Minh-Ðệ đinh ninh rằng Trương-tuần Huy đã nhận ra nàng, nên nàng không nói, không rằng, theo anh ta cùng đám đệ tử Trung-nghĩa về dinh hầu tước. Ðám Hợp, Phúc, Ðức, Ðạt vênh váo dắt trâu đi. Bà Ðinh lẽo đẽo theo sau. Năm đứa trẻ theo bén gót.
Khoảng hơn nửa giờ thì tới nơi. Trong sân dinh, đệ tử chia làm nhiều toán đang tập võ. Toán thì đánh côn, múa kiếm, toán thì đấu quyền. Khi thấy Trương-tuần Huy dẫn Minh-Ðệ cùng trâu trở về, họ đều ngừng tay, trố mắt nhìn nàng. Một trung niên nam tử tuổi trên bốn mươi cầm dùi đánh ba tiếng trống, lập tức đám môn sinh ngừng tậy, im lặng vào đại sảnh đường, theo thứ tự ngồi.
Ghi chú:
Bấy giờ làng Sủi thuộc tổng Dương-quang, lộ Kinh-Bắc. Sau đổi là Siêu-loại. Nay là xã Phú-thị huyện Gia-lâm, Hà-nội. Xã Phú-thị phía Tây-Bắc giáp xã Phù-đổng, Dương-xá, Ðặng-xá. Ðông giáp xã Dương-quang. Trước năm 1945 xã thuộc huyện Giia-lâm, tỉnh Bắc-ninh. Xã Phú-thị là đất văn học có tiếng: Nguyễn Huy-Cận -52 trong khoa thi 1780, đáng lẽ ông đỗ trạng nguyên, nhưng vì bài làm thất cách, phải giáng xuống đồng tiến sĩ; ông là nhà thơ, nhà văn có tiếng. Nguyễn Huy-Lượng đỗ hương cống thời Lê, đã có thời làm quan với Trịnh. Sau ông làm quan cho nhà Tây-sơn. Tác phẩm của ông được truyền tụng nhiều nhất là bài «Tụng Tây-hồ phú. Giòng họ Cao ở Phú-thị cũng lắm người nổi danh: Cao Huy-Diệu, đỗ đầu thi hương năm 1807. Cao Bá-Ðạt -1854, Cao Bá-Quát -46, con Bá-Ðạt là Cao Bá-Nhạ. Hồi ấy các xã Phú-thị 0, Dương-xá, Ðặng-xá, Dương-quang là ấp phong của Siêu-loại hầu. Theo quan chế triều Lý, khi một vùng được phong cho ai, thì ấp ấy coi như một nước nhỏ, hoàn toàn là sở hữu chủ của người được thụ phong. Những chánh tổng, lý trưởng đều do hầu tước chỉ định để thu thuế cho ông ta. Vì vậy Minh-Ðệ bị tội, thì giải về dinh hầu tước,rồi để cho lý dịch xử, sau đó đệ lên cho hầu xử chung thẩm.
Một đứa bạn của Minh-Can chỉ Minh-Ðệ nói nhỏ:
- Minh-Can này. Trông cô nàng đẹp đấy chứ, nhưng sao tướng hơi giống con chị ngẫn ngờ của của Minh-Can quá. Hay là y thị?
- Anh nói lạ.
Minh-Can trả lời: Mới sáu tháng qua, bộ y thị tu tiên lột da hay sao mà đang đen thủi đen thui, dáng đi lạch bạch như con vịt, béo ị như lợn, nay người thon, da trắng, môi hồng, tư thái ôn nhu văn nhã thế kia? Vả lại mấy tháng trước, chúng mình thường gọi thị là cái bị thịt, mỗi khi buồn thường đem ra đấm đá cho vui, thị chỉ biết khóc, sao thị có thể đả bại thập bát thái bảo trường Trung-nghĩa là sư huynh Trịnh Phúc?
Minh-Ðệ thấy tình hình người người vào đại sảnh, nàng nghĩ thầm:
- Họ tập hợp làm gì đây? Thôi hẳn là để xem ta bị hành tội chắc? Nghiệp quả, nghiệp quả, ta cũng đành nhắm mắt đưa chân, đến đâu hay đến đó.
Lát sau, nàng thấy các chức sắc, tiên chỉ, thứ chỉ, kỳ mục, lý trưởng, phó lý, khán thủ, lục tục kéo đến, ngồi ở dẫy ghế đầu của đám môn sinh Trung-nghĩa.
Trung niên nam tử đánh trống ban nãy cung tay chào khách rồi nói:
- Thưa các cụ chức sắc, các cụ tiên thứ chỉ cùng các vị chức dịch trong làng. Hiện sư phụ chúng tôi trẩy Thăng-long chưa về. Tôi là Ðoàn Quang-Minh, trưởng tràng, xin có lời kính trình các cụ. Hôm nay là ngày mừng thượng thọ của sư phụ chúng tôi. Anh em chúng tôi định hạ trâu mừng. Không ngờ con trâu bỏ chạy, rồi bị người ta bắt trộm. Ðệ thập bát sư đệ của tôi là Trịnh Phúc, dẫn các sư đệ Vũ Ðức, Vũ Ðạt cùng ông bà Ðào Hợp đuổi theo bắt trâu về, thì bị người trộm trâu đả thương. Tôi phải nhờ trương tuần dẫn mười đệ tử mới tróc nã được thủ phạm về cho làng xử. Vậy xin trao thủ phạm cho các cụ.
Anh ta chỉ vào Minh-Ðệ:
- Kẻ trộm trâu, đánh người là cô này.
