tế của chúng, để biến họ thành người của mình.
- Ðại-Việt có nhiều người biết chế thuốc này không?
- Chỉ có hai người. Một là thái-sư Dương Bình thầy dạy của Hoàng-thượng. Hai là Hoàng Giang cư-sĩ.
Minh-Ðệ mừng thầm:
- Như vậy ta không cần tìm sư phụ xin thuốc giải nữa, sẵn thuốc của sư huynh đây, ta lấy mà uống.
Nhưng khi Thường-Kiệt bỏ ra ngoài, ông lại cầm bình thuốc đó theo. Minh-Ðệ thất vọng, nàng ngồi một mình đọc sách. Qua cuộc đối thoại với Thường-Kiệt, Minh-Ðệ cảm thấy kinh hoàng hơn:
- Rõ ràng tâm pháp Cổ-loa do sư phụ sáng chế ra, rồi dạy cho sư huynh cùng chư đệ tử, nay sao sư phụ lại bảo mình ăn cắp cho người? Nếu người quên thì có thể bảo bất cứ đệ tử nào, hoặc sư huynh Thường-Kiệt trao cho, sao người lại phải bắt ta lấy cho người? Bây giờ ta ở đây, đêm nay không có tâm pháp cho sư phụ, thì ta lại bị lên cơn đau kinh khiếp như hôm qua nữa thì chịu sao nổi? Thôi cũng đành liều.
Nàng nghĩ tới cơn đau sẽ hành hạ đêm nay, rồi nhìn hộp thuốc:
- Theo sư phụ, ta phải vận công chống độc trong 49 ngày, rồi uống ba viên thuốc. Như vậy một năm sau ta phải ăn cắp Cổ-loa tâm pháp trao cho sư phụ, bấy giờ sư phụ mới cho thuốc giải. Nếu ta không chịu phản sư huynh Thường-Kiệt, thì sư phụ không cho ta thuốc. Nhưng không sao, bấy giờ ta sẽ thú thực với sư huynh rồi xin thuốc sư huynh cũng được.
Suốt ngày hôm đó Minh-Ðệ ngồi đọc sách. Những sách cận đại, nàng thuộc gần hết từ ngày ở căn nhà trong Khu-mật-viện. Bây giờ nàng đọc sang những sách Trung-quốc, nhất là những sách liên quan tới Nho-giáo. Nàng nghĩ:
- Hiện tộc Việt mình có chủ đạo riêng. Nhưng triều Lý lại dùng đạo đức của Phật-giáo cai trị nước. Ðúng như triết lý nhà Phật thì không đủ uy trị dân, thiếu dũng để bảo quốc. Cho nên ngài Vạn-Hạnh, Minh-Không, Huệ-Sinh đã biến đổi hành động của Phật-tử hướng về dân tộc. Vì vậy Phật-giáo hiện giờ không còn là Phật-giáo đến từ Trung-quốc, Tây-trúc, mà thành Phật-giáo Ðại-Việt rồi. Chả vậy mà trong việc phá các chư vương khởi loạn, Quốc-sư Huệ-Sinh đã đổi hẳn hành động, nên mới có việc chém các trưởng lão bang Nhật-Hồ, rồi Ưng-sơn giết Ðinh phi, tiên cô Bảo-Hòa giết Hồng-Phúc, rồi Thông-Mai giết mấy người họ Dương ở Bắc ngạn. Ta nghĩ, phải dùng một phần triết lý của Nho, hợp với Phật, hợp với chủ đạo sẵn có, thành một chủ đạo mới của tộc Việt. Có như vậy mới mong giữ được nước. (2)
Ghi chú:
(2) ÐVSKTT, Lý kỷ, Thánh-tông kỷ, chép: Niên hiệu Thần-vũ năm thứ hai(1070) Canh Tuất, mùa Thu tháng tám, vua cho dựng Văn-Miếu, đắp tượng Khổng-tử, Chu-Công, Tứ-phối 0, vẽ tượng Thất-thập nhị hiền 72. Người sau ai cũng kinh ngạc, vì từ vua Thái-tổ, Thái-tông cho đến Thánh-tông đều phong cao tăng Phật-giáo làm Quốc-sư. Chính vua Thánh-Tông cũng là một Phật-tử thuần thành. Nho-giáo thường bài xích Phật-giáo thế mà bỗng chốc nhà vua trọng Nho. Không ai hiểu tại sao cả. Duy độc giả Nam-Quốc sơn hà biết rõ chính là Yến-Loan. Vì sau này Yến-Loan thành Ỷ-Lan thần phi, đã khuyên vua trọng Nho, để hợp Nho với Thích thành một chủ đạo dân tộc, một vũ khí giữ nước, một triết lý văn hóa hiếm hoi trên thế giới.
