Chương 15b
Xe sắp đến cổng phủ, viên võ quan theo hầu hô lớn:
- Đệ tử phái Tiêu-sơn tên Lý Công-Uẩn, xin được tiếp kiến nhị vị đại hiệp phái Đông-a.
Hai anh em Phạm Hào, Trần Kiệt từ trong chạy ra, hành lễ theo qui cách võ lâm, hai tay chắp vào nhau:
- Phạm Hào, Trần Kiệt xin tham kiến Lý đại hiệp phái Tiêu-sơn.
Thuận-thiên hoàng đế xuống xe, nắm tay Trần Kiệt:
- Hà, không ngờ hôm nay tại hạ được diện kiến cái túi khôn của Đại-Việt. Trần ngũ gia, thế nào bệnh tình cháu Thanh-Mai ra sao?
Trần Kiệt lắc đầu:
- E khó qua khỏi. Tuy nhiên bệnh tình có chiều thuyên giảm. Thiệu-Thái hút chất độc trong người cháu Mai ra, cũng có kết quả.
Khai-quốc vương thỉnh Thuận-thiên hòang đế ngồi vào chủ vị tiếp khách. Còn vương ngồi dưới Phạm Hào, Trần Kiệt.
Thuận-thiên hoàng đế nói:
- Trước khi cháu Thanh-Mai bị nạn, cứ như lời cháu nói với Đoàn Huy, cháu có thể trị được bệnh cho y. Cháu là đệ tử của Hồng-Sơn đại phu, mà cháu biết trị, đại phu hẳn trị bệnh cho cháu được. Hai vị khẩn đưa cháu tới Vạn-thảo sơn trang cầu với đại phu, hy vọng cháu thoát nạn.
Phạm Hào gật đầu:
- Thế thì không đáng lo ngại. Chỉ còn mấy hôm nữa, đến ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ, Hồng-Sơn đại phu ắt về Thăng-long. Bấy giờ chúng ta cầu người ra tay. Vả Hồng-Sơn đại phu tính tình có chỗ kỳ cục, nhưng người thương yêu đệ tử như thương yêu con trong nhà. Thanh-Mai có hy vọng sống.
Trần Kiệt nhìn sắc diện Thuận-thiên hoàng đế, ông hỏi:
- Lý đại hiệp, tại hạ hỏi một câu hơi đường đột. Đại hiệp hiện làm vua, ngồi trên ngai vàng ban phúc, giáng họa cho trăm họ. Tại sao Lý huynh lại tỏ vẻ đăm chiêu lo lắng thế kia?
Thuận-thiên hoàng đế mỉm cười:
- Trần ngũ hiệp tưởng tại hạ cũng giống như vua Lê ngọa triều hẳn? Tại hạ sinh vào gia đình nghèo khó, được nghĩa phụ nuôi dưỡng trong chùa Tiêu-sơn, lại được ân sư truyền nghiệp. Khi vua Lê Ngọa-triều băng, sư phụ truyền cho tại hạ giữ lấy quyền quốc thể, đem đạo lý đức Thế-tôn cai trị đất nước, sao cho dân chúng được ấm no. Từ ngày ấy đến giờ, đêm quên ngủ, ngày quên ăn, tại hạ đem lại cho dân chúng một đời sống thanh nhàn. Tuy vậy, tại hạ cũng không giám quên lề lối võ lâm.
Lý Long tiếp lời phụ hoàng:
- Tâu phụ hoàng, hôm trước Trần ngũ gia đã ghé thăm thần nhi, ban cho nhiều lời dạy dỗ thực quí báu hơn vàng.
Rồi vương thuật lại buổi hội ngộ đầu tiên giữa vương với anh em Trần Kiệt, hôm họ tới Thăng-long. Thuận-thiên hoàng đế chỉ Lý Long:
- Đây, đứa con thứ nhì của tại hạ. Trong chuyến đi Cửu-chân, nó đã kết huynh muội với Thanh-Mai, Tự-Mai. Mong hai vị coi nó như Thanh-Mai, mà dạy dỗ cho những điều hay.
Phạm Hào vốn ít nói, bây giờ ông mới lên tiếng:
- Phàm đã là anh hùng, phải lấy lòng đãi nhau. Có gì khó khăn, thố lộ cho nhau cùng nghe. Cách đây ít lâu, sứ đoàn nhà Tống đến Thiên-trường găp anh em tại hạ. Họ đưa ý kiến rằng vua Tống định cử binh sang hỏi tội họ Lý về việc cướp ngôi nhà Lê. Nhưng Bình-Nam vương Triệu Thành can gián không nên động binh. Y xin đi sứ, tìm con cháu nhà Lê, rồi bắt Lý huynh thoái vị, trả lại ngôi cho con cháu di thần. Triều Tống muốn tỏ ra họ Thiên-tử, muốn hưng diệt, kế tuyệt. Họ tìm được Hồng-Sơn đại phu, chính là Lê Long-Mang, con của Lê Hòan. Họ yêu cầu anh em tại hạ, trước đây thuộc chỗ cố tri Long-Mang. Rồi sư phụ tại hạ với Lê Hoàn có tình giao hảo... anh em tại hạ đứng lên giúp Long-Mang đòi lại ngôi vua. Đại sư huynh chúng tôi cho người điều tra, quả đúng Hồng-sơn đại phu tức Lê Long mang. Người phát thư mời Đại-Việt ngũ long, cùng các đại tôn sư võ phái về Thăng-long họp, nhân ngày giỗ Bắc-bình vương để bàn việc này.
