Cô hàng được dịp trổ tài:
- Không phải thế. Như nếu về mùa Đông, rau muống không có, thì ăn bún với rau riếp. Rau riếp hơi tanh, phải dùng lá tỏi non, lá mùi, hành lá chẻ. Bây giờ đang mùa Thu ăn với rau muống thì phải dùng kinh giới, tiá tô với ngổ. Ấy là lá thơm ăn sống. Còn gia vị nấu với bún ốc, phải là xương xông với lá lốt, nếu không thì tanh lắm.
Phía sau hàng bún ốc là hàng chả cá. Hàng chả cá có nhiều người ăn, bà hàng chả cá cùng cô con gái đang ra sức tiếp khách. Cậu con trai hì hục quạt lửa, khói lên mù mịt. Khách vừa ăn, vừa dụi mắt.
Mỹ-Linh trông thấy chả cá, hỏi bà hàng:
- Bà cho anh em chúng tôi ăn đi.
Nghe hỏi, bà hàng biết ngay hai cô cậu này chưa từng ăn chả cả ở chợ bao giờ. Vì những người ăn quà ở chợ, họ sẽ nói bà cho tôi một xâu, hay hai xâu, chứ không bao giờ nói trống không như vậy.
Bà không nói gì, cười toe toét:
- Cô câu chờ một tẹo đi.
Bà gắp bún cho vào bát. Tay bà bốc đậu lạc xay rắc lên trên, lại ít rau thơm thái nhỏ rắc đều trên mặt bún. Bà lấy một cái bát nhỏ, múc mắm tôm chanh, lẩn vẩn có mấy khoanh ớt đỏ, rồi cầm bình cà cuống nhỏ vào vài giọt.
Cô con gái để bốn xâu cá tẩm nghệ vàng ngậy trên đĩa, lòng đĩa lót đầy thì là, bầy ra trước mặt hai người. Cô lấy rau muống chẻ, rau thơm bỏ vào cái rổ, chỉ lớn bằng cái bát ăn canh đưa cho Mỹ-Linh:
- Cô xem này, rau muống tôi chẻ có tinh không? Rău muống ăn với chả cá phải đủ năm thứ rau thơm: kinh giới, tía tô, tỏi, hành, mùi. Thiếu một thứ là mất ngon.
Cậu con trai quạt nồi đun mỡ sôi sục. Cậu nói lớn:
- Tránh ra, tránh ra, phỏng da, cháy thịt.
Cậu đổ mỡ sôi lên hai đĩa cá. Mỡ gặp cá, nổ lên những tiếng lép bép. Muì cá, mùi gia vị bị mỡ đốt chín bốc lên thơm lừng.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh định cầm đũa ăn. Bà hàng nói:
- Khoan, cô cậu ơi, mỗi gắp cá, một gắp rau thơm, một gặp bún, thêm miếng bánh đa, một hột đậu lạc nữa, mới đủ mùi vị.
Hai người không nói, không rằng, vừa ăn, vừa ngẫm nghĩ hương vị quê hương, đồng ruộng đất Việt. Mỹ-Linh chú ý đến ngón tay cậu con trai. Cậu dùng ngón trỏ vẽ vẽ trên mặt cái mâm, trong khi cậu nháy nàng. Mỹ-Linh kinh hãi:
- Không lẽ cậu là người của Khu-mật-viện?
Cậu vừa viết vừa hát nghêu ngao:
Hò la, hò lẩy,
Con gái bẩy nghề.
Ngồi lê là một.
Dựa cột là hai.
Nói dai là ba.
Ăn quà là bốn,
Trốn việc là năm.
Hay nằm là sáu.
Hay cáu là bẩy.
Trong khi hát, tay cậu viết mấy chữ:
- Theo dõi bọn Tống, chúng đang vào chợ. Không cần về Thăng-long vội.
Mỹ-Linh nheo mắt tỏ vẻ hiểu biết. Nàng vừa ăn vừa quan sát.
Ăn xong Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Ăn ở chợ thế này, vừa ăn, vừa dụi mắt vì khói cay mới ngon. Chứ ăn ở phủ, người đầu bếp dọn lên, thiếu hẳn không khí ồn ào, mất đi một nửa cái ngon.