Nàng ngồi đem những sách của Nho thần đời Hán, đời Ðường, cùng các danh Nho Tống mới đây ra đọc. Nàng đọc những sách về Giả-Nghị (3). Ðổng Trọng-Thư, Lưu Hướng, Vương Sung.
Nàng ngồi đem những sách của Nho thần đời Hán, đời Ðường, cùng các danh Nho Tống mới đây ra đọc. Nàng đọc những sách về Giả-Nghị (3). Ðổng Trọng-Thư, Lưu Hướng, Vương Sung.
Ghi chú:
(3) Giả-Nghị, người đất Lạc-dương đời Hán. Sinh năm 200 trước Tây-lịch, mất năm 168 trước Tây-lịch. Ông là tư tưởng gia, làm chức Bác-sĩ, cố vấn cho vua Hán Văn-Ðế. Bộ mà Yến-Loan đọc là bộ sách chú thích, giảng giải về hai tác phẩm của Giả-Nghị "Tần chính sự" và "Quá Tần luận".
Ðổng trọng-Thư, 85, đại tư tưởng gia đời Hán; làm chức Bác-sĩ đời vua Cảnh-Ðế nhà Hán. Bộ Yến-Loan đọc là bộ "Xuân-Thu phồn lộ" và "Văn tập".
Lưu-Hướng 71, tôn thất nhà Hán. Ông là đại tư tưởng gia, đại văn hào, ông cùng với nhóm thuộc hạ đã trứ tác, biên khảo đến hơn haimươi tác phẩm.
Vương-Sung -80, đại tư tưởng gia đời Hán. Tác phẩm có bộ Luận-hành 85 thiên, Luận-tính 16 thiên.
Hôm sau, Thường-Kiệt hỏi về những võ công mà Minh-Ðệ đã học được, nàng cứ sự thực khai hết. Sau khi khai, nàng xin Thường-Kiệt dạy nàng về khoa điểm huyệt. Thường-Kiệt chấp nhận liền. Minh-Ðệ vốn đã có căn bản về kinh lạc, huyệt vị. Nên Thường-Kiệt chỉ dạy có ba tối, nàng đã thông thạo.
Vào một buổi chiều, khi trời vừa tối, thì có thái giám ra tuyên triệu Thường-Kiệt triều có chuyện khẩn. Thường-Kiệt dặn nàng:
- Muội muội cứ ở nhà, trong chín nữ đệ tử của huynh, có tên là Phương-Lý, Phương-Cúc, Phương-Huệ, Phương-Liễu, Phương-Ðơn, Phương-Tiên, Phương-Dược, Phương-Quế, Phương-Quỳnh; chín nam đệ tử có tên là Anh, Hùng, Hào, Kiệt, Nhân, Nghiã, Lễ, Trí, Tín, muội muội muốn sai bảo gì, cứ gọi chúng. Chiều nay muội muội ăn cơm với 18 đệ tử của huynh.
Nói rồi ông lấy ngựa lên đường.
Khi mặt trời ngả bóng về Tây, thì một hồi trống đánh lên, ngoại đồ lục tục ra về. Cổng dinh đóng lại. Trong dinh chỉ còn mười tám nội đồ. Minh-Ðệ nhận thấy Thường-Kiệt không dùng nhiều tôi tớ như những đại thần khác, nhất là không dùng lính gác. Trong dinh chỉ có năm người làm vườn, năm mã phu, cùng với đám nhà bếp hơn mười người nữa. Quản dinh là Dư bà, người nuôi sữa Thường-Kiệt hồi nhỏ, nay Thường-Kiệt đem về phụng dưỡng tuổi già.