Thuận-thiên hoàng đế thản nhiên mỉm cười:
- Ý Triệu Thành muốn nói rằng: Nếu Đại-Việt ngũ long ép tại hạ thoái vị. Tống để Đại-Việt yên. Còn như tại hạ tại vị, Tống mang quân sang đánh. Có phải thế không?
Trần Kiệt gật đầu:
- Đúng. Hôm trước Triệu Thành tới tệ trang trình bầy như vậy. Y yêu cầu phải Đông-a đứng ra chủ trì công đạo vụ này. Đại huynh tôi chưa quyết định gì cả. Người đích thân đi Vạn-thảo sơn trang điều tra xem có đúng Hồng-Sơn đại phu là Lê Long-Mang không? Người sai anh em tôi đi Tản-viên hỏi ý kiến chưởng môn Đặng Đại-Khê. Sau đó mới có quyết định.
Khai-quốc vương hỏi:
- Thế Đặng chưởng môn quyết định sao?
- Đặng im lặng. Đặng bảo sau khi hội ý với các vị tôn trưởng trong phái, rồi sẽ phát biểu ý kiến vào ngày giỗ Bắc-bình vương.
Phạm Hào tiếp:
- Trong khi chúng tôi ở Tản-viên, bọn Triệu Thành dùng lễ vật tới thăm. Song tôi không rõ sứ đoàn đã nói gì, và phái Tản-viên phản ứng ra sao.
Có tiếng nói đâu đó vọng lại:
- Phái Tản-viên nhận lễ, hứa sẽ trả lời sau một tháng.
Khai-quốc vương đứng dậy:
- Nùng đạo trưởng.
Vương ra ngoài, đã thấy Nùng-sơn tử cùng với sư phụ Huệ-Sinh vào trong phủ. Hai bên hành lễ với nhau. Huệ-Sinh nhìn Thuận-thiên hoàng đế, rồi cười:
- Sư đệ, có truyện chi mà sắc mặt đăm chiêu thế kia? Sư đệ quên mất rằng sư phụ từng dậy Chúng ta sinh ra vốn trần truồng. Dù thế nào chăng nữa, ta chết trần truồng là cùng chứ gì?.
Thuận-thiên hoàng đế chắp tay:
- Đạo hạnh tiểu đệ thua nhị sư huynh xa. Đa tạ sư huynh nhắc nhở.
Nùng-Sơn tử hỏi Trần Kiệt:
- Hai vị đã gặp đại sư huynh của chúng tôi rồi phải không? Đại sư huynh chúng tôi có cái tật, bất cứ truyện gì cũng thủng thẳng giải quyết. Cho nên việc quí vị thỉnh ý kiến, người không trả lời ngay. Bọn Tống đem lễ vật tới, người cũng tiếp theo lễ võ lâm, rồi hứa lơ mơ. Mãi hôm qua người mới họp chúng tôi, bàn về việc Tống muốn Lý trả ngôi vua cho Lê. Chúng tôi đã quyết định xong. Ngày rằm này, sư huynh tôi sẽ phát biểu ý kiến. Sở dĩ tại hạ chưa thể công bố quyết định, vì trong bản phái đang có nhiều tranh chấp.
Trần Kiệt ngạc nhiên :
- Quý phái cũng có tranh chấp sao? Không lẽ lại Đỗ Xích-Thập?
Nùng-Sơn tử than:
- Đúng thế.
Trước đây Bảo-Hòa được Đặng Đại-Khê sủng ái cùng cực. Ông dạy cho nàng mười hai chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Nay nàng nghe ông đang có sự, thì quên cả địa vị nhỏ bé của mình trước ông ngoại, cậu hai. Nàng hỏi Nùng-Sơn tử:
- Nùng đạo trưởng. Sư bá Đại-Khê của cháu có truyện không vui sao? Đỗ Xích-Thập là ai vậy?
Nùng-Sơn tử thở dài:
- Truyện này xẩy ra cách đây hơn ba mươi năm. Hồi ấy, sư phụ bần đạo lâm trọng bệnh, nghĩ khó qua khỏi. Người phân vân không biết chỉ định ai thay thế.
Bảo-Hòa lắc đầu:
- Khi sư phụ qua đời, đương nhiên đại đệ tử thay thế mới đúng đạo lý.
- Lẽ thông thường thì vậy. Nhưng bấy giờ đại sư huynh bần đạo tuổi mới hai mươi lăm, võ công không đủ lãnh đạo môn phái. Sư phụ bần đạo triệu tập các vị trưởng thượng, cùng để tử. Yêu cầu mọi người bầu người kế tục. Ai cũng tưởng sư thúc bần đạo tên Đỗ Xích-Thập võ công cao cường, đạo đức nức tiếng sẽ được trúng cử. Nào ngờ, vào giữa lúc sắp khai diễn cuộc bầu, thì người bị bệnh.
