Trưng Nhị kiểm điểm lại, ước tính bên Thục tổn thất khoảng trên một vạn người. Lối tính cổ cứ một bị bắt, có 4 vừa bị thương, vừa bị chết. Còn bên Hán chỉ có hơn ba nghìn chết, khoảng một vạn bị thương. Binh tướng bên Hán đồn đại Trưng Nhị, Phương-Dung có tài như Khương Thái-Công, Tôn Tử, Ngô Khởi; Hồ Đề, Phật-Nguyệt có phép tiên.
Ngược lại trong lòng Đặng Vũ ẩn tàng một mối lo nghĩ rằng hắn không bắt được Công-tôn Thuật, không làm chúa được đất Thục. Hắn nghĩ cách, làm cách nào vào Thành-đô trước, nhưng nghĩ hoài không ra. Binh tướng được nghỉ ngơi dưỡng sức.
Nghiêm Sơn tổ chức cuộc khao quân thật lớn, thăng cấp những tướng sĩ có công, phủ tuất những gia đình tử sĩ. Trong tiệc khao quân, tướng sĩ Hán uống rượu ăn thịt vui vẻ hơn bao giờ hết. Vì đã từ lâu đạo Kinh-châu của Đại tư-mã Đặng Vũ và Phiêu-kỵ đại tướng quân Sầm Bành đánh nhau với Công-tôn Thiệu bị bại mấy trận, binh sĩ chết không được bổ sung. Bây giờ Nghiêm Sơn mang các anh hùng Lĩnh-nam sang trợ chiến. Trận đầu, không dùng bất cứ một tướng nào bên Hán, mà thắng Thục oanh liệt.
Trước trận họ thấy tuyệt diệu nhất là Hồ Đề, một cô gái người Mường, trang phục xanh, đỏ kỳ lạ, nói tiếng Hán không sõi, tính tình bộc trực, võ công không cao, nhưng với đội Thần-ưng của nàng làm cho cả hai bên đều kinh hoảng. Rồi nàng dùng ngựa Ô cho đớp hai quả cật ngựa của Công-tôn Thiệu. Nàng lại phóng ám khí làm Công-tôn Thiệu phải lột quần áo, còn dùng trăn trói tướng Thục. Họ thấy cô gái ẻo lả, thâm trầm ít nói như Phật-Nguyệt, mà đánh bại đại tướng quân bên Thục là Vũ Chu.
Trong tiệc, Nghiêm Sơn nhận thấy đám anh hùng Lĩnh-nam dường như không vui vẻ, chỉ ăn uống lấy lệ. Vương cố tìm hiểu nguyên do. Đợi tan tiệc, vương cùng Phương-Dung đến trại anh hùng Lĩnh-nam, thì tất cả đang họp. Bên ngoài Vi Đại-Lâm cùng đội Thần-ngao canh phòng rất nghiêm mật. Trên trời một đoàn Thần-ưng bay lượn, tuần phòng. Sún Lé đứng trên đài cao chỉ huy. Nghiêm Sơn nói với Phương-Dung:
- Sư muội Trưng Nhị có tài đế-vương chứ không phải người thường. Năm nay nàng mới 24 tuổi mà tài đã muốn hơn ta, nếu cứ đà tiến triển này trong vòng hai năm nữa, trong thiên hạ không ai địch nổi nàng.
Phương-Dung cười:
- Như đại-ca thấy, võ công cao nhất là Khất đại-phu, đạo đức nhất là Nam-hải nữ hiệp, yêu nước nhất là Đào-hầu Cửu-chân, thế mà em không hiểu sao tất cả đều quy phục Trưng Trắc, Trưng Nhị. Chính em, võ công cao hơn Nhị Trưng; điều binh mưu trí, em hơn Trưng Nhị, nhưng tự thấy mình quy phục Trưng sư tỷ, sư tỷ nói gì em không dám cãi. Ngay sư tỷ Hồ Đề làm nữ chúa 72 động trên vùng Tây-vu, sống với thiên nhiên, coi trời nhỏ bằng cái vung, thế mà Trưng sư tỷ nói gì cũng nghe răm rắp.