Cụ tiên chỉ nguyên là một quan văn về hưu. Cụ vuốt râu hỏi:
- Phạm trường ở đâu?
- Thưa là sân chùa Từ-quang.
- Chùa Từ-quang ư? Chùa này nổi tiếng đạo đức khắp vùng, sao lại có trộm ẩn náu trong chùa. Tại sao không trình sư cụ giải quyết có phải êm đẹp không?
Quang-Minh đáp:
- Thưa cụ, sư trưởng vân du xa, ở nhà mọi việc do bà Ðinh trông coi. Chúng tôi có mời bà đến làm chứng đây. Xin cụ hỏi bà.
Cụ tiên chỉ quay sang bà Ðinh:
- Cô này làm gì ở trong chùa?
- Thưa cụ, cô ấy làm công quả cho chùa từ lâu rồi. Khi thầy chúng tôi đi kiết hạ, có giao cho cô với tôi trông coi chùa.
- Bà thuật cho tôi nghe từ đầu đến cuối sự việc xẩy ra.
Bà Ðinh thuật từng ly từng tý, từ khi con trâu chạy vào chùa cho đến khi bà cùng Minh-Ðệ bị bắt về đây. Nhưng bà không biết võ, nên khi thuật tới chỗ hai bên động thủ bà lướt qua.
Cụ tiên chỉ hỏi đám trẻ:
- Chúng bay là học trò, khi ta hỏi phải khai thực. Thế sự việc xẩy ra như thế nào?
Trần Ninh nhanh nhảu thuật lại từng chi tiết một.
Cụ tiên chỉ hỏi cung Trịnh Phúc, cùng anh em Vũ Ðức, Vũ Ðạt. Sau khi nghe xong, cụ phán:
- Trong vụ này có hai sự việc. Sự việc thứ nhất là cô gái kia bị cáo trộm trâu, sự việc thứ nhì là thị cùng đệ tử trường Trung-nghĩa đánh nhau. Việc thứ nhất, thì xã chịu trách nhiệm phân xử. Còn việc thứ nhì nằm trong luật lệ võ lâm, xin để Siêu-loại hầu chủ trì.
Ông hỏi:
- Con kia, họ gì? Quê ở đâu? Bố mẹ là ai?
Minh-Ðệ thấy em mình, cùng bạn chúng thường đánh đập nàng mà cũng không nhận ra nàng, nên nàng nghĩ thầm:
- Sự việc đã như thế này, thì mình phải nói dối, để tránh tai vạ cho bố mẹ.
Nghĩ vậy nàng nói:
- Thưa cụ cháu mồ côi từ nhỏ, không biết bố mẹ là ai, chẳng biết họ gì. Cháu bị người dì bán cháu làm nô bộc cho người ta ở trấn Thanh-hóa, chủ đặt tên cho cháu là Yến-Loan. Nhân vì chủ ác độc, cháu bỏ trốn lên chùa xin làm công quả, để chuộc tội cho bẩy kiếp phụ mẫu.
Ông chỉ vào mặt Minh-Ðệ:
- Thì ra quân trốn chúa lộn chồng đây.
Ông hỏi lại:
- Những lời cáo buộc của bên nguyên là Trịnh Phúc có chỗ nào sai không?
Minh-Ðệ lắc đầu:
- Không.
- Thế là được rồi.
Cụ đứng lên chỉ tay vào mặt Minh-Ðệ:
- Thấy trâu của người ta chạy, đáng lý mi không được mở cổng chùa cho nó cho vào. Khi mi mở cổng cho nó vào hẳn có ý định bắt lấy, thế là tà tâm muốn chiếm đoạt, tức tội trộm. Rồi khi người ta đòi trâu, mi muốn giữ lại, không cho đem trâu về giết, lại một lần nữa có gian ý công khai chiếm đoạt, thế là mang tội cướp. Sau đó mi ỷ võ công cao, đánh ba người đến bị thương. Người ta bỏ chạy, đáng lẽ mi phải đem trâu giao cho xã để trả lại cho chủ mới phải. Ðây mi lại giữ trong bãi cỏ của chùa, thế là có ý cưỡng đoạt công khai. Trước sau, mi phạm một lần tội trộm, hai lần tội cướp. Theo bộ Hình-thư của bản triều, thì tội trộm trâu bị lao dịch trong quân một năm. Hai lần tội cướp, bị đầy đi xa nghìn dặm. Vậy phải đợi quân hầu về xử.
Ghi chú:
Các nhà làm luật triều Lê, triều Nguyễn thường bị ảnh hưởng của luật Trung-quốc. Như bộ luật Hồng-Ðức bị ảnh hưởng rất lớn của bộ luật triều Minh. Bộ Hoàng-Việt luật lệ của triều Nguyễn không những bị ảnh hưởng luật triều Thanh, mà đôi khi còn chép nguyên văn những điều vô lý trong luật Trung-quốc đã lỗi thời, không còn xử dụng tới. Luật triều Lý được soạn thảo bởi các vị vua Phật-tử, nên đặt nặng vấn đề nhân trị, các hình phạt thường rất nhẹ. Tuy nhiên, vì đương thời triều đình rất quan tâm đến canh nông, do đó phạt nặng những kẻ trộm trâu. Sau này Minh-Ðệ lên làm Linh-Nhân hoàng thái hậu, bà đã nghiêm cấm, cùng ra lệnh phạt những kẻ giết trâu rất nặng. Hậu thế không ai hiểu tại sao cả. Chỉ độc giả Nam-quốc sơn-hà mới rõ ngọn nguồn mà thôi.