Bảo-Hòa ngạc nhiên:
- Bị bệnh thì bị bệnh, cũng vẫn làm chưởng môn được chứ?
- Quận chúa không biết đấy thôi. Người bị lên cơn vì... Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng. Trong bản phái phanh ra vụ người âm thầm nhập Hồng-thiết giáo. Hơn nữa người giữ chức trưởng lão trong hội đồng giáo vụ Trung-ương. Lập tức người bị đuổi ra khỏi bản phái. Sư huynh bần đạo được cử làm chưởng môn.
Mỹ-Linh tỏ vẻ hiểu biết:
- Bây giờ sắp đến ngày giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Trong ngày giỗ, các đại tôn sư sẽ quyết định về việc ủng Lê, ủng Lý. Đỗ tiền bối xuất hiện đòi làm tôn sư. Có phải thế không?
__ Đúng vậy. Cho nên đại sư huynh bần đạo chưa dám công bố quyết định vì lý do ấy. Trong ngày giỗ, thế nào Đỗ sư thúc cũng xuất hiện, gây rối chứ người không chịu để yên đâu.
Huệ-Sinh chỉ vào phòng Thanh-Mai:
- Bần tăng nghe Thanh-Mai bị trúng độc, vội trở về xem có làm gì được không?
Ông vào phòng, cầm mạch Thanh-Mai, rồi hỏi Tự-Mai:
- Trước đây sư thái Tịnh-Huyền đã dạy cho Thanh-Mai với cháu những kinh gì?
Tự-Mai kính cẩn:
- Sư phụ giảng cho chúng cháu bộ kinh Lăng-già, Kim-cương, Tượng-đầu tinh xá, và Bát-nhã.
Mỹ-Linh thấy sư phụ trở về, lòng nàng đang nặng trĩu lo bệnh tình Thanh-Mai, tự nhiên nhẹ hẳn đi. Nàng trình bầy tất cả mọi biến chuyển từ khi Thanh-Mai trị bệnh cho Đoàn Huy, y luận của Đỗ Lệ-Thanh, Trần Kiệt, cho đến việc Thiệu-Thái hút chất độc.
Huệ-Sinh không nói gì. Ông mở bọc, lấy ra cuốn trục bằng lụa, đem treo lên tường. Đó là bức hình vẽ Phật Thích-Ca ngồi dưới gốc bồ đề. ông bảo Thiệu-Thái:
- Thí chủ hãy ngồi Kiết-già, quay mặt vào bức tranh này. Hai tay nắm lấy tay Thanh-Mai. Ngón tay chỏ để vào huyệt Nội-quan nàng. Nếu thấy có triệu chứng gì lạ như đau, nóng cũng đừng buông ra.
Thiệu-Thái vâng lời, làm theo. Huệ-Sinh nói với mọi người:
- Sư thúc Sùng-Phạm chỉ tìm người có đức để ban một trăm năm công lực. Vì vậy người truyền cho Thiệu-Thái. Thiệu-Thái chưa qui y, cũng chưa tập Thiền. Về kinh điển có lẽ chỉ biết câu Nam-mô A-di-đà Phật. Thành ra y giống như đứa trẻ có một kho tàng, mà không biết xử dụng. Bây giờ bần tăng thử dạy y cách vận Thiền-công, may ra y có thể cứu được Thanh-Mai.
Luật lệ võ lâm hồi đó, khi sư phụ, hoặc người trưởng thượng dạy võ công cho đệ tử, nếu người ngòai tò mò vào, coi như là một hành vi không tha thứ. Vì vậy mọi người rời khỏi phòng Thanh-Mai.
Huệ-Sinh bảo Mỹ-Linh:
- Con ngồi canh ngoài cửa phòng, bất cứ trường hợp nào cũng không được cho ai vào, bằng không tính mệnh Thiệu-Thái, Thanh-Mai với sư phụ e khó toàn.
Ông đóng cửa lại, nói với Thiệu-Thái:
- Bần tăng dạy thí chủ cách vận Thiền-công. Thiền-công nhà Phật đặt trên căn bản kinh Kim-cương, Lăng-già và Bát-nhã. Ba kinh tuy khác nhau, nhưng cùng thu về một mối là đi đến chỗ nhập đạo tức Vô thượng chính đẳng chính giác. Trong ba kinh, bần tăng giảng cho thí chủ kinh Bát-nhã trước.
Thiệu-Thái đã nghe Mỹ-Linh đọc kinh Bát-nhã nhiều lần, riết rồi thuộc làu. Chàng nói:
- Bạch đại sư, suốt mấy tháng nay, sáng, chiều đệ tử đều nghe Mỹ-Linh đọc kinh. Sau khi dứt kinh, đọc một lần kinh Bát-nhã. Vì vậy đệ tử thuộc lòng.
- Thế thí chủ có hiểu ý nghĩa kinh này ra sao không?
- Đệ tử không hiểu, chỉ đọc như con vẹt học nói mà thôi.
- Bát-nhã không phải tiếng Hán-Việt, mà do tiếng Phạn phiên âm ra. Bát nhã là cái tâm trí thoát ra ngòai cái tham, sân, si, dứt các mối lầm, tự mình thông đạt, soi sáng.