Nghiêm Sơn cười:
- Để ta phân tích cho sư muội nghe. Về xung phong hãm trận, hành quân đánh giặc, các vị như Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại, Lại Thế-Cường, Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ, Lương Hồng-Châu thực là đại tài. Nhưng họ chỉ là chiến tướng, chứ không phải đại tướng. Phàm làm đại tướng, trên phải thông thiên văn, dưới phải thông địa lý; lại biết mình, biết người, biết điều khiển các chiến tướng. Sư muội, Đào Kỳ, Vĩnh-Hoa, Trưng Nhị, Trưng Trắc đều có cả. Nhưng Vĩnh-Hoa thiên về mưu và kế. Sư muội giỏi dùng binh hơn. Sư muội giỏi hơn cả ta, nên ta để sư muội làm Tổng quân sư. Đặng Vũ, Ngô Hán đều có tài đại tướng, họ không biết kết hợp giữa mưu và trí, thành tài dụng binh, vì vậy ta để Trưng Nhị với Vĩnh-Hoa làm quân sư cho họ, ta để Khất đại-phu, Phật-Nguyệt theo tòng chinh giúp họ. Chỉ riêng có Đào tiểu sư đệ, y có đủ tài. Y biết kết hợp mưu với trí, giỏi dụng binh, y vừa là đại tướng vừa là quân sư. Võ công y rất cao, ta dạy y kỹ về xung phong, hãm trận, không cần người theo giúp y về võ lực. Ta sợ y trẻ quá, có điều gì quá đáng chăng. Ta để Hoàng sư tỷ đi bên cạnh. Ta biết trên đời này y chỉ vui lòng nghe lời có ba người: Đào hầu, Đinh hầu và Hoàng sư tỷ.
Nghiêm Sơn tiếp:
- Có một điều, chỉ Nhị Trưng là có tài thu phục nhân tâm. Tài đó là tài đế vương. Chính vì vậy mà những người ngỗ nghịch như sư muội, như Hồ Đề đều khuất phục.
Phương-Dung cười:
- Còn đại ca! Đại ca biết điều khiển các tướng, biết thu phục nhân tâm, nên mới là Lĩnh-nam vương. Em như đại ca, em kéo quân về Lĩnh-nam xưng là Hoàng-đế. Trưng Nhị sư tỷ làm Thừa-tướng, Đào tam lang làm Tư-mã, em làm Tư-đồ.
Câu nói đó của Phương-Dung, đối với Nghiêm Sơn là câu nói đùa của một thiếu nữ vô tư, vương cười khì bỏ qua. Vương đâu có biết Trưng Nhị, Phương-Dung đã bàn với nhau, hầu dò ý vương.
Nghiêm Sơn cười:
- Con chim thích bay trên trời cao, con nai thích gặm cỏ bên bờ suối. Nghĩa huynh Quang-Vũ của ta thích làm hoàng-đế, còn ta, ta thích cùng Hoàng sư tỷ, ruổi ngựa ngao du bốn phương, ngắm cảnh đẹp của tạo hóa mà thôi.
Phương-Dung gật đầu:
- Hoàng sư tỷ cũng muốn thế, hôm trước em gọi Hoàng sư tỷ bằng vương-phi, sư tỷ nhíu mày lại, tỏ ý không thích. Em nghĩ kiếp trước đại ca với sư tỷ là Sào Phủ với Hứa Do thì đùng hơn.
Vi Đại-Lâm đến trước mặt Nghiêm Sơn hỏi;
- Lĩnh-nam vương gia! Ngài có việc gì không? Lão còn vào báo với Trưng cô nương.
Nghiêm Sơn gật đầu:
- Lão tướng vào báo với Trưng sư muội rằng có ta với Dung muội cần gặp anh hùng Lĩnh-nam.