Nàng vừa nói đến đó, thì thoáng thấy phía bên kia đình chợ, Triệu Huy đi với một người lạ. Cả hai mặc quần áo nâu, đội nón lá như nông dân Việt. Nàng thúc cúi chỏ vào hông Thiệu-Thái. Thiệu-Thái ngơ ngác không hiểu gì. Nhưng chàng vốn tuân phục Mỹ-Linh, thấy Mỹ-Linh đưa mắt ra hiệu, chàng không hỏi thêm. Mỹ-Linh nói nhỏ:
- Anh trả tiền mau, có chuyện.
Thiệu-Thái vội trả tiền. Mỹ-Linh lôi chàng đứng khuất sau cột đình, rồi chỉ cho thấy Triệu Huy.
Thiệu-Thái kinh ngạc:
- Bọn này âm mưu gì đây, nên mới ẩn thân vào lớp áo dân chúng. Anh em mình theo sát, để có thể khám phá ra kịp thời.
Triệu Huy không biết bị người theo dõi, y thản nhiên len lỏi đi trong chợ. Qua chợ, y theo người kia đi vào một ngõ nhỏ. Ngõ chỉ vừa hai người đi. Hai bên là hai hàng dậu dăm bụt cắt xén cực kỳ tinh vi.
Thiệu-Thái, Mỹ-Linh theo bén gót bọn Triệu Huy. Đi hết hàng dậu dâm bụt, tới hàng dậu trúc, có cái cổng nóc lợp ngói. Người đi cùng Triệu Huy giật chuông. Cánh cổng mở. Hai người bước vào, cổng đóng lại.
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nhìn trước, nhìn sau không có ai, hai người vọt mình qua hàng dậu trúc vào trong vườn. Một con chó vàng to như con nghé thấy hai người thì đứng xổ dậy định sủa. Thiệu-Thái móc tay vào miệng rít lên mấy tiếng như tiếng chó mừng. Con chó chạy lại vẫy đuôi.
Mỹ-Linh không ngạc nhiên, vì hồi đi cùng Bảo-Hòa, nàng đã thấy bà chị họ giả tiếng chó nhiều lần. Hôm ở Hồng-hương cốc, Thiệu-Thái cũng dùng tiếng loài chó, dụ được đàn chó của Cao Thạch-Phụng.
Mỹ-Linh núp vào dưới bụi hoa Mẫu-đơn, ghé mắt theo dõi bọn Triệu Huy. Còn Thiệu-Thái thì xoa đầu con chó.
Từ cổng vào, qua cái ngõ nhỏ lót bằng những viên đá xanh dày. Hai bên có hàng rào trồng bằng những cây ngâu. Ngâu đang độ hoa nở vàng ối hương thơm ngào ngạt. Hết ngõ, tới cái sân gạch vuông mầu gạch cua. Trong sân, hai chậu cảnh, cắt tỉa thành hình đôi hạc, cao hơn đầu người. Giữa tọa lạc cái bể cạn. Trên bể trồng trúc.
Sau sân sừng sững ngôi nhà ngói kiến trúc theo kiểu thời Văn-lang: bốn mái cong, lợp ngói đỏ. Giữa nóc, tượng một đôi hổ chầu ngọn lửa đỏ chói. Nhà làm trên nền khá cao. Từ sân phải leo lên chín bục mới tới hành lang. Bốn góc hành lang dựng thẳng bốn cột bằng ỗ lim, khảm xà cừ. Ánh sáng chiều vào xà cừ, phản chiếu ngũ sắc lung linh như ngọc. Sau lớp hành lang tới những cánh cửa rộng, lớn.
Từ trong nhà, một người quần trắng, áo dài xanh, đầu quấn khăn như Nho sinh bước ra. Y chắp tay hành lễ với Triệu Huy:
- Kính chào Triệu an phủ sứ. Tại hạ ngưỡng mộ uy danh an phủ sứ đã lâu. Hôm nay mới được diện kiến.
Mỹ-Linh nghe tiếng nói của người này, bất giác nàng rùng mình. Y chính là Trương Yêm, một tên quản gia của phụ vương nàng.