Thiệu-Thái có trong người Thiền-công của bồ-tát Sùng-Phạm, vì vậy chàng nghe Huệ-Sinh nói, hiểu liền. Huệ-Sinh tiếp:
- Ba-la-mật có nghĩa vượt qua bờ bên kia, tới Niết-bàn, và giúp đưa người ta cùng tới. Ấy là nền tảng đại đức, đại hạnh, cao nhất của trí tuệ, quyết tới bờ giác, tức thành Phật và độ người đắc quả như mình. Có sáu đại đức, đại hạnh, gọi mang tên Lục-độ.
Trí nhớ của Thiệu-Thái trở lại với hôm ở trong Hồng-hương cốc, bồ tát Sùng-Phạm bảo chàng phải dùng Thiền-công của ngài để đi vào Lục-độ, đó là: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền-định, Trí huệ. Chàng chỉ hiểu lờ mờ. Hôm nay Huệ-Sinh giảng, chàng mới thực sự hiểu rõ, nó nằm trong yếu chỉ Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Huệ-Sinh tiếp:
- Kinh Bát-nhã Ba-la mật-đa tâm kinh giảng về đại hạnh Bát-nhã. Cho nên phàm sau khi tụng xong bộ kinh, cần tụng một lần kinh Bát-nhã, coi như thoát ra vòng khổ hải. Con thử đọc kinh Bát-nhã lên cho ta nghe xem nào.
Thiệu-Thái đọc:
Quán-tự-tại Bồ-tát, hành thâm Bát-nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến Ngũ-uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
- Mấy câu này nghĩa là gì?
- Hôm trước Mỹ-Linh giảng: Ngài Bồ-tát Quán-tự-tại, khi tu hành pháp Bát-nhã Ba-la-mật-đa đã tinh thâm, soi kính thấy năm uẩn đều không, độ thoát tất cả sự khổ ách. Nhưng đệ tử không biết Ngũ uẩn là gì. Tại sao khi năm uẩn đều không, mà giải thoát được hết khổ ách?
- Đúng thế. Ngũ-uẩn gồm năm thứ, tích tụ, hoà hợp thành thân và tâm con người. Ngũ-uẩn nó che mất chân lý, khiến chúng sinh cứ đi vào luân hồi, không thoát ra được.
Trong khi Thiệu-Thái trả lời Huệ-Sinh, chàng cảm thấy nội tực Thanh-Mai với nội lực chàng tranh đấu không ngừng. Độc chất từ người nàng tràn sang người Thiệu-Thái, chàng dùng tâm pháp của Đỗ Lệ-Thanh hoá giải đi.
Chàng tỉnh ngộ:
- Ngũ uẩn tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức như đoạn dưới của kinh nói. Trong thế gian có bao nhiêu người ắt có bấy nhiêu Ngũ-uẩn, không cái nào giống cái nào cả. Như đệ tử, bị chính cái Ngũ-uẩn của mình giam mình.
- Đúng thế. Con giác ngộ mau thực. Sắc là vật có hình. Nếu bỏ được hình, sắc, có phải thoát ra được cái ngục tù thứ nhất rồi không?
Thiệu-Thái buông lỏng, nhắm mắt lại, như quên mọi vật xung quanh. Tự nhiên chàng cảm thấy người như đi trên mây, như trong giấc mơ. Chàng nghe tiếng Huệ-Sinh giảng:
- Còn thọ. Thọ là khi cái thân mình đối cảnh, thấy vui, sướng, buồn khổ. Đấy cái ách thứ hai buộc mình như thế đấy.
Cái ách thứ ba tên tưởng. Khi đối cảnh, nhận ra sự đen, trắng, nhỏ, to, dài, ngắn. Đấy hình cái ách thứ ba trói buộc mình.
Ách thứ tư tên hành. Khi đối cảnh, đem lòng ham muốn, buồn vui, giận hờn.
Cuối cùng là thức. Đối cảnh hiểu biết, phân biệt mọi sự... Người tu Thiền phải bỏ ra ngoài năm thứ đó.
Thiệu-Thái chợt nhớ lại:
- Thanh-Mai thấy Đoàn Huy, nàng muốn trị bệnh cho y, chinh phục y, hầu đưa đến Đại-Việt, Đại-lý cùng khởi binh đánh Tống đòi lại đất tổ. Rõ ràng đủ cả Ngũ-uẩn. Nếu như bỏ ra Ngũ-uẩn, con người lên tiên rồi còn gì nữa?
Chàng buông lỏng ý nghĩ, người như chết đi trong chốc lát. Chợt chàng thấy hai tay rung động thực mạnh, rồi nội lực Thanh-Mai như tuôn vào người chàng. Phản ứng tự động chàng hóa giải nội lực đó đi. Nhưng ngón tay chàng đau đớn không thể tưởng tượng được. Nhớ lời Huệ-Sinh, chàng chịu đau, không dụt tay lại. Chàng áp dụng kinh Bát-nhã Ba-la-mật, bỏ ra ngòai cái đau đớn, khiến người chàng như nhập vào giấc ngủ thực sâu. Trong mơ mơ màng màng, chàng nghe có tiếng người nói bên tai.