Vi Đại-Lâm trở vào một lúc thì Trưng Nhị ra đón. Nghiêm Sơn khen:
- Trưng muội bố phòng như thế này, đến con kiến cũng không lọt vào được, huống hồ là gian tế giặc.
Mặt Trưng Nhị lạnh lùng mời Nghiêm Sơn vào trướng, để ngồi lên thủ vị cao nhất. Nghiêm Sơn thấy không khí lạnh lùng, vương hỏi:
- Từ hơn năm nay, Đặng Vũ đánh Thục bị thất trận liên tiếp. Cho nên thiên tử mới triệu ta về đánh giặc. Chiến thắng đầu tiên hoàn toàn nhờ các vị sư thúc, sư bá, sư huynh, sư đệ. Nhưng trong buổi tiệc khao quân này, ta thấy các vị đều có ý không vui. Vì vậy ta đến đây tìm hiểu tại sao. Trong chúng ta là tình huynh đệ, chứ không phải một vị Lĩnh-nam vương đối với tướng sĩ.
Hồ Đề liếc nhìn Trưng Nhị hỏi ý kiến. Trưng Nhị gật đầu tỏ ý ưng thuận. Hồ Đề đứng lên nói:
- Khi rời Lĩnh-nam, tiểu muội được biết rằng trước đây Công-tôn Thuật là một mệnh quan của nhà Hán. Trấn giữ sáu quận, rồi nhân lúc Vương Mãng cướp ngôi, mà xưng đế đất Thục, chiếm 41 quận Tây-xuyên, sau tiến chiếm 9 quận Kinh-châu và 34 châu quận Hán-trung. Công-tôn Thiệu hợp với Ngỗi Hiêu chiếm Lũng-hữu cùng xưng đế. Hán-đế dẹp yên Ngỗi Hiêu, đất Lũng-hữu yên. Duy còn đất Thục là mối loạn, nên chúng ta giúp Hán-đế dẹp Công-tôn Thuật.
Nghiêm Sơn gật đầu:
- Thì bây giờ sư muội thấy đúng rồi đó.
Thiên-thủ viên hầu Lại Thế-Cường tiếp lời Hồ Đề:
- Qua trận đánh vừa rồi, cũng như khi xem xét dân tình, tôi thấy Công-tôn Thuật sở dĩ xưng đế, đánh bại Hán vì y xuất thân võ lâm. Võ đạo của y rất cao, y là một trong Thiên-sơn thất hùng. Nước Thục trên từ vua, xuống dưới tướng sĩ, đối xử với nhau như đám Lĩnh-nam chúng ta. Dân chúng Ích-châu sung sướng hơn dân Kinh-châu. Tôi hỏi dân Kinh-châu họ nói rằng thời Tây-Hán họ không khổ, không sướng. Đến khi Xích Mi, Vương Mãng chiếm, họ khổ vô cùng. Sau khi Thục chiếm họ rất sung sướng. Bây giờ lại thuộc Hán, họ khổ như hồi Xích Mi cai trị. Cho nên chúng tôi có cảm tưởng mình giúp kẻ bất nhân, đánh người nhân. Do đó trong tiệc chúng tôi không vui, họp nhau đây tìm hiểu sự thực.
Nghiêm Sơn ngẫm nghĩ một lúc rồi nói:
- Ta rời Quang-Vũ sang Lĩnh-nam đúng lúc chiếm Kinh-châu, nên không biết sau đó việc nội trị thế nào. Chúng ta là nghĩa hiệp, các vị nghiên cứu xem Thục có điều gì khiến dân chúng sung sướng; Hán có điều gì khiến dân chúng đau khổ, chúng ta bỏ những điều khổ cho dân, làm những gì hạnh phúc cho dân. Đặng Vũ tuy thống lãnh đạo quân này, nhưng ta ở trên. Thiên tử cho ta trọn quyền thay người, các vị đề nghị gì, ta sẵn sàng theo. Thiên tử là ta, ta là các vị. Vậy các vị đề nghị đi.