Bà Ðinh nói:
- Bẩm cụ tiên chỉ, thực oan uổng. Cô cháu đây làm công quả ở chùa, nên thâm nhiễm Phật pháp, vì vậy thấy trâu bị đuổi cùng đường, nên nảy từ tâm mở cửa cho nó vào. Thưa cụ, con trâu này có linh tính lắm, nó nằm phục trước thềm chùa khóc rống lên thảm thiết, nên cô cháu xin mua lại con trâu, nhưng các cậu này không chịu, ba người cùng ông bà hương Hợp xúm vào đánh cô ấy, chứ cô ấy đâu đó đánh trước?
Ðám trẻ nhao nhao lên:
- Thưa cụ tự mấy anh ấy cậy có võ đánh người trước, rồi chị cháu mới phải đánh lại đấy chứ? Thưa cụ như vậy là tự vệ. Tự vệ là không có tội.
Cụ thứ chỉ vẫy tay cho đám trẻ im lặng:
- Ta chỉ xử tội cướp trâu thôi. Còn chuyện đánh nhau để quân hầu xử.
Cụ hỏi Minh-Ðệ:
- Mi định hỏi mua trâu, thế mi có tiền không?
Minh-Ðệ gật đầu:
- Bẩm cụ có ạ.
Trịnh Phúc cười nhạt:
- Thưa các cụ, cháu nhìn cái ngữ cô này, thì e đến một đồng dính túi cũng không có, thế mà thị đòi mua trâu. Vì vậy cháu mới đoán ra rằng y thị muốn trộm trâu, cho nên sư đệ Vũ Ðạt mới giằng lấy trâu, rồi bị y thị đánh. Bẩm các cụ, nếu tính rẻ ra, thì con trâu mộng này đáng giá đến hai lạng bạc đấy ạ. Y thị làm gì có.
Cụ tiên chỉ hỏi Minh-Ðệ:
- Mi có hai lạng bạc để trả tiền mua trâu không? Nếu mi trình ra được hai lạng bạc, thì ta cải tội danh trộm cướp ra tội cưỡng mại, thì mi chỉ bị đánh đòn thôi.
Minh-Ðệ móc cái túi nhỏ, may phía dưới nách, trong vạt áo trước lấy ra một nén bạc. Nén bạc này ở trong số ba nén vàng và mười nén bạc, mà ông bà họ Trần cho nàng hôm trước. Nàng trao cho Trịnh Phúc:
- Ðây, nén bạc này nặng tới mười lạng. Tôi trả anh hai lạng để mua trâu, còn tám lạng, xin anh hoàn cho tôi.
Mọi người mở to mắt ra ngạc nhiên, ngay bà Ðinh cũng ngơ ngẩn cả người. Ông tiên chỉ nhìn ông thứ chỉ, ông thứ chỉ nhìn lý trưởng, cả ba không biết giải quyết sao. Nếu vẫn cứ bắt tội người con gái này, thì ra già đầu, làm quan mà nuốt lời với dân gian sao? Còn như tha tội cho y thị thì thực trái với luật lệ.
Cuối cùng ba cụ đành phải giữ lời hứa. Cụ tiên chỉ nói:
- Như vậy thị Yến-Loan được tha tội trộm, tội cướp, mà chỉ bị tội dùng lực cưỡng bức mua hàng mà thôi. Tội này thì phạt đánh hai mươi trượng.
Trịnh Phúc nói với Minh-Ðệ:
- Mua, hay bán là sự thỏa thuận giữa kẻ bản, người mua. Ta đâu có đồng ý bán trâu cho mi. Ta trả bạc cho mi đây.
Nói rồi y đưa bạc cho Minh-Ðệ.
Cụ tiên chỉ vẫy tay cho trương tuần Huy:
- Nọc cổ Yến-Loan ra đánh đủ hai mươi trượng.
Trương tuần Huy dạ, rồi chỉ chỗ trống phía trước:
- Yến-Loan nằm xuống thụ hình.
Ðám trẻ nhao nhao lên phản đối, thằng Quang nói:
- Thưa cụ hai mươi trượng đó, cụ để cho năm đứa cháu chị thay cho chị cháu được không ạ? Mỗi đứa chúng cháu chịu năm trượng, như vậy là đủ rồi. Xin cụ bằng lòng cho chúng cháu lĩnh đòn thay chị chúng cháu.
Nói rồi năm đứa nằm dài ra.
Minh-Ðệ vẫy tay:
- Chị cảm ơn em. Em cứ để cho chị chịu đòn.
Minh-Ðệ thấy thoát được trọng tội, lại không liên quan đến bố mẹ thì vui mừng chi siết kể. Nàng nằm dài xuống đất, hai tay buông xuôi. Chợt nhớ đến lời dạy của vợ chồng quý nhân:
"Can chủ cân. Tỳ chủ cơ nhục, khi bị trúng đòn dù bằng quyền, bằng chưởng hay bàng côn, bằng roi, thì gân thịt tổn thương đầu tiên. Vì vậy cần hít một làn khí, rồi dẫn lực về can kinh, tỳ kinh, thì có thể chống lại đau đớn".
Ghi chú:
Lý thuyết y khoa "Ngũ tạng sở chủ" này, ngày nay vẫn còn giá trị. Ngũ tạng sở chủ là: Can (gan) chủ cân (gân), tỳ chủ nhục (thịt), thận chủ cốt (xương), tâm (tim) chủ mạch, phế (phổi) chủ bì (da) mao (lông).
Bây giờ Minh-Ðệ sắp bị đòn, nàng vội vận khí về can kinh, tỳ kinh rồi chuyển qua mông, trong khi nàng bỏ ra ngoài Ngũ-uẩn, Lục-tặc, không tâm theo Bát-nhã.