Cứ như vậy, không biết bao nhiêu lâu, chàng thấy đau nhói ở môi trên và đầu ngón tay trỏ. Chàng giật mình thức dậy,thấy người cầm kim đâm mình là một trung niên nam tử khoảng năm mươi, khuôn mặt cực kỳ uy vũ. Trung niên này mỉm cười, hàm răng trắng đều như hạt bắp. Khi ông cười hai con mắt có đuôi, trông thực dịu dàng. Ông nói:
- Tỉnh rồi. Con lợn tỉnh rồi.
Chàng mở mắt nhìn xung quanh, thấy mình đang nằm trên một cái giường tre. Giường đặt giữa, căn phòng bằng gỗ. Cửa sổ bằng phên tre đan. Trong phòng không có gì, ngoài cái bàn cũng bằng tre. Chàng biết trung niên nam tử dùng châm cứu trị bệnh cho mình. Trong đầu óc, chàng nhớ rằng đại sư Huệ-Sinh bảo chàng nắm lấy tay Thanh-Mai, rồi giảng kinh Bát-nhã cho . Sau đó chàng nhập tĩnh, rồi không biết gì nữa.
Thấy Mỹ-Linh đứng cạnh nước mắt đầm đìa, chàng hỏi:
- Mỹ-Linh. Tại sao lại khóc?
Mỹ-Linh gạt nước mắt:
- Anh mê man từ hôm qua đến giờ.
Thiệu-Thái vốn người chân thật, trung hậu, không biết khách sáo. Chàng chỉ trung niên nam tử:
- Có phải vị này đã cứu anh không?
Mỹ-Linh gật đầu:
- Vị này là người mà em thường nhắc nhở. Anh vẫn ước mong được gặp đó. Nay anh đã toại nguyện. Không những anh được gặp, mà còn được người cứu trị cho thoát chết.
- Là Hồng-sơn đại phu chăng?
Mỹ-Linh trả lời bằng cái gật đầu. Thiệu-Thái ngồi dậy, chỉnh đốn y phục, chàng chắp tay hướng Hồng-Sơn đại phu:
- Đệ tử Thân Thiệu-Thái kính cẩn ra mắt đại phu. Đa tạ đại phu cứu mạng.
Hồng-Sơn đại phu cười ha hả:
- Miễn lễ. Này, con lợn này, ta cứu người với điều kiện thì người khỏi tạ ơn ta.
Thiệu-Thái nhìn xung quanh. Chàng ngạc nhiên vô cùng. Vì lúc đại sư Huệ-Sinh dạy Thiền-công cho chàng, chàng đang ở phủ Khai-quốc vương. Còn đây là đâu? Chàng chưa từng thấy qua.
Một thiếu niên tuổi khoảng mười bốn, mười lăm bước vào hỏi Mỹ-Linh:
- Thế nào? Ông ỉn của chị tỉnh rồi hả. Để em bảo chúng mang cái gì vào cho ông ăn.
Nói rồi nó cầm tay Thiệu-Thái bắt mạch:
- Mạch hết hồng đại rồi. Bây giờ trì mà hoãn. Thốn vị nhảy mạnh, nhưng có tiếng đập cao, tiếng đập thấp. Thốn vị ứng với thượng tiêu, bao gồm tâm, phế. Tâm tàng thần, khi thần bất định thì các nhịp đập ở thốn vị không đều. Ông ỉn ơi, nghe nói dường như ông ỉn lọt mắt xanh chị Mỹ-Linh của tôi, hẳn là người quân tử đạo cao lắm. Hà cớ ông ỉn lại giận người.
Từ hôm gặp Bố-đại hòa thượng, ngài gọi chàng là con lợn, rồi từ đó cái tên lợn lan tràn khắp nơi. Hồng-Sơn đại phu gọi chàng là lợn, dĩ nhiên chàng không dám nói gì. Còn thiếu niên vừa rồi, dường như thân quen với Mỹ-Linh, cũng gọi chàng bằng tiếng ỉn, chàng hơi bực mình. Không ngờ thiếu niên này bắt mạch mà biết cả trong nội tâm chàng.
Thiếu niên tiếp:
- Bộ vị quan của ông ỉn yếu quá, hẳn ông ỉn đói rồi đây. Ông ỉn vừa qua hơn ngày mê man, giờ mới tỉnh, cho ông ỉn ăn một món đặc biệt, do mỗ làm, chứ không do đầu bếp. Nhưng mỗ giao hẹn trước. Khi mỗ sửa soạn, hễ ông ỉn nuốt nước bọt, phải công nhận cái tên ông ỉn hoặc lợn ỉn. Còn ngược lại ông ỉn không nuốt nước miếng mỗ tình nguyện lĩnh tên ông ỉn thay thế cho.
Mỹ-Linh nghe thiếu niên nói, nàng bật cười, khẽ cốc lên đầu nó:
- Lém vừa thôi!
Thiếu niên chạy ra ngoài. Thiệu-Thái hỏi:
- Mỹ-Linh, đây thuộc địa phương nào? Cái gì đã xẩy ra? Thiếu niên vừa rồi là ai vậy?