Vi Đại-Sơn tiếp:
- Ngoài trận lão thấy Vũ Chu anh hùng khí phách hiên ngang. Tướng sĩ Thục bị bắt, đều chịu chết chứ không chịu hàng. Họ giống chúng ta, chúng ta chẳng nên đánh.
Trần Năng lắc đầu:
- Lão bá nói thế thì đúng rồi, nhưng chúng ta cần giúp Quang-Vũ để phục hồi Lĩnh-nam. Vì vậy dù biết đánh người nhân cũng phải ra tay. Phục hồi đất nước trên hết.
Câu nói của Trần Năng làm mọi người tỉnh ngộ.
Sáng hôm sau Nghiêm Sơn gọi Đặng Vũ đến nói:
- Đặng đại tư-mã tài ba lỗi lạc, hãy lo chiếm Xuyên-khẩu vào Thành-đô. Ta với quân sư Phương-Dung đi Hán-trung ngay, hầu gặp Xa-kỵ đại tướng quân Ngô Hán, duyệt xét tình hình thế nào mới được. Việc quan trọng nhất ta muốn nói với Đại tư-mã rằng: Đất Ích-châu là nơi trước đây Cao-tổ nhà Hán ẩn náu, sau quật khởi đánh Sở bá vương. Vì vậy tướng quân đi đến đâu cũng phải lấy nhân nghĩa đối với trăm họ, đó là điều cần thiết vậy.
Đặng Vũ, Trưng Nhị tiễn Nghiêm Sơn, Phương-Dung lên đường. Thông thường các tướng soái đi đâu, binh tướng theo hầu cả hàng vạn để bảo vệ. Nhưng Nghiêm Sơn, Phương-Dung là người võ công cao cường, không cần hộ tống. Vương chỉ mang theo mấy thần ưng làm phương tiện liên lạc, với mười tiễn thủ của phái Hoa-lư.
Tiễn Nghiêm Sơn đi rồi, lúc trở về Hồ Đề nói với Đặng Vũ:
- Ngày mai mình chuẩn bị đánh thành Xuyên khẩu. Ở không buồn quá!
Đặng Vũ rùng rình chưa muốn tiến công, cho tới một hôm tế tác báo cho biết Thành-đô đang rúng động vì đạo quân phía Nam đã tiến tới Long-xương, Hán-nguyên. Đạo Lĩnh-nam tạm ngừng tiến công để kinh lược các thành trì, thiết lập hệ thống cai trị, đồn ải cho an toàn mới vào Thành-đô. Còn đạo quân Tây-xuyên đã đánh được Dương-bình quan, chia làm hai tiến đánh Ba-trung, Kiếm-các. Thành-đô vội đưa binh tướng ra trấn thủ mặt Nam, Bắc. Công-tôn Thuật lo lắng vô cùng. Đặng Vũ nghe báo cuống cuồng, vội tập họp tướng sĩ đánh Bạch-đế, Xuyên-khẩu càng gấp càng tốt. Trưng Nhị biết tâm lý y, nàng nên cứ rùng rình không lên tiếng.
Đặng Vũ hỏi:
- Trưng quân sư, bây giờ chúng ta phải tiến quân cho mau mới được.
Trưng Nhị giả vờ:
- Được, vậy chúng ta chiếm Xuyên-khẩu, rồi chia quân ra làm ba. Một đánh Bạch-đế, một đánh Vũ-khê, một đánh Vũ-lăng được chăng?
Đặng Vũ muốn đánh nhanh, không đồng ý:
- Theo ý tôi, ta tiến đánh Xuyên-khẩu rồi vây thành Bạch-đế cầm chân giặc. Ta tiến dọc theo sông Trường-giang đánh Bồ-lăng. Tới Bồ-lăng chia làm hai, một theo sông Bồ-giang, một theo sông Nê-giang, tiến đến uy hiếp Thành-đô.
Trưng Nhị càng đủng đỉnh:
- Đánh như vậy thì mau đấy, nhưng những ải phía sau ta chặn đường tiếp tế, ta kẹt ở giữa thì nguy đấy. Chi bằng ta cứ thong thả mặc cho hai đạo quân kia vào Thành-đô trước.