Nguyên niên hiệu Thuận-Thiên tứ tư (1013), ông nội nàng thân cầm quân đánh dư đảng của Hồng-thiết giáo ở vùng Hạc-xác, Kim-hoa, Vĩ-long. Phụ vương nàng theo trong quân. Sau khi phá giặc, quan quân giải phóng một số tù binh bị gịăc bắt giam. Trong số tù binh đó có Trương Yêm. Trương Yêm cảm kích, nguyện một đời xin làm nô bộc cho phụ vương nàng. Thuận-thiên hoàng đế thấy Trương Yêm tinh khôn, biết võ công, có ý muốn phong cho y chức quan nhỏ. Nhưng y từ chối, muốn làm nô bộc trả nghĩa mà thôi. Dần dần y trở thành người quản gia. Y làm việc liên miên ngày đêm. Tỳ nữ, bộc phụ, vệ sĩ trong vương phủ đều kính trọng y.
Mỹ-Linh tự hỏi:
- Tại sao tên Trương Yêm này lại đi với Triệu Huy. Nghe nói, y không vợ, không con. Tại sao y lại có dinh cơ to lớn như thế này?
Triệu Huy vái dài:
- Hoàng Văn tiên sinh quá khen, làm tại hạ ngượng ngùng.
Mỹ-Linh kinh hãi:
- Không lẽ tên Trương Yêm này lại là Hoàng Văn, một trưởng lão khét tiếng độc ác của Hồng-thiết giáo?
Hoàng Văn mời Triệu Huy vào nhà. Mỹ-Linh nói nhỏ vào tai Thiệu-Thái:
- Anh leo lên cây chay kia ẩn thân, bảo vệ em. Để em nghe xem xem chúng bàn truyện gì nghe.
Thiệu-Thái không tâm vận sức vào hai chân, chàng nhún mình, vọt lên cành cây chay, ẩn vào chỗ lá rậm rạp, đưa mắt nhìn xung quanh. Không thấy có người, chàng bắt chước tiếng chim, hú sẽ ba tiếng. Mỹ-Linh phóng mình lên mái ngói. Nàng dùng chân móc vào mái nhà, rồi chuyền theo kèo, ghé mắt nhìn vào trong. Bất giác nàng ngẩn người ra.
Bên trong, hơn mười người, ngồi xung quanh cái bàn hình bầu dục. Người ngồi đầu bàn là Triệu Thành, cạnh y còn Đông-Sơn lão nhân, Địch Thanh, Vương Duy-Chính, Triệu Huy, lão họ Hoàng. Phía bên kia ba người mặc quần áo theo lối Bắc-biên của người Nùng. Một người cụt tay, tuổi đã già. Một người khoảng sáu mươi, thân thể hùng vĩ. Một người nàng đã biết mặt, đó là tên Lý Tự, thủ lĩnh châu Thất-nguyên, nằm giữa biên giới Ung-châu nhà Tống với Đại-việt. Ngoài ra còn môt ni cô, tuổi đã già, và một người đàn ông tuổi khoảng bẩy chục, mặt lúc nào cũng cúi gầm xuống.
Tên Trương Yêm đứng lên chắp tay hướng Triệu Thành hành lễ:
- Khải tấu vương gia, anh em thần tuy ở phương trời xa, lúc nào cũng mỏi mắt ngưỡng cổ nhìn về Bắc, mong đại quân Thiên triều, chỉ ngọn cờ xuống Nam, cùng nhau ra sức phò tá, để tỏ tấm lòng trung nghĩa. Thần xin trình với vương gia, các anh hùng hiện diện hôm nay.
Y chỉ vào người cụt tay:
- Vị này là thủ lĩnh mười châu vùng Quảng-nguyên, họ Nùng tên Dân-Phú. Nùng đại huynh võ công trác tuyệt. Hồi còn trẻ, một thanh kiếm chinh phục hết các sắc dân Nùng, thống nhất thành châu Quảng-nguyên. Trước kia, bản triều chưa lập, Nùng đại huynh khuất thân theo về Đại-lý. Từ khi đức Thái-tổ, Khải-vận, Lập-cực, Anh-võ, Duệ-văn, Thần-đức, Thánh-công, Chí-minh, Đại hiếu hoàng đế dựng nước, Nùng đại huynh là người đầu tiên gửi sứ thần về qui phục.
Mỹ-Linh cười thầm:
- Bọn hủ Nho nhà Tống nịnh chúa đến thế là cùng. Cái ông Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi của người ta, mà khi chết, họ chắp đến hai mươi chữ để gọi. Tại sao không gọi là Tống Thái-tổ có gọn không?