Mỹ-Linh ngồi xuống cạnh chàng:
- Đây thuộc Cổ-loa. Chúng ta đang ở trong y viện Yên-lãng. Hôm trước sư phụ dạy anh vận Thiền-công để hút chất độc cho chị Thanh-Mai. Anh nhập tĩnh sâu quá, Thiền-công phát ra mạnh vô cùng. Đáng lẽ anh sẽ hút được chất độc trong người chị ấy ra. Nhưng trước khi nhập tĩnh, anh quán tưởng hút chất độc. Vì vậy chất độc trong người chị Thanh-Mai tràn vào người anh. Thiền-công trong người anh hoá giải hết nọc độc Thất-trùng. Còn Ngũ-hoa hương lại không hút được. Thế là anh với chị Thanh-Mai cùng mê man. Giữa lúc đó phu nhân Hồng-Sơn phu nhân tới. Người đem chị Thanh-Mai với anh tới đây cho đại phu trị bệnh cho.
Thiệu-Thái hỏi:
- Vừa rồi Hồng-Sơn đại phu bảo rằng anh không nên đạ tạ người. Vì người trị bệnh có điều kiện. Vậy điều kiện đó là điều kiện gì?
Mỹ-Linh nói:
- Từ trước đến giờ Hồng-Sơn đại phu trị bệnh cho thiên hạ có đến hàng triệu người. Ai xin tiên sinh cũng trị cho hết, không nhận tiền tạ. Nhưng có ba loại người ngoại lệ, muốn tiên sinh trị cho, phải chịu một điều kiện nào đó. Một, bệnh nhân phải mắc chứng nan y, không lương y nào trị được. Hai, tiên sinh không trị cho bệnh nhân gốc Tầu. Ba, bệnh nhân thuộc con cháu, hoặc quan chức của họ Lý.
Rồi nàng thuật lại những gì xảy ra khi nàng với Thanh-Mai, Bảo-Hòa tới Vạn-thảo sơn trang xin trị bệnh cho Thiệu-Thái nghe. Thiệu-Thái lắc đầu:
- Như vậy đại phu cố chấp quá. Mạ mạ nói dị nhân thường kỳ quặc quả không sai.
- Còn thiếu niên vừa rồi là con trai của Hồng-sơn đại phu, tên Lê Văn. Hồi bọn em tới Vạn-thảo sơn trang, có kết bạn với chú ấy, nên chú ấy gọi em bằng chị. Tâm địa chú ấy thực lương thuần, dễ thương kỳ lạ.
Rồi nàng kể việc Lê Văn ăn cắp thuốc của bố cứu chị em nàng. Khi đấu võ với nàng, nó vờ thua, thuật lại một lựơt.
Nghe Mỹ-Linh kể, tự nhiên Thiệu-Thái thấy yêu Lê Văn vô cùng.
Có tiếng Lê Văn nói vọng vào:
- Ôi, bà chị xinh đẹp đang kể xấu người ta đấy à.
Nó mang vào một mâm thức ăn, bầy ra bàn. Nó nói:
- Chị Mỹ-Linh, hôm nay em đãi chị ăn toàn cá, tôm, không có thịt lợn. Không lẽ em đãi ông ỉn, lại bắt ông ăn thịt bà ỉn sề?
Trên bàn có bốn món ăn: Cá kho, cá rán, cá nấu ám, và ốc nhồi luộc. Mỹ-Linh xới cơm ra bát. Nàng bảo Thiệu-Thái:
- Anh ngồi dậy ăn chứ!
Thiệu-Thái ngồi dậy, chàng cầm bát đũa định ăn, Lê Văn chụp lấy tay chàng:
- Khoan, ông ỉn uống thuốc đã.
Nó đặt bát thuốc nóng, khói lên nghi ngút trước mặt Thiệu-Thái:
- Ông ỉn uống đi.
Thiệu-Thái nghe Mỹ-Linh nói về Lê Văn, chàng hết buồn tiếng ông ỉn của nó, mà cảm thấy vui vui. Chàng uống hết bát thuốc, cầm đũa định gắp cá kho ăn trước. Lê Văn dùng đôi đũa của nó, cặp cứng đôi đũa của chàng:
- Khoan, khoan, ông ỉn có món ăn đặc biệt, ngon lắm, chờ tý nữa mẹ mỗ nấu cho. Còn bốn món này của chị em mỗ.
Thiệu-Thái đói muốn lè lưỡi ra, mà chàng phải ngồi nhìn Mỹ-Linh, Lê Văn ăn. Hai người vừa ăn, vừa nói truyện, dường như không biết đến con tỳ, con vị trong người chàng nó đang nhai, đang cắn ruột gan chàng. Chàng nuốt nước bọt ừng ực, mà hai người như không biết đến.
Hai người ăn xong bữa cơm, một thiếu phụ tuổi khoảng hai mươi, trang phục rất giản dị đến. Thiếu phụ quấn mớ tóc mây bằng một sợi lụa đỏ. Nàng mặc chiếc áo cánh lụa trắng, quần lụa đen. Bà không đeo nữ trang.