Cơm chiều xong, Minh-Ðệ dạo chơi quanh cái hồ trước dinh, cùng vườn hoa. Nàng muốn tìm một chỗ nào yên tĩnh, để ngồi chịu cơn đau đớn, mà không ai biết. Dạo hết một vòng dinh, nàng đã tìm ra chỗ dàn hoa lý với mấy bụi móng rồng là khuất khúc nhất. Chỗ này có cái ghế dài. Nàng định khi cơn đau tái phát, nàng sẽ núp vào đây mà chịu trận. Nàng tự hứa:
- Ðúng ra ta phải hiếu với sư phụ. Sư phụ bảo ta trộm tâm pháp cho người, mà ta trộm thì thành ra ta lâm vào tình trạng bất hiếu như ngài Tăng-tử xưa kia sao? Nhất định ta chịu chết chứ không thể trộm tâm pháp, mà thành bất hiếu với sư phụ, bất nghĩa với sư huynh.
Bỗng nàng nghĩ tới Quan-Âm:
- Hay ta tụng Quân-Âm cứu khổ, cứu nạn cho ta vậy. Ai cũng bảo Quan-Âm là người sống, chứ không phải Phật bà. Sư huynh đối với ta tử tế thế này là biết ta cùng học ở Quan-Âm với người. Nhưng Quan-âm là ai? Không lẽ Quan-Âm là tiên cô Bảo-Hòa? Mình nghe nói Tiên-cô mặc áo xanh, quần trắng, hoặc áo nhung đỏ quần trắng chứ đâu người có mặc áo trắng? Vả Tiên-cô là chưởng môn phái Tản-viên, sao người lại dạy tâm pháp Mê-linh cho ta? Thực khó hiểu?
Bất giác nàng cất cao giọng tụng kinh Quan-Thế-Âm.
Tụng xong, nàng ngồi xuống cái ghế cạnh bụi hoa dạ hương, rồi ngẩn người suy nghĩ về Quan-Âm, về vợ chồng quý nhân, về Tự-An. Một lát nàng ngửng mặt lên, thì thấy một người đàn ông mặc quần áo Nho sinh, đứng tần ngần cách nàng mấy trượng, đang nhìn nàng. Minh-Ðệ ước lượng người ấy tuổi khoảng trên dưới ba mươi. Tưởng y là người trong dinh, nàng hỏi:
- Tiên sinh là ai? Ðối với quan Thái-bảo là chỗ thế nào?
Người đó không trả lời, mỉm cười:
- Cô nương là ai, đối với Thường-Kiệt là chỗ thế nào?
Minh-Ðệ thấy người đó già cũng chưa phải già, trẻ cũng không phải trẻ. Nhưng dáng điệu bệ vệ, ôn nhu văn nhã, hơn nữa dám gọi tên của sư huynh nàng ra, thì hẳn có địa vị lớn lắm. Nghĩ vậy nàng vuốt tóc lễ phép:
- Tôi là tội nhân bị Khu-mật viện bắt để điều tra, rồi Thái-bảo đem tôi về đây chơi.
- Cô nương nói lạ.
Người đó lắc đầu cười rất tươi: Cô nương là tội nhân, thì bị giam trong tù. Còn như cô nương là nhân chứng thì được ở Thính-hương vãng lai xá bên hồ, chứ có đâu được đưa về đây để thưởng hoa? Cô nương nói dối rồi. Cô nương theo đạo Phật mà nói dối, thì sau chết xuống Âm-phủ sẽ bị quỷ sứ cắt lưỡi cho mà coi.
Minh-Ðệ biện luận:
- Tôi không nói dối tiên sinh đâu. Không tin tiên sinh hỏi Thái-bảo thì biết. Sở dĩ tôi được Thái-bảo mời đến đây chơi ít ngày là vì Thái-bảo biết tôi với Thái-bảo học cùng một sư phụ.