Đặng Vũ tức đến đỏ mặt lên, nhưng y vì cần Trưng Nhị nên phải nín nhịn, y nói ngọt:
- Trưng cô nương, xin cô nương giúp tôi... Trọn đời tôi nguyện không quên ơn cô nương.
Trưng Nhị thấy đùa như vậy đã đủ rồi, nàng nói:
- Thôi được, hôm nay chúng ta đánh chiếm Xuyên-khẩu, bao vây thành Bạch-đế. Như vậy Đại-tư-mã vừa ý chứ?
Đặng Vũ mừng cuống cuồng lên, bưng ấn kiếm hai tay đưa trước mặt Trưng Nhị:
- Xin Trưng quân sư điều binh cho.
Đặng Vũ sai đánh trống triệu tập quân sĩ đến nghe lệnh. Trưng Nhị lên trước trướng ngồi:
- Hôm Đặng đại-tư mã muốn chúng ta đánh Xuyên-khẩu, nhất quyết giờ Tý đêm nay phải vào trong thành. Tướng sĩ nào lui thì chém đầu làm hiệu lệnh dù cấp nào cũng quyết không tha.
Các tướng Hán nghe nói, mặt nhìn mặt ngẩn ngơ. Kiến-oai đại tướng quân Cảnh Yểm đứng lên thưa:
- Thưa quân sư trận đầu quân sư không dùng đến chúng tôi, chỉ dùng các tướng Lĩnh-nam mà thắng giặc. Hôm trước giặc cùng ta dàn trận thì dễ, chứ bây giờ tướng giặc võ công cao, quân sĩ tinh luyện, chúng nhất quyết thủ trong thành làm sao mà đánh vào được. Trước đây Đại tư-mã đã cùng anh em chúng tôi đánh bao phen, chỉ chết uổng sĩ tốt mà thôi. Bây giờ quân sư bắt phải vào thành giờ Tý đêm nay, thì thực không thể nào được.
Trưng Nhị nhìn Đặng Vũ cười:
- Đại hội quân ở Quế-lâm, quân sư Phương-Dung đã định sẵn kế sách. Chúng ta đánh bại các cao thủ bên giặc, cần thắng một trận để cho giặc mất nhuệ khí, bấy giờ sẽ đánh thành. Hai vấn đề đầu tiên, chúng ta đã thành công. Bây giờ đánh thành không khó khăn gì nữa. Trước kia, các vị thua vì binh sĩ chết không được bổ sung, khí thế giặc mạnh. Bây giờ ngược lại khí thế ta mạnh, binh giặc không được bổ sung.
Nàng cầm binh phù nói:
- Nữ tướng Phật-Nguyệt, chỉ huy toàn bộ hải quân đánh chiếm cảng Độ-hà. Nữ tướng Hồ Đề cho Phật-Nguyệt mượn đội Thần-ưng. Khi hai bên dàn quân đánh nhau, cho Thần-ưng xuất trận làm địch phải rối loạn. Hải-quân giặc bỏ chạy không cần đuổi xa, đến bên Cổ-lăng thì đóng lại, bao vây mặt sau thành Bạch-đế.
Hồ Đề hỏi:
- Thần-ưng của tôi có một Lữ, gồm 600 con, chia thành từng Lượng 25 con. Cho mượn hết hay chỉ mượn một vài Tốt? Sau khi đuổi giặc thì trả về hay vẫn mang theo bao vây thành Bạch-đế?
Trưng Nhị đáp:
- Đánh nhau dưới nước, vũ khí quan trọng là cung tên. Khi Phật-Nguyệt dùng cung tên bắn giặc tất nhiên giặc bắn lại. Nếu ta dùng Thần-ưng từ trên bổ xuống đánh, địch phải dùng cung tên bắn Thần-ưng, như vậy hàng ngũ rối loạn. Khi đến Cổ-lăng, Thần-ưng vẫn được giữ để còn đánh thủy quân giặc nữa.