Nùng Dân-Phú đứng dậy, chắp tay hướng Triệu Thành hành lễ. Triệu Thành nở nụ cười nham hiểm. Hai mắt y tít lại:
- Nùng tên sinh có biết tại sao trước đây triều đình chưa phong chức tước cho tiên sinh không?
Vương Duy-Chính đáp:
- Thần đã gửi tấu chương về triều, nhưng chưa thấy chiếu chỉ ban ra.
Triệu Thành lắc đầu:
- Cô gia muốn giữ kín hành tung cho Nùng tiên sinh, nên lưu chiếu chỉ lại cho đến hôm nay, lát nữa cô gia sẽ tuyên đọc thánh chỉ phong chức tước cho Nùng tiên sinh. Chức tước của tiên sinh có đẳng cấp chính đáng, chứ không phải cái chức hàm làm thủ lĩnh mười châu của Đại-lý phong cho đâu. Bọn Đại-lý có mắt như mù, một nhân tài như Nùng tiên sinh mà chúng không phong cho lấy một chức quan xứng đáng.
Mỹ-Linh nghĩ thầm:
- Triều Tống nhân tài có hàng vạn, thế mà Triệu Thành lãnh đạo được, quả y có tài. Y chỉ nói mấy câu, vừa mua lòng bọn họ Nùng, vừa chia rẽ với Đại-lý. Gớm thật!
Triệu Thành tiếp:
- Tương lai, một giải Bắc-biên, triều đình sẽ phong cho Nùng tiên sinh làm vua. Con cháu đời đời kế nghiệp. Biết đâu, đời sau, con cháu hưng thịnh lên, cất quân chiếm Đại-lý, triều đình cũng sẽ phong cho. Bấy giờ đường đường một triều đại văn thành, võ đức, thua gì Lý Công-Uẩn?
Trương Yêm chỉ người to lớn ngồi cạnh Nùng Dân-Phú:
- Vị này là trưởng nam của Nùng đại huynh tên Tồn-Phúc. Hiện Nùng đại huynh tuổi hạc đã cao, cho nên mọi quyền hành mười châu đều do Tồn-Phúc thống lĩnh. Võ công Tồn-Phúc rất cao thâm. Năm trước đây, đấu với Đặng Đại-Khê chưởng môn phái Tản-viên hơn trăm chiêu, bất phân thắng bại.
Nùng Tồn-Phúc đứng dậy hành lễ.
Triệu Thành gật đầu:
- Đại-Khê là một trong Đại-Việt ngũ long, mà Nùng huynh đấu ngang tay, thì bản lĩnh Nùng huynh đã đến chỗ tối cao vậy.
Mỹ-Linh nghe giọng nói Trương Yêm, nàng càng kinh ngạc:
- Nghe y nói, rõ ra giọng kẻ cả với Nùng Tồn-Phúc, ngang với Nùng Dân-Phú. Vậy trước khi theo phụ vương nàng, địa vị trong võ lâm của y không tầm thường.
Trương Yêm chỉ vào ni cô già:
- Vị này là Hoàng-Liên sư thái, sư thúc của Tịnh-Tuệ, chưởng môn phái Mê-linh.
Bọn Triệu Thành cùng bật lên tiếng “úi chà”. Vương Duy-Chính nói:
- Tại hạ ở Trung-nguyên nghe danh sư thái như sét nổ bên tai. Nào kiếm thuật vô địch Đại-Việt, Đại-Lý. Nhất là hai cao đồ của người, nổi danh Hoàng-liên-sơn thần kiếm. Chưởng môn phái Mê-linh Tịnh-Tuệ, sư muội Tịnh-Huyền đều bại dưới tay hai vị. Sư thái ẩn trên tuyệt đỉnh Hoàng-liên-sơn đã lâu. Nay mới hạ sơn, phò tá thánh chúa.
Mỹ-Linh kinh hoàng nghĩ:
- Hôm trước đại hiệp Trần Tự-An bàn về phái Mê-linh có nhắc đến mụ Hoàng Liên này. Nghe nói hồi còn trẻ võ công mụ rất cao thâm, kiếm thuật thần thông. Hoa-Minh thần ni, sư phụ của thái cô Tịnh-Huyền bại dưới tay thị. Đáng lẽ thị được truyền chức chưởng môn, nhưng thị lại tằng tịu với chính nam đệ tử của mình. Việc bại lộ, thị bị khai trừ khỏi môn hộ. Thị tức giận bỏ lên núi Hoàng-liên-sơn thu nhận học trò, lập ra Hoàng-liên bang. Hoàng-liên bang qui phục Nhật-hồ lão nhân, đi lại trên giang hồ làm không biết bao nhiêu việc ác độc. Võ lâm Đại-Việt nghe đến tên mụ đều táng đởm kinh hồn.