- À thì ra thế. Cô là sư muội của y hẳn? Thế sư phụ của cô là ai nào?
Minh-Ðệ thấy Nho-sinh đổi ngôn từ, đang gọi nàng là cô nương, bây giờ gọi là cô rất thân mật, nàng cũng nói bằng giọng ôn nhu ngọt ngào:
- Sư phụ của tôi là Quan-Thế-Âm bồ tát.
- Tôi không tin.
- Tiên sinh không tin thì tôi xin chịu, chứ biết làm sao bây giờ.
- Ðược rồi, tôi tin. Bây giờ tôi hỏi thực, cô đẹp như thế này, thì hẳn phải là tiểu thư con quan đại thần nào đó. Tại sao cô lại phạm tội? Tội gì?
- Tôi là con nhà dân dã, bố mẹ tôi cũng có ít của. Nhưng mẹ tôi cùng em tôi đánh tôi đến chết đi rồi vứt xác xuống chuồng hôi, may tôi sống lại. Tôi tìm sư cụ cứu chữa cho. Sư cụ cho tôi tá túc ở chùa. Rồi người ta vu cho tôi gian dâm với sư.
- Cô lại nói hoang đường rồi. Tại sao mẹ cô với em cô lại đánh cô đến chết? Luật nước rất nghiêm, có đâu mẹ được đánh chết con? Em đánh chết chị? Hai người đàn bà đanh ác đó phạm điều 305 bộ Quốc-triều hình thư. Tôi phải bảo quan Hình-bộ thượng thư xử giảo họ mới được.
Minh-Ðệ dơ tay đánh gió nho-sinh:
- Tiên sinh nói ngông vừa thôi, nói lớn lối như hoàng đế vậy mà không sợ bị chặt đầu ư? Tiên sinh là « kí gì » mà đòi ra lệnh cho quan Hình-bộ thượng thư?
Nho-sinh cung tay:
- Thì cô biết đấy, kẻ sĩ thường hay nói ngông mà. Xin lỗi cô nghe. Thế chuyện của cô ra sao?
Minh-Ðệ thuật sơ qua vụ nàng bị đánh như thế nào. Người ấy cười:
- Thôi được. Chuyện này tôi tin cô. Nhưng cô ơi, tôi nhìn qua cũng biết cô còn con gái, một loại Phật tử thuần thành, đến nghĩ bậy cũng không có, thì sao người ta lại vu cho cô ăn nằm với sư. Bọn quan lại ăn nợ như thế mà trị dân thì sao cho dân hạnh phúc đây? Phải cách chức hết bọn đó đi. Ừ, mà dù cô có ăn nằm với sư, thì cũng chỉ bị đưa ra đình làng đánh roi, rồi thả thuyền trôi sông. Chứ có đâu bị đưa về Khu-mật viện?
Nghe Nho-sinh lớn lối chửi quan lại, Minh-Ðệ phì cười, nghĩ thầm:
- Mấy ông Nho-sinh ưa nói thánh, nói tướng đã quen, mình chẳng nên bắt lỗi.
Minh-Ðệ thuật qua vụ quý nhân tặng vàng, đưa đến nàng cùng chư tăng mang tội làm gian tế cho Tống. Nho-sinh hiểu ra:
- À thì ra thế. Bây giờ tôi cho cô biết tôi là ai. Tôi là sứ giả của Quan-Âm. Ban nãy cô niệm kinh, cầu ngài cứu khổ cứu nạn. Ngài sai tôi đến xem cô xin gì thì giúp cô. Hôm nay tôi chỉ giúp cô một việc thôi.
Minh-Ðệ kinh hãi, chửi thầm:
- Mình ngu quá, người này nói lớn lối như vậy, thì nhất định là sứ giả của Quan-Âm rồi. Nguy thực.
Minh-Ðệ vội gối lạy liền ba lạy:
- Thì ra ngài là Thiện-Tài đồng tử đấy. Ðệ tử có một bệnh không ai chữa cho được. Bệnh này cứ mỗi nửa đêm lại bị lên cơn đau đớn đến chết đi sống lại. Xin ngài ban ơn cứu đệ tử.