Trước kia khi chưa rời Bắc-biên, Thiệu-Thái tưởng trên đời chỉ có em gái mình là Bảo-Hoà xinh đẹp nhất. Sau chàng thấy sắc đẹp dịu dàng của Mỹ-Linh, sắc đẹp tươi hồng của Thanh-Mai. Bây giờ chàng lại thấy sắc đẹp huyền ảo, khi có khi không, như người trong mơ của thiếu phụ.
Mỹ-Linh thấy thiếu phụ, vội vàng đứng dậy:
- Tiểu nữ tham kiến phu nhân.
Thiệu-Thái giật mình, nghĩ thầm:
- Thì ra thiếu phụ đẹp này là phu nhân Hồng-sơn đại phu đây. Hôm trước đứng hầu ông bà ngoại. Hai ngài cật vấn cậu hai về hai lần tuyển đệ nhất giai nhân cho cậu hai, mà cậu hai đều cho qui gia. Người thứ nhất thuộc đại tri kỷ của cậu tên Lâm Huệ-Phương. Cậu gặp Huệ-Phương, yêu ngay. Nhưng giữa lúc tình ý mặn nồng, cậu nghe Huệ-Phương có người tình, lập tức cậu tặng ngọc, ngà, vàng bạc cho nàng đi tìm ý trung nhân. Ý trung nhân của Huệ-Phương chính thị nhân vật lẫy lừng Hồng-Sơn đại phu. Huệ-Phương hẳn bà này đây.
Chàng nhìn Huệ-Phương một lần nữa, trong lòng nảy sinh sự khâm phục Khai-quốc vương:
- Ông bà ngoại mình quả thực có con mắt tinh đời, tuyển người đẹp thế này cho cậu hai. Hồi ở Bắc-biên, mình nghe mẹ kể, cậu hai thuộc loại người trung hậu, tính tình khoáng đạt, lại có cái đức từ bi của nhà Phật. Nay mình mới thấy sự thực. Với một giai nhân thế kia, cậu hai gặp, say mê liền. Thế nhưng cậu biết ngừng lại, để cho nàng được toại nguyện với người yêu.
Thiếu phụ quàng tay qua cổ Mỹ-Linh, cử chị nhẹ nhàng, êm dịu như mẹ với con:
- Thế nào, công chúa. Thế tử tỉnh rồi à. Công chúa bằng lòng chưa?
Hai người đứng bên nhau, gió thổi y phục bay nhè nhàng, như hai cây ngọc trước gió. Thiệu-Thái nảy ra ý so sánh Mỹ-Linh với Huệ-Phương. Đẹp thì ca hai cùng đẹp. Nhưng ở Huệ-Phương tàng chứa tất cả cái sắc sảo, tươi hồng như đoá hoa hải đường. Còn Mỹ-Linh lại dịu dàng, ôn nhu như vẻ đẹp của tượng Quán-Thế-Âm.
Lê Văn nắm tay thiếu phụ:
- Mẹ đến trễ tý nữa, con e con tỳ con vị sẽ cắn đứt ruột ông ỉn ra, thực tai vạ.
Thiệu-Thái biết chắc đây là phu nhân Hồng-Sơn đại phu. Chàng kính cẩn hành lễ:
- Tiểu bối xin tham kiến phu nhân.
Hồng-Sơn phu nhân mỉm cười:
- Thế tử chẳng nên đa lễ. Tôi đến để làm món ăn cho thế tử đây. Độc chất trong người thế tử đã trục ra hết. Duy trong tỳ, còn chút, không cách gì lấy ra được. Vì vậy tỳ hoạt động khó khăn. Trong phép trị, cần làm cho tỳ vị vận hoá thực mạnh, mới mong trục nổi. Cho nên tôi bầy ra bữa ăn của Mỹ-Linh, Lê-Văn, để thế tử ngồi nhìn, tỳ vị bị kích thích tối đa.
Bây giờ Thiệu-Thái mới hiểu tại sao Mỹ-Linh, Lê Văn cố tình ngồi ăn, không nói truyện với chàng, thì ra tất cả nằm trong trị liệu. Chàng tự biết, thân thế Hồng-Sơn phu nhân cao quí biết bao. Dù là một thế tử, một công chúa, khó lòng Huệ-Phương thân làm món ăn cho như vậy. Đây chẳng qua những liên hệ với cậu hai mà chàng được hưởng. Bà vì tình cậu hai mà cưng chiều chàng.
Hồng-Sơn phu nhân mở cái đĩa đậy kín trước mặt Lê Văn ra. Bà chỉ cho Mỹ-Linh:
- Trong này có tất cả tám thứ, ta làm món ăn, tên Bát trân, ngũ vị Bát trân, ngũ vị là gì? Bát trân là tám thức. Một là gan lợn, hai là cá chép, ba là chim sẻ, bốn là thịt gà, năm là cua biển, sáu là mực, bẩy là tôm, tám là lươn. Nếu không có thịt chim sẻ, có thể thay bằng thịt bồ câu hay bất cứ chim gì cũng được. Không có lươn, thay bằng ếch, bằng sò, bằng don, bằng hào.