Ghi chú:
Ngũ-uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Lục-tặc là sáu kẻ cướp, lời tỷ dụ để chỉ Lục-trần từ ngoài nhập vào gồm Sắc, Thanh, Hương, Vị, Súc, Pháp, do Lục-căn tiếp thụ là Nhãn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý. Ðây là những danh từ trong kinh Phật, đã giảng giải rõ trong bộ Anh-hùng Tiêu-sơn và Thuận-thiên di sử của Yên-tử cư-sĩ.
Một tên tuần đinh cầm côn dơ lên cao đánh thẳng xuống. Mọi người im lặng theo dõi. Bộp một tiếng, tiếp theo tiếng rắc, cây côn bằng gỗ lim gẫy làm đôi, cả hai khúc đều bay bổng lên cao. Viên tuần đinh ôm tay nhăn nhó tỏ ra đau đớn vô cùng.
Ðại sảnh đều kêu lên những tiếng kinh ngạc.
Trương tuần Huy hỏi:
- Sao vậy?
- Không hiểu nữa.
Trương tuần Huy gọi viên tuần đinh khác. Anh này lực lưỡng hơn anh trước. Anh ta cầm côn dơ thực cao rồi nện xuống. Chát một tiếng, cả cây côn vượt khỏi tay anh ta bay lên trúng xà nhà đánh bốp. Còn anh ta ngã ngồi ra sau, hai tay đau đớn vô cùng.
Cả đại sảnh la lớn kinh hoàng.
Bỗng một người học trò vào cung tay nói với cụ tiên chỉ:
- Thưa cụ, sư phụ cháu đã về.
Cụ tiên chỉ vẫy tay cho trương tuần Huy:
- Cho ả đứng dậy, tạm ngưng hành hình.
Từ cụ Tiên-chỉ cho đến chư đệ tử đều đứng dậy cung tay hành lễ. Siêu-loại hầu bước vào đại sảnh đường, đáp lễ mọi người. Sau khi mọi người an tọa, ông nói lớn:
- Tôi xin loan báo cho các vị biết hai tin mừng. Tin thứ nhất liên quan đến Bắc-cương, đó là vụ Tống chuẩn bị binh lương, vũ khí, đe dọa ta ở biên giới. Triều đình gửi mười đạo Thiên-tử binh của chúng ta, do ngài Thái-tử thiếu bảo, tả kiêu vệ thượng tướng quân, Thái-hà hầu Lý Thường-Kiệt dẫn từ Thăng-long lên tiếp viện cho vua bà Bình-Dương. Quân ta vượt biên làm rung động giang sơn Ðại-Tống, khiến Tống phải nhượng bộ.
Ông ngừng lại, chỉ lên bản đồ biên giới Hoa-Việt:
- Theo tin tức của của ngài Ðại-tư-mã Bắc-biên Thân Thiệu-Cực, thì bọn biên thần Tống như Dư Tĩnh, Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú vâng mật chỉ của triều đình Tống chuẩn bị xâm lấn ta. Kế hoạch của chúng rất độc. Trước hết làm sao chiếm dần 207 trang động Bắc-biên, tức hàng rào bảo vệ biên giới Hoa-Việt. Khi các trang động này thuộc Tống hết rồi, thì chúng như con hổ ngồi nhìn thẳng vào Thăng-long. Bấy giờ dù ta có binh hùng, tướng mạnh cũng không giữ nổi. Chúng không dấu diếm, nào mộ quân, luyện quân, đóng chiến thuyền, rèn vũ khí làm áp lực; nào mua chuộc các trang chủ, động chủ theo chúng. Ðã có nhiều trang động phải theo Tống. Vì vậy ta phải đánh tan âm mưu này.
Hội trường im phăng phắc. Hầu tiếp:
- Quốc-công Thân Thiệu-Cực bàn mưu: Ta phải làm cách nào nhử cho bọn biên quan Tống vượt biên đánh sang mình, mình phá tan đạo quân ấy trên đất Việt, rồi thừa thế đánh tràn sang chiếm lại các vùng đã mất. Như vậy mình mới có cớ nói với triều Tống. Long-thành ẩn-sĩ Tôn Ðản hiến kế rằng hiện quân Tống đóng ở vùng Ung-châu. Vậy ta không vượt biên đánh sang châu Ung. Ta nên dùng hư binh vượt biên đánh sang Khâm-châu. Tất nhiên Tống triều lệnh cho biên thần Quảng-Tây nghinh chiến. Bọn này nghĩ rằng đem quân từ Ung tiếp viện Khâm thì xa quá, chi bằng vượt biên ồ ạt đánh sang Lạng-châu, tất quân ta phải rút về giữ nhà. Vì vậy khi chúng vào đất Việt, ta dùng chính binh bao vây diệt chúng. Sau khi diệt chúng rồi, ta ồ ạt vượt biên đánh sang. Như thế ta mới có chính nghĩa.
Mọi người vỗ tay hoan hô.
- Sau khi nghị kế, thì quân ta chia làm hai cánh. Cánh thứ nhất đánh sang Tống là hư binh. Cánh thứ hai chờ quân Tống nhập địa rồi phản công mới là thực.