Thiện-Tài mỉm cười:
- Tưởng gì chứ việc đó đâu khó. Cô cứ ngồi đây chờ, lát nữa ta sẽ trao thuốc cho cô. Cô uống rồi ngủ li bì, thì làm sao mà đau đớn được?
Minh-Ðệ thụp xuống tạ ơn. Khi nàng ngửng đầu lên thì không thấy Thiện-Tài đâu nữa. Nàng đành ngồi chờ. Khoảng hơn hai khắc, thì Thiện-Tài lại xuất hiện, rồi trao cho nàng chín viên thuốc:
- Cô bỏ vào miệng mà nuốt đi.
Minh-Ðệ thấy viên thuốc giống hệt thuốc chữa Chu-sa Huyền-âm chưởng của Lý Thường-Kiệt thì không nghĩ ngợi, nàng cầm thuốc nuốt liền. Khi nàng ngửng đầu lên, thì Thiện-Tài đã biến mất. Nàng bắt đầu cảm thấy buồn ngủ, vội hướng phòng mình chạy về, đóng cửa rồi leo lên dường nhập vào giấc ngủ.
Tiếng chim kêu, tiếng chiêng làm Minh-Ðệ tỉnh giấc. Mặt trời đã hiện lên ở phương Ðông. Minh-Ðệ vội ngồi dậy, súc miệng, rồi ra sân xem đám môn sinh luyện võ. Bất cứ đám môn sinh nào thấy nàng, cũng cúi đầu hành lễ. Tuy bị ám ảnh bởi cái nguy cơ Chu-sa huyền âm độc tố, nhưng Minh-Ðệ vẫn cảm thấy thoải mái, vì đây là lần đầu tiên nàng được kính trọng, được sống trong an nhàn, thanh thản như vậy.
Cả ngày hôm đó, Thường-Kiệt không về, vì bận chính sự. Minh-Ðệ nảy ra ý định vào thư phòng Thường-Kiệt để sao chép tâm pháp Cổ-loa. Nhưng rồi nàng lại nghĩ:
- Nhất định ta không làm điều này. Thôi ta đành chờ Thiện-Tài xuất hiện cứu ta. Nếu ngài không cứu được, thì ta đành chịu chết vậy.
Minh-Ðệ rảo bước đến nhà thờ tổ của trang. Thời bấy giờ, mỗi trường dạy văn, dạy võ đều có nhà thờ tổ, để làm lễ nhập môn, hạ sơn cho chư đệ tử. Nhà thờ tổ của Thái-hà khá lớn. Nàng đẩy cửa bước vào, rồi đánh lửa châm lên mấy ngọn đèn. Trong ánh sáng lờ mờ, nàng thấy có ba bàn thờ khác nhau. Bàn chính giữa, hàng cao nhất là các vua Phục-Hy, Thần-Nông, Kinh-Dương. vua An-Dương. Hàng thứ nhì là vua Trưng. Hàng thứ ba là vua Lý Nam-Ðế, Bố-Cái, Ngô, Ðinh, Lê. Hàng thứ tư là vua Lý Thái-tổ, Lý Thái-tông.
Nàng nghĩ thầm:
- Bàn thờ này cũng giống bàn thờ ở Kinh-Bắc, không khác.
Nàng nhìn sang bàn phía tả, có mười hàng. Cao nhất là Phù-Ðổng thiên vương, Vạn-tín hầu Lý Thân, thánh Tản-viên Sơn-Tinh, Cao-cảnh hầu Cao Nỗ, Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung. Hàng thứ nhì là Trưng Nhị, Hoàng Thiều-Hoa, Phương-Dung, Thánh-Thiên, Phùng Vĩnh-Hoa. Hàng thứ ba đến Ðào Kỳ, Thi-Sách, Nguyễn Thành-Công, Nguyễn Tam-Trinh... cuối cùng là các đại công thần triều Lý mới tuẫn quốc. (4)
Ghi chú:
(4) Hành trạng các nhân vật trên, xin xem Anh-hùng Lĩnh-Nam, của Yên-tử cư-sĩ do Nam-á Paris xuất bản.