Hoàng-Liên cười:
- Hễ thánh thiên tử tỏa hào quang tới đâu, thì dù tiên, dù thánh cũng phải tuân theo.
Trương Yêm lại chỉ lão già to lớn:
- Vị này họ Đỗ tên Xích-Thập, sư thúc Đặng Đại-Khê.
Địch Thanh bật lên tiếng ái chà:
- Đỗ tiên sinh. Phải chăng trước đây tiên sinh chỉ đánh có ba chưởng, khiến vô địch thần quyền Giang-hạ bỏ mình chăng?
Đỗ Xích-Thập mỉm cười:
- Một chút tiếng tăm, không bõ cho Địch trạng nguyên cười.
Địch Thanh hướng Triệu Thành:
- Mừng cho vương gia. Đỗ tiên sinh chịu xuất động theo vương gia, thì không còn sợ gì Đại-việt ngũ long nữa.
Vương Duy-Chính chỉ vào Trương Yêm nói:
- Vị này họ Hoàng tên Văn, trước đây sang Trung-nguyên phò giúp Thiên-triều. Khi đến tuổi già, xin được về Giao-chỉ nghỉ ngơi, nhưng lúc nào cũng hướng về Trung thổ. Hoàng tiên sinh là đại diện của Bình-nam vương gia. Khi vương gia ban lệnh cho các vị, sẽ ban qua Hoàng tiên sinh.
Mỹ-Linh tỉnh ngộ:
- Thì ra Trương Yêm là người của Khu-mật viện nhà Tống cài vào Đại-việt cũng giống như Nguyên-Hạnh. Nguy thực. Y ở trong vương phủ, bất cứ động tĩnh gì của triều đình y cũng biết, rồi cung cấp cho Tống.
Đến đó bỗng Triệu Huy run run chây tay, mặt tái mét đi, dường như đau đớn lắm. Y lui lại phía sau, ngồi vận công. Hoàng Văn, Đỗ Xích-Thập, Hoàng Liên mặt tái mét đưa mắt nhìn nhau, rồi hỏi Triệu Thành:
- Vương gia. Triệu an phủ sứ bị bệnh gì vậy?
Triệu Thành thở đài:
- Cách đây hơn tháng, cô gia cùng sứ đoàn trên đường từ Thiên-trường về Thăng-long. Giữa đường gặp một bọn cướp. Chúng ta giao chiến với chúng, rồi bị trúng độc.
Hoàng-Liên mặt càng sợ hãi hơn:
- Sứ đoàn có bao nhiêu người bị trúng độc?
Triệu Thành thấy tình trạng dường như nguy kịch, y đáp gọn lỏn:
- Toàn thể. Nhẹ nhất là Minh-Thiên đại sư. Nặng nhất là Quách Quỳ.
Hoàng Văn cầm mạch Đông-Sơn lão nhân rồi hỏi:
- Có phải sau khi giao chiến khoảng một giờ, thì lão sư cảm thấy tay sưng lớn, ngứa ngáy, lẫn đau đớn vô cùng. Rồi từ hôm đó tới giờ cứ mỗi ngày lên cơn một lần không?
Đông-Sơn lão nhân chưa trả lời, thì Vương Duy-Chính, Địch Thanh đều lên cơn. Mặt tái mét, chân tay run rẩy, mồ hôi vã ra như tắm.
Đỗ Xích-Thập trầm tư một lúc rồi nói:
- Vương gia! Bọn đánh thuốc độc không thể là trộm cướp được. Bởi hắn biết xử dụng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Như vậy họ là đệ tử của Hồng-thiết giáo. Cứ như thần nghĩ, người có khả năng phát chưởng này, phải có công lực rất cao thâm. Như vậy điạ vị họ trong Hồng-thiết giáo không nhỏ. Giáo chúng Hồng-thiết giáo có thể giết lầm người chứ không bao giờ trộm cướp.