Ông lại chỉ lên bản đồ:
- Cánh thứ nhất do Long-thành ẩn sĩ Tôn Ðản, cùng phu nhân là công chúa Ngô Cẩm-Thi chỉ huy. Cánh này có Tả-kiêu vệ thượng tướng quân Lý Thường-Kiệt; trấn Bắc đại tướng quân Tôn Mạnh, Côi-sơn công chúa Trần Thanh-Nguyên; bình Nam đại tướng quân Tôn Trọng, công chúa Vạn-Hoa Ðào Phương-Hồng; Trấn-vũ thượng tướng quân Tôn Quý, Khâm-Minh quận chúa Phùng Kim-Thanh; Bình-tây thượng tướng quân Trần Anh, Quận chúa Tĩnh-Ninh. Cánh này đánh Khâm-châu. Bọn Nam thần Tống cố thủ không dám nghênh chiến. Quân ta vây phủ bên ngoài, đóng dài từ châu Vĩnh-an tới Khâm-châu; từ châu Tô-mậu tới châu Cổ-vạn (5). Chỉ hai ngày Cổ-vạn thất thủ, tướng trấn thủ là Lý Duy-Tân bị giết. Ba ngày sau châu Tư-lẫm lại bị chiếm. Quân ta vây Khâm-châu. Nhưng đêm đó, tất cả mười tám viên quan trấn thủ Nam biên Tống, chủ trương việc lấn chiếm lãnh thổ Ðại-Việt đều bị giết chết. Cả bố mẹ, vợ con, anh em, tôi tớ, cho đến lừa ngựa, chó mèo, gà vịt của chúng cũng bị giết. Quân Tống không người chỉ huy, mở cửa thành đầu hàng. Long-thành ẩn-sĩ ra nghiêm lệnh: tuyệt đối cấm đánh, cấm hành hạ thể xác tù binh, dân chúng. Bất cứ binh sĩ nào phạm vào tài sản của dân chúng, dù chỉ một con gà, một mớ rau thì cấp chỉ huy trực tiếp từ sư trưởng trở xuống đều bị cách chức, kẻ phạm tội sẽ bị chém đầu... Quả nhiên cánh quân này làm rung động triều Tống. Triều Tống ban chỉ cho An-vũ-sứ Quảng-Tây đem quân đánh sang Ðại-Việt để tra thù, như vậy bắt buộc đạo binh thứ nhất phải rút về.
Ghi chú:
Biến cố này xẩy ra năm 1059-1060, sử Việt không thấy chép, nên tôi thuật theo sử của Trung-quốc. Mà Lý Ðào, trong TTTTGTB, quyển 188, quyển 190 thuật sơ lược. Còn bộ QTNC và TTCTGCK lại thuật rất chi tiết. Tôi viết theo ba bộ này.
Mọi người suýt xoa vỗ tay, rồi nhao nhao lên:
- Xin quân hầu tiếp cho.
- Ừ, thì tiếp. Cánh thứ nhì đích thân vua bà Bình-Dương với Phò-mã Thân Thiệu-Thái chỉ huy, đóng ở động Giáp; quân sư là Ðại-tư-mã Bắc-biên, Hữu kim-ngô thượng tướng quân, Lạng-châu quốc công Thân Thiệu-Cực. Chư tướng gồm: Thái-tử thiếu phó, Phong-châu tiết độ sứ, Long-nhượng đại tướng quân, Thuần-nghĩa quốc công Lê Thuận-Tông, công chúa Kim-Thành ẩn ở trong rừng, đợi gặc vào nước, thì đánh chặn phía sau, cắt đường tiếp tế lương thảo; Thái-tử thiếu sư, Thượng-oai tiết độ sứ, Hổ-uy đại tướng quân, Thuần-tín quốc công Hà Thiện-Lãm với Công chúa Trường-Ninh; đợi quân Tống vượt biên thì đánh tràn sang, phá hậu cứ chúng. Quả nhiên khi cánh thứ nhất của Long-thành ẩn-sĩ làm rung động triều Tống. Triều đình ban chỉ cho An-vũ-sứ Quảng-Tây đem quân nghinh chiến. Tướng Tống là Ðô-giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đem quân vượt biên đánh vào Lạng-châu. Khi chúng vào sâu rồi thì gặp cánh quân của vua Bà. Trận chiến diễn ra trong hai ngày. Sang ngày thứ ba thì có tin báo cho Tống Sĩ-Nghiêu biết đạo quân của Thượng-oai đã vượt biên chiếm huyện Như-ngao thuộc Ung-châu. Ðạo quân của Phong-châu chặn mất đường về, lương thảo bị cướp hết.
Tiếng mọi người ào ào:
- Cho bọn chó Ngô cướp nước chết.
Siêu-loại hầu dơ tay vẫy vẫy ra hiệu im lặng:
- Quân Tống náo loạn tan vỡ, Sĩ-Nghiêu bỏ ngựa theo đường rừng trốn về Ung-châu cùng vài tùy tòng thân tín. Bây giờ hai đạo quân Lạng-châu, Thượng-oai mới quay lại vượt biên đánh sang Tống. Tống đem đại binh nghênh nghiến, nhưng đương thế nào nổi quân ta? Các đại tướng Tống là Tả-thiên ngưu-vệ thượng tướng quân Lý Ðức-Dụng, Bát-tác-sứ Tả Minh, Hữu-lãnh-vệ đại tướng quân Hà Nhuận, Thiên-ưng đại tướng quân Trần Bật, Ðô-giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu đều tử trận (TTTTGTB, q 194). Thuận thế ta đánh chiếm châu Tây-bình, chiếm trại Vinh-bình (TTTTGTB, q 192). An-vũ-sứ Quảng-Tây phải xin đem quân từ Bắc Kinh-hồ tiếp cứu. Nhưng viện quân chỉ nghinh chiến được một trận lại bị phá tan. Tướng chỉ huy là Dương Lữ-Tài bị bắt sống. Tổng trấn Nam-thùy Tống là Dư Tĩnh xin Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai tiếp cứu. Vương tâu về triều rằng mình không đủ quân đánh Ðại-Việt; xin ban chỉ cho Tĩnh phải nghị hòa với Ðại-Việt để xin lui quân.