Cảm khái dâng lên trong lòng:
- Ðây là bàn thờ các tổ võ. Xưa kia bà Hoàng Thiều-Hoa chỉ là cô gái chăn trâu, bị đời hắt hủi còn hơn ta nhiều, nhưng nhờ có chí lớn, đã làm lên chuyện kinh thiên động địa. Tại sao ta không thể làm như bà?
Nhìn sang ban thờ phía hữu, thì thấy thờ An-Tiêm, Chử đạo-tổ, Tiên-Dung, cùng chư thần. Chợt nàng để ý đến một bàn thờ đặt giữa nhà, có chữ sinh từ, không tạc tượng, mà lại thờ bằng hình vẽ. Nàng nhủ thầm:
- Ta thử xem, sư huynh thờ sống những ai mà người thọ ơn đây.
Nàng chú ý thấy nét chữ Thường-Kiệt đề ở hình thứ nhất:
"Sư phụ, tiên cô, chưởng môn phái Tản-viên, hoàng triều trưởng đại công chúa chi linh vị".
Minh-Ðệ thở phào:
- Sư huynh thờ sống tiên cô đây. Hôm trước mình cứ nghĩ Quan-Âm là tiên cô Bảo-Hòa, nhưng hình này không phải Quan-Âm mà mình được gặp.
Hình thứ nhì vẽ một người mặt rất uy vũ, dưới có hàng chữ:
"Thái-sư phụ chưởng môn phái Ðông-a, tính Trần húy Tự-An chi linh vị".
Mặt Minh-Ðệ tái đi, tai ù không còn nghe thấy gì nữa, vì hình này hoàn toàn khác hẳn với sư phụ Tự-An đã dạy võ nàng. Quá kinh hoàng, nàng ra khỏi nhà tổ, rồi thẫn thờ đi trong sân:
- Tại sao hình mà sư huynh vẽ để thờ sống lại khác hẳn người ta gặp. Mặt trong hình bầu, mắt lớn, trán cao, có hai lằn râu rồng bên mép. Còn sư phụ bên ngoài thì mặt hơi dài gẫy như cái lưỡi cầy? Hay là hình vẽ hồi sư phụ còn trẻ, bây giờ người già rồi, khuôn mặt đổi đi chăng? Ðợi sư huynh về ta phải hỏi cho ra lẽ mới được.
Khi trời tối, Minh-Ðệ lại ra chỗ dàn hoa dạ hương, rồi ngồi đọc kinh Quan-Thế-Âm. Lát sau Thiện-Tài lại hiện ra. Minh-Ðệ thụp lạy, thì Thiện-Tài nắm tay nàng nâng dậy. Ông ta cười, hai đuôi con mắt khép lại rất dài, trông rất tình:
- Tôi thực không phải với cô nương. Tôi là người dưới thế gian, tôi là Nho-sinh học ở Thăng-long, chứ không phải Thiện-Tài. Hôm qua tôi tặng thuốc cho cô nương, để cô nương ngủ say, mà không bị cơn đau hành hạ. Thế nhưng chính tôi lại bị bệnh mới khổ chứ!
Minh-Ðệ đã nghe nói rằng, những Nho-sinh học ở trường huyện phải giỏi lắm mới được tuyển lên học ở trường lộ. Rồi mỗi lộ lại tuyển những người giỏi nhất đưa về kinh học. Rằng những học sinh này, khi đức vua mở khoa thi, trúng tuyển, một bước lên quan. Rằng những Nho-sinh này rất đa tình, nhà nào có con gái cũng muốn gả cho họ. Vì vậy khi bị Nho-sinh đùa, mà nàng không giận. Nàng dơ tay đánh sẽ vào vai Nho-sinh:
- Cái anh này thực là tai quái. Anh dám xưng là sứ giả của Quan-Âm, mà không sợ người phạt ư?