Triệu Thành gật đầu:
- Chúng tôi bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng ư? Tôi tưởng từ khi Quách Ngạn-Uy, Đỗ Ngạn-Tiêu chết rồi thì loại chưởng pháp kịch độc này bị thất truyền. Có ngờ đâu ngày nay vẫn còn người biềt xử dụng.
Nói rồi y tường thuật giản lược vụ giao chiến trên sông Hồng-hà cho Hoàng Văn nghe.
Bọn Hoàng Văn tuy làm tế tác cho Tống, nhưng chúng dấu nhẹm vụ chúng là trưởng lão trong hội đồng giáo vụ trung ương Hồng-thiết giáo. Hoàng Văn thì hoàn toàn lợi dụng Hồng-thiết giáo để phò trợ Tống. Ngược lại Đỗ Xích-Thập lại muốn mượn thế Tống, để làm giáo chủ. Còn mụ Hoàng Liên, là tình nhân của Xích-Thập. Mụ chẳng có chủ kiến gì.
Nghe Triệu Thành tường thuật, Hoàng Văn đưa mắt liếc Xích-Thập, rồi nói bâng quơ:
- Đúng thế thì ít ra người cầm đầu bọn giao chiến với vương gia phải có địa vị trưởng lão của Hồng-thiết giáo Trung-quốc hay Đại-Việt.
Y hỏi lại Đông-Sơn lão nhân:
- Bọn này chỉ giao chiến rồi bỏ đi, hay có gì khác không?
- Có. Sau khi chúng đi, ta khám phá ra việc chúng trộm hết số vàng bạc, châu báu, cùng thơ tín tối mật của vương gia.
Việc lấy trộm sách, cũng như vàng bạc châu báu là do Thanh-Mai sai tráng sĩ Thiên-trường làm, chứ không phải bọn Đại-lý. Nhưng bọn Tống tưởng là bọn Đại-lý.
Triệu Thành là người nắm Khu-mật viện nhà Tống trong tay, gì mà y không hiểu những uẩn khúc của Hồng-thiết giáo Trung-quốc, Đại-Việt. Trước khi sang Đại-Việt, y đã nghiên cứu thực kỹ những người mà Khu-mật viện nhà Tống gửi sang làm gian tế.
Ghi chú:
Nguyên tắc căn bản của phép dụng gián tức gián điệp của Hoa-Việt cổ thời có ba điều. Một là cô tác. Tức người nào, nhóm nào hoạt động chỉ mình người đó, nhóm đó với Khu-mật viện biết mà thôi. Tránh cho nhóm khác, người khác biết. Sợ khi bị lộ, thì chỉ mất một nhóm, để khỏi mất hết. Hai là nghịch hành. Nghiã là hành động ngược lại với chủ đích. Như gian tế Tống gửi sang Việt, phải tỏ ra thù hằn với Tống, không đội trời chung. Ba là nhu nhuyễn. Nhu nhuyễn là lúc nào cũng đóng vai hiền lành, dễ thương, để người xung quanh không bới móc, đễ yên thân.
Vì vậy y không cho nhóm Nguyên-Hạnh biết nhóm Hoàng Văn. Y biết rõ việc bang Nhật-Hồ Trung-quốc bị thất truyền thần công Hồng-thiết, hầu giải vĩnh viễn Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Ngay đến công thức chế thuốc giải, mỗi năm uống một lần, cũng thất truyền nốt. Chính vì vậy, mà Hồng-thiết giáo Trung-quốc chỉ có thể đánh người, làm cho người trúng độc. Bốn mươi chín ngày sau chết. Chứ chúng không thể cho thuốc giải, hầu bắt nạn nhân tuân theo mệnh lệnh chúng.
Khi Triệu Thành gặp Nguyên-Hạnh hỏi về công thức chế thuốc giải, y trả lời rằng người duy nhất biết là Đỗ Lệ-Thanh. Nhưng Lệ-Thanh chết rồi, thành ra y cũng bó tay.
Dọc đường từ Thanh-hóa về Trường-yên, Thiên-trường. Triệu Thành nghe nói Hồng-thiết giáo Trung-quốc sai người sang tìm tông tích Nguyên-Hạnh, Đỗ Lệ-Thanh. Bọn này còn đánh mấy chục thiếu niên Hồng-hương tử thương, mà Nguyên-Hạnh bó tay không trị được.