Ông ngừng lại uống nước, làm mọi người muốn ngừng thở. Ông tiếp:
- Triều đình Ðại-Việt không hề muốn chiếm đất Tống, nên khi thấy Tống xin nghị hòa, vua Bà đưa ra ba điều kiện: một là phải cách chức hết bọn biên thần Tống gây hấn gồm tổng trấn thủ Quế-châu là Tiêu Cố, Ung-châu là Tiêu Chú. Hai là phải trả ta ba khê động mà động chủ bị Tiêu Cố ép theo Tống. Ba là tự hậu quân Tống không được đi tuần tiễu như đe dọa ta ở biên gới. Tống thuận điều một và ba, còn điều hai thì Dư Tĩnh không chịu, bởi Dư coi như việc bức khê động rời Việt theo Tống là đường lối của triều đình. Rõ ràng Tống sai Tiêu Chú chuẩn bị đánh Ðại-Việt, mà bây giờ triều đình đành ban chỉ kể tội hai viên quan này rằng "Ðã không có tài, lại còn tự chuyên gây hấn. Khi gây hấn rồi, không đủ tài chống đỡ" (TTTTGTB, q 192). Nhưng Phò mã Thân Thiệu-Thái viện lẽ "Tướng ngoài trận không nhất thiết nghe lệnh vua" chưa chịu rút lui. Vua Bà còn đem thêm quân Việt sang, để tỏ ý cương quyết (TTTTGTB, q 192). Ðứng trước việc này hai viên tổng trấn Nam-thùy là Dư Tĩnh, Lý Sư-Trung bàn nhau đánh lớn (TS, q 320).
Hầu mỉm cười:
- Binh lực, tướng sĩ Tống không đủ đánh với ta, Dư Tĩnh gửi sứ xui Chiêm-thành đánh phía sau ta (TS, q 488), nhưng Chiêm-thành không dám khởi binh. Cùng đường Dư Tĩnh đành chịu cả ba điều, và xin nghị hòa. Vì Tĩnh ra lệnh cho Tiêu Cố, Tiêu Chú, nên y không thể hài tội hai tên này. Y nhận lệnh trực tiếp từ Tống triều, nên y cũng không thể nói ra. Y đành để cho Lý Sư-Trung dâng biểu kể tội Tiêu Chú "Hà hiếp man dân, bắt dân tìm vàng, đến nỗi mất lòng dân" còn việc chuẩn bị binh lực đánh Ðại-Việt thì Dư Tĩnh tâu rằng "Các viên tướng Nam-biên ham lập công". Triều đình Ðại-Việt gửi quan Tham-tri bộ Lễ (ngày nay là thứ trưởng ngoại giao) tên Phí Gia-Hữu lên biên giới nghị hòa với Dư Tĩnh. Dư hối lộ Gia-Hữu rất nhiều vàng bạc để xin thả tướng Lữ-Tài. Gia-Hữu nhận vàng bạc, đem về dâng triều đình. Hoàng-thượng chuẩn cho hòa, thả Lữ-Tài 0 nhưng đem năm tên người Việt dâng đất cho Tống lên biên giới chém đầu. Bấy giờ Hoàng-thượng mới ban chỉ cho quân Ðại-Việt rút về.
Ghi chú:
Tất cả các biến cố này ÐVSKTT chép rất sơ sài như chú giải 6 hồi 1. Nhưng sử Trung-quốc lại chép rất chi tiết. Trên đây, tôi thuật theo TS, TTTTGTB, QTNC, TTCTGCK.
Ông tiên chỉ hỏi:
- Thưa quân hầu, ban nãy hầu nói khi quân Ðại-Việt vừa vượt biên thì các tướng Tống cùng gia đình, chó mèo, gà vịt đều bị giết. Thế ai là người giết cả nhà những biên thần Tống đến khủng khiếp như vậy?
Siêu-loại hầu ngồi nghiêm chỉnh lại:
- Ðó là hai người, mà từ Gia-Hựu hoàng-đế nhà Tống 0 cho đến Thông-Thụy 0 hoàng-đế bên Ðại-Việt nghe tên cũng phát lạnh gáy. Hai vị có cái tên chung là Ưng-sơn song hiệp.
Ghi chú:
Ưng-sơn song hiệp, tên hiệu của Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai và Vương-phi là công chúa Huệ-Nhu. Sự tích hai nhân vật huyền sử này xin xem Anh-linh thần võ tộc Việt, của Yên-tử cư-sĩ do Xuân-thu Hoa-kỳ ấn hành 1994.
Cả đại sảnh đều bật lên tiếng « ồ », rồi im bặt. Ðại sảnh có đến hơn ba trăm người, mà không một tiếng động. Minh-Ðệ kinh ngạc tự hỏi:
- Ưng-sơn song hiệp là ai mà vua Tầu, vua Việt đều sợ hãi như vậy?
Nhưng nàng không phải chờ lâu, trương tuần Huy hỏi:
- Thưa quân hầu lý lịch hai vị đó ra sao vậy?