Nho-sinh thấy nàng không gọi mình là tiên sinh, mà gọi bằng anh, thì cười:
- Cô dữ thực, đánh người ta đấy à? Quan-Âm thành Phật rồi, thì ngài đâu có chấp bọn nhất quỉ nhì ma này làm gì? Chỉ có cô đánh người ta mà thôi. Vả cô ơi, tôi theo Nho, không tin Thích đâu.
Minh-Ðệ hừ một tiềng:
- Anh nói lạ. Khổng-tử chẳng từng nói rằng: "Ðức quỷ thần thịnh lắm thay. Kính nhi viễn chi". Nay anh đem Phật ra đùa thì thánh Khổng sẽ đánh đòn cho mà coi.
Nho-sinh không ngờ Minh-Ðệ lại thông Tứ-thư như vậy. Anh ta chắp tay:
- Tôi nói càn, mong cô nương đại xá. Vì tôi đang bị bệnh.
Minh-Ðệ ngay thật hỏi:
- Anh nói anh bị bệnh, thế bệnh gì?
- Bệnh này mang tên "Mộc mục điền tâm", ngoài cô ra không ai chữa được.
Nói rồi Nho-sinh thở dài:
- Không biết đài gương có soi đến dấu bèo hay không?
Ðúng ra với câu nói này, thì bất cứ cô gái nào cũng biết rằng Nho-sinh tỏ tình, phản ứng tự nhiên sẽ ù té bỏ chạy. Hoặc gan hơn, thì cũng cúi đầu e thẹn. Nhưng một là Minh-Ðệ chưa từng tiếp xúc với con trai cùng lứa tuổi, lại cũng không được mẹ dạy dỗ, cũng chẳng được chơi với bạn gái để biết chút ít về những lời nói hoa bướm, tỏ tình của nam nữ. Vì vậy nàng mỉm cười ánh mắt sáng long lanh:
- Tôi quan tâm đến bệnh của anh lắm. Anh vì đi xin thuốc cho tôi mà bị bệnh. Hỡi ơi. Nếu như tôi có thể chịu đau cho anh, thì tôi cũng cam lòng.
Nho-sinh mừng rỡ ra mặt:
- Thế thì được rồi, cô nhớ nhé.
Minh-Ðệ thấy dường như Nho-sinh không hề bị bệnh tật gì cả. Nàng hỏi:
- Anh thực hay đùa. Hôm qua anh đã xưng làm Thiện-Tài đồng tử, làm người ta tưởng thực, rồi người ta lạy chí chết. Thế anh là ai?
Nho-sinh buột miệng nói:
- Người tưởng rằng được đối diện lạy ta dễ lắm sao? Trong thế gian này có vạn vạn người ước mong đứng trước mặt lạy ta mà không được.
Minh-Ðệ cầm lấy tai Nho-sinh kéo dài ra:
- Bất quá anh là học trò ở kinh, bạch diện thư sinh chứ báu gì mà khẩu khí như là hoàng đế không bằng. Tôi...tôi bắt đền anh đấy.
- Thế tôi lạy lại cô nương để trả lễ nhé?
- Không, tôi theo đạo Phật, không thù không oán ai hết, huống hồ anh đã xin thuốc chữa bệnh cho tôi. Thế anh là ai? Làm gì ở Thăng-long? Tại sao lại có thần dược trị bệnh cho tôi?
- Tôi là Nho sinh, tôi tuy không trị được cho cô nương, nhưng người thân tôi thì trị được. Nhà tôi cũng ở gần đây thôi. Nếu cô nương tin tôi, thì theo về nhà tôi, tôi sẽ nhờ người ta trị tuyệt bệnh cho cô nương.
- Ðêm hôm thế này, tôi đâu dám đi với người đàn ông lạ. Thế danh tính của anh? Bao nhiêu tuổi?
- Tôi tên là Dương Tông. Tuổi thì cô nương đoán lấy. Nếu cô nương không chịu đến nhà tôi, thì sao bạn tôi trị bệnh cho cô nương được. Thôi, đây là chín viên thuốc để cô nương qua đêm khỏi đau đớn.
Minh-Ðệ ngửa tay cầm thuốc, rồi bỏ vào miệng nuốt. Thấp thoáng một cái, Dương Tông đã biến mất.