Bà mở cái hộp gỗ ra. Trong hộp có năm ngăn. Bà chỉ vào hộp:
- Đây, năm thứ gia vị, gọi tức ngũ hương. Trong tám thứ trên, có thịt gà, cá chép, cua biển, mực, tôm, thuộc năm thứ có chất độc, ăn vào dễ sinh phong. Phải dùng năm thứ gia vị trị độc tố. Thịt gà dùng gừng, cá chép dùng tỏi, cua biển dùng chanh, mực dùng nghệ, tôm tiêu. Năm thứ gia vị này gọi là ngũ hương.
Bà dùng đũa gắp miếng thịt gà nhúng vào hộp đựng gừng tươi dã nhỏ, rồi bỏ vào bát bằng sứ. Lê-Văn gắp miếng cá chép nhúng vào hộp đựng bột tỏi, sau tới cua biển với chanh. Nó làm được hai thức, thì Hồng-Sơn phu nhân đã làm xong ba thức. Cuối cùng bà gắp gan lợn, chim sẻ, lươn cho lên trên. Bà rưới thêm mấy giọt nước mắm, cười:
- Thằng cà chớn, làm đi.
Nhanh nhẹn Lê Văn cầm chai rượu rót vào một cái đĩa, rồi bưng bát đựng tám thức tẩm gia vị đặt giữa đĩa. Nó đánh lửa, châm vào rượu. Rượu cháy bùng lên. Ngọn lửa xanh như một cái hoa sen, bao phủ bát đựng thực vật. Nó cầm cái đũa bằng sành cứ luôn tay khuấy rượu cho lửa bốc cao. Một lát, mùi thơm xông lên ngào ngạt. Nó nói với Thiệu-Thái:
- Ông ỉn, cấm ông nuốt nước bọt, mà từ nãy đến giờ, ông nuốt đến mười bẩy lần. Nhưng như vậy chính ông ỉn tự nhận cái tên lợn của mình rồi nghe.
Miệng nói, tay nó cầm khăn lót cho khỏi nóng, bưng Bát trân, ngũ vị ra để trước mặt Thiệu-Thái:
- Mời ông ỉn. Nhớ ăn chậm thôi, cẩn thận nghe, đừng có nuốt cả lưỡi vào.
Thiệu-Thái đói quá, chàng quên mời Hồng-sơn phu nhân, cầm đũa gắp ăn. Tám thức, có tám mùi vị khác nhau, lại thêm năm thứ hương thơm. Thức ăn nọ hấp hương thơm sang thức ăn kia, cộng với hương rượu, vị cháy, làm thành món ăn cực kỳ trân quí.
Lê Văn nói:
- Phàm trong khoa trị bệnh, khi cơ thể mình thiếu thức gì, thì mình thèm thức đó. Như chị Mỹ-Linh, cơ thể thuộc âm hàn, nên chị thích ăn nóng. Cơ thể em thuộc dương nhiệt, nên thích ăn lạnh. Ngược lại khi cơ thể mình dư thức gì, thức đó trở thành chất độc. Cho nên hôm qua, chị Mỹ-Linh hắt hơi một cái hết chục quả xoài mà vẫn không sao. Còn em mới táp có mấy miếng, trong miệng muốn sưng, nổi mụn rồi.
Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
- Ừ nhỉ, hèn gì hôm qua, chị thấy em ngồi nhìn chị ăn. Chị tưởng em nhường cho khách. Hoá ra em không thích. Ban nãy em bắt mạch cho anh Thiệu-Thái rồi cho anh ấy ăn món này, vậy nguyên lý ra sao?
- À, thế này. Trước đây anh Thiệu-Thái chưa từng tập Thiền-công, chưa qui y, chẳng từng học kinh kệ. Thế rồi Bồ-tát Sùng-Phạm truyền cho anh ấy Thiền-công của ngài. Thành ra anh ấy có công lực cao thâm vô cùng, mà không biết xử dụng.
Mỹ-Linh phục Lê Văn, nàng gật đầu:
- Em mới bằng này tuổi mà kiến thức đã cao như vậy rồi, thực hiếm có. Hôm trước sư phụ chị cũng nói vậy.
Lê Văn tiếp:
- Thiền công là thứ công lực của Phật, của tiên, chính đại quang minh. Đỗ Lệ-Thanh không biết thế, đem truyền cách luyện Chu-sa Ngũ-độc chưởng cho anh Thiệu-Thái. Do vậy ma với Phật lẫn lộn trong người anh ấy. Thành ra anh ấy muốn dùng Thiền-công hoá giải chất độc không được.
Nó cười:
- Lại đến đại sư Huệ-Sinh cũng không nhìn ra lẽ quan trọng nữa, khi trong người anh Thiệu-Thái chứa toàn cá, thịt, tôm, cua. Trong lúc Thiền-công nhà Phật của ngài Sùng-Phạm chỉ toàn rau, đậu, hoa, qủa. Cho nên dù đại sư dạy anh ấy vận Thiền-công, cuối cùng đi đến chân khí chạy hỗn loạn trong cơ thể, rồi anh ấy còn hút chất độc cứu chị Thanh-Mai, suýt nữa cả hai tiêu dao miền Cực-lạc.