- Hai vị là vợ chồng. Ngài họ Trần, húy là Tự-Mai, là con trai út của đại hiệp Trần Tự-An phái Ðông-a. Ngài kết hôn với Công chúa Huệ-Nhu, con vua Chân-tông nhà Tống. Vì hai ngài có đại công với Tống trong việc trấn Tây thùy đánh nước Hạ, trấn Bắc thùy chống Liêu, nên ngài được phong là Thái-sư thượng trụ, Tả-kim-ngô đại tướng quân Kinh-Nam vương. Vương-phi được phong là Trưởng-đại công chúa. Nhưng từ lâu, hai ngài ít ở trong nước, ngao du Nam thùy Tống, trong vùng Lưỡng-Quảng, Ðại-lý, Ðại-Việt, để tru diệt bọn tham quan, bọn cường hào ác bá, nhất là biên quan Tống-Việt chủ trương gây sự ở biên giới.
Cụ lý cung tay:
- Thưa cụ, ban nãy cụ nói có hai việc mừng. Việc thứ nhất là binh biến ở Bắc thùy có lợi cho ta. Thế còn việc thứ nhì?
- Việc thứ nhì là tháng ba năm ngoái (1059), Thông-thụy hoàng-đế cải nguyên là Chương-thánh Gia-khánh. Vậy kể từ tháng ba là Chương-thánh Gia-khánh thứ nhất. Sau chiến thắng vừa rồi ngài ban chỉ ân xá thuế cho toàn quốc một năm, và truyền đại xá thiên hạ, ngoài trừ tội thập ác.
Hầu quay sang hỏi trưởng tràng Ðoàn Quang-Minh:
- Có việc gì trọng đại mà họp cả trường, cùng mời các cụ chức sắc trong xã tới vậy?
Quang-Minh tóm lược câu chuyện kể cho hầu nghe. Hầu vẫy tay gọi Trịnh Phúc lại bên cạnh:
- Vị tiểu cô nương đây luận đúng. Ngày sinh nhật của ta không làm phúc thì thôi, còn giết trâu chi cho tổn âm đức? Vả lại nước ta đang thiếu trâu, giết trâu thì mất đi nguồn lực canh nông. Thôi thì ăn cá, ăn chim, ăn gà vịt cũng được. Còn con trâu, tiểu cô nương muốn mua lại, thì ta bán cho cô với giá rẻ một chút.
Quang-Minh trình đến việc ba đệ tử bị Minh-Ðệ đánh bị thương. Hầu đưa mắt nhìn Minh-Ðệ rồi cau mày:
- Vô lý. Một cô gái ẻo lả thế kia nếu có thắng Vũ Ðạt, Vũ Hiếu thì còn có lý, chứ thắng Trịnh Phúc thì sao tin được.
Hầu hướng Minh-Ðệ:
- Tiểu cô nương? Cô nương thuộc môn phái nào? Sư thừa là ai?
- Thưa cụ, cháu chưa từng học võ, nên không có sư thừa, bởi vậy cũng không thuộc môn phái nào.
- Cô muốn dấu thân phận hẳn? Ðược, ta sẽ tìm ra sư phụ cô là ai cho cô xem.
Hầu vẫy Phúc, Ðức, Ðạt ra đứng trước mặt, rồi hỏi:
- Ba người theo thứ tự thuật lại cuộc đấu cho ta coi nào?
Trịnh Phúc chỉ Vũ Ðạt:
- Sư đệ nắm tay trái y thị giật mạnh. Y thị co tay lại, trong khi chân xoạc thành trung-bình tấn. Thế là sư đệ bị bay tung lên cao, rồi ngã sấp xuống.
Trịnh Phúc chỉ Vũ Ðạt:
- Sư đệ nắm tay trái y thị giật mạnh. Y thị co tay lại, trong khi chân xoạc thành trung-bình tấn. Thế là sư đệ bị bay tung lên cao, rồi ngã sấp xuống.
Hầu cười:
- Ðây là chiêu Kình-ngư thăng thiên của phái Mê-linh, không có gì lạ cả.
- Sư đệ tung cước theo thế Tản-viên quyền pháp thứ 9, đá vào hông thị. Thị trầm người, dùng tay đẩy chân sư đệ, chân trái quét chân trái sư đệ.
- À, chiêu phản đòn chân của phái Tiêu-sơn. Có điều nội công cô cao nên cô thắng dễ dàng.
Rồi Trịnh Phúc trình bầy những chiêu Minh-Ðệ đấu với Vũ Ðức. Hầu đáp:
- Mấy chiêu này của phái Ðông-a chính tông đây. Muốn xử dụng những chiêu này, thì nội công phải cao thâm lắm.
Ðến đây mặt hầu trở thành đăm chiêu, chứ không cười nữa.
Trịnh Phúc diễn lại chiêu thức Minh-Ðệ đấu với y cùng đấu cả bọn khi loạn đả cho đến khi con trâu xông vào trận. Mặt hầu tái nhợt:
- À, đây là võ công phái Hoa-sơn bên Trung-quốc.
Cuối cùng y trình tiếp về hai viên tuần đinh đánh Minh-Ðệ bị văng côn lên cao. Mặt hầu càng nhợt nhạt:
- Phải chăng tiểu cô nương là đệ tử của Ưng-sơn song hiệp?
- Thưa cụ cháu đã nói, cháu chưa từng học võ, dĩ nhiên là chưa có sư phụ.
Hầu tần ngần một lúc, rồi vẫy tay cho Minh-Can:
- Minh-Can, con là gái, con ra lĩnh giáo mấy cao chiêu của Yến-Loan cô nương đi.
Từ nãy đến giờ, Minh-Can đã nhận ra Yến-Loan là chị mình. Y thị ngồi xem mọi biến chuyển mà trong lòng lo sợ Minh-Ðệ tố giác việc thị dùng võ đánh nàng hồi trước. Bây giờ được sư phụ gọi ra đấu với Minh-Ðệ, thị nghĩ:
Hồi xưa mình hơi ra tay là nó đau đớn khổ sở vô cùng. Năm gần đây, mình thấy người nó thon lại, da đẹp ra, rồi mình đánh, nó không biết đau. Sáu tháng trước, mình đánh nó, nó không đau, mà tay mình thấy ê ê, thì ra nó được cao nhân nào đó bí mật truyền thụ võ công. Bây giờ sư phụ sai mình đấu với nó, mình phải đánh cho nó tàn tật, để nó không luyện võ được nữa, hy vọng mới không bị nó báo thù.
Nghĩ vậy thị bái tổ, rồi phát một quyền đánh vào thái dương Minh-Ðệ. Minh-Ðệ nghĩ thầm: dù sao nó cũng là em mình, mình chẳng nên hại nó làm gì. Nếu nó có thế nào ắt bố mẹ đánh mình chết. Vì vậy nàng dùng thế phản đòn tay, ngửa chưởng phải lên bắt lấy quyền Minh-Can, rồi vặn tréo.
Minh-Can đau quá nghiêng người đi, nàng lên đầu gối trúng ngực y thị. Nhưng gối vừa chạm da thịt thị thì nàng ngừng lại. Minh-Can co chân phóng vào ngực Minh-Ðệ một hoành cước với tất cả sức lực. Minh-Ðệ không phản ứng kịp, binh một tiếng, người nàng chỉ hơi rung động, nhưng Minh-Can thì bị bay ngược trở lại ngã sóng xoài trên mặt đất. Thị uốn con người vọt lên như con cá chép, dùng hai tay đấm vào thái dương Minh-Ðệ theo thế Chung cổ tề minh. Minh-Ðệ chắp hai tay lại theo thức lên chùa lễ Phật, rồi gạt ngang, lập tức Minh-Can loạng choạng ngã ngửa người ra.
Vừa đau vừa thẹn, y thị rút trong bọc ra một con dao trủy thủ ngắn, rồi giả làm quyền đánh vào giữa ngực Minh-Ðệ. Khi tay y thị sắp tới ngực nàng, Minh-Ðệ mới khám phá ra. Nàng kinh hãi vội vung tay trái gạt mạnh. Thanh thủy thủ rời khởi tay Minh-Can bay lên cắm vào kèo nhà đến chát một cái, còn người thị thì bị trúng quyền đến bùng một tiếng, y thị ngã úp sấp xuống đất, không bò dậy được nữa.
Mặt Siêu-loại hầu tái mét. Ông nhảy đến vung tay tát vào mặt Minh-Can hai cái:
- Ðồ vô luân, dùng thủ đoạn đê hèn ám toán người.
Minh-Can ôm mặt đứng lui lại. Siêu-loại hầu nói với Minh-Ðệ:
- Tôi đã tìm ra môn hộ của cô nương rồi. Cô nương học với hai hay ba sư phụ một lúc. Cô nương học khí công thượng thừa âm nhu của phái Mê-linh, rồi lại được truyền Vô-ngã tướng Thiền-công. Cô nương còn được đả thông Kỳ-kinh bát mạch, luyện vòng Ðại-chu-thiên, Tiểu-chu-thiên của phái Ðông-a. Còn những chiêu ngoại công thì cô nương được học của ba phái là Ðông-a, Tiêu-sơn và Hoa-sơn, có đúng không?
Minh-Ðệ lắc đầu:
- Thưa cụ cháu chưa từng học võ.
Hầu gọi Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, đến trước mặt, rồi mắng:
- Ba đứa bay đã biết tội chưa?
- Thưa thầy chưa.
- Bay học võ để diệt bạo, trừ tà, cùng hộ quốc, chứ có phải học để đi gây sự đâu? Bay tới chùa, dùng võ tấn công người ngay trước bảo điện là một tội. Ðánh thua người rồi, còn về cáo gian rằng người ta ăn trộm trâu là hai tội. Cậy thế đem theo người đến bắt kẻ đã thắng mình là ba tội. Nay ta phạt mỗi đứa 20 côn cho chừa thói xấu.
Lập tức ba người bị nọc cổ ra đánh đủ mỗi người hai chục côn. Sau khi bị đòn, ba người ngồi dậy không được, đồng môn phải khiêng vào nhà trong rịt thuốc. Hầu vẫy tay gọi Minh-Can:
- Ta sai mi đấu với cô nương, để tìm hiểu môn hộ của người. Cô nương đây đã nhường nhịn, không muốn làm ngươi đau khổ, thế mà mi lại ám toán cô nương.
Ông vẫy tay cho đệ tử nọc Minh-Can xuống đánh hai mươi roi, rồi nói:
- Trịnh Phúc, Vũ Ðức, Vũ Ðạt, Minh-Can, mỗi đứa phải quỳ gối lạy cô nương đây mười lạy tạ tội.
Minh-Ðệ vẫy tay:
- Thưa cụ cháu không dám đâu.
- Nếu cô nương không để chúng lạy, thì cái thân già của lão phải lạy cô nương. Cô nương ơi, nếu cô nương không để cho trường Trung-nghĩa tạ tội, thì e rằng chỉ trong ba ngày Ưng-sơn song hiệp sẽ giết hết người trong trường này, cả đến con chó, con mèo cũng không sống sót.
Minh-Ðệ đành đứng cho bốn đứa lạy.
Năm trẻ đứng sau Minh-Ðệ, chúng khoái chí nhìn mấy đứa thì thụp lạy. Mỗi lần như vậy, chúng lại gật đầu, làm như chúng được lạy vậy.