Phật-Nguyệt hỏi:
- Đô-đốc Lưu Long hiện coi thủy quân, vậy tôi là chủ tướng hay Lưu Long là chủ tướng?
Đặng Vũ đáp:
- Cô nương Phật-Nguyệt làm chủ tướng.
Trưng Nhị tiếp:
- Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm mang hai vạn quân đánh cửa Bắc, cần giữ vững trận tuyến không cho giặc chạy ra. Xin sư bá Lại Thế-Cường theo giúp Cảnh tướng-quân.
Lại Thế-Cường hỏi:
- Quân mã của Kiến-oai đại tướng-quân gồm ba vạn. Đạo quân Nhật-nam của tôi gồm bốn vạn Bộ-binh, bẩy nghìn năm trăm kỵ binh, nếu đem cả đi thì e rằng nhiều quá chăng? Còn mang đi một phần thì mang quân của ai?
Trưng Nhị nói:
- Binh lính của Cảnh đại tướng-quân đánh nhiều trận đã mệt mỏi, cho họ nghỉ dưỡng sức. Sư bá mang quân Nhật-nam xuất trận.
Nàng tiếp:
- Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ mang hai vạn quân đánh cửa Nam. Nếu thấy giặc bỏ chạy, thì lùi lại cho chúng thoát khỏi thành. Sư muội Lê Chân mang theo một trăm thớt voi giúp Mã tướng-quân. Cứ thẳng đường đuổi không sợ phục binh, vì giặc trong thành Bạch-đế không dám xuất ra cứu đâu, nếu chúng xuất ra, sẽ bị thủy-quân ở Cổ-lăng đánh úp thành.
- Chinh-lỗ đại tướng-quân Tế Tuân mang hai vạn quân phục ở Vu-sơn, khi giặc bỏ thành chạy, chờ một nửa đi qua hãy đổ ra đánh. Tuy bắt không được tướng giặc, nhưng cũng bắt được một số quân. Sau đó tiến vào cửa Tây thành. Xin sư thúc Trần Năng theo giúp Mã tướng-quân.
- Chúng ta bỏ trống cửa Tây cho giặc chạy về thành Bạch-đế.
- Đặng đại-tư-mã, Sầm đại tướng-quân đánh vào cửa Đông làm nỗ lực chính. Xin Đặng đại tư-mã cho binh sĩ chuẩn bị thang, cung nỏ sẵn.
Ngừng một lát, nàng nói:
- Tôi nhắc lại là cung nỏ với đoản đao phải sẵn sàng. Chúng ta đánh cửa Đông gấp, giặc sẽ lên thành dùng cung nỏ bắn xuống và lăn gỗ đá. Nữ tướng Hồ Đề chuẩn bị đội Thần-phong. Khi pháo lệnh nổ, cho đội Thần-phong đánh quân trên thành. Pháo lệnh đó cũng là lệnh cho quân sĩ bắc thang lên. Chúng ta có một phần tư giờ để lên thành mà thôi. Vì chậm trễ, giặc đem lửa đốt, Thần-phong bỏ chạy, tất ta gặp nguy. Binh sĩ lên mặt thành rồi cung nỏ bắn lùi giặc, mở cửa cho đại-quân tiến vào. Đặng đại tư-mã, Chinh-di đại tướng-quân đánh vào giữa thành. Phấn-oai đại tướng-quân Lưu Hân với tôi đánh sang cửa Nam. Hổ-oai đại tướng-quân Phùng Tuấn và sư tỷ Hồ Đề đánh sang cửa Bắc. Bấy giờ giặc bỏ thành chạy, chúng ta không cần đuổi theo, vì đã có phục binh chặn đường bắt sống.
Trước đây khi hội quân ở Quế-lâm, Trưng Nhị và Hồ Đề có hứa sẽ làm cho quân trên thành tê liệt trong vòng nửa giờ, giúp Đặng Vũ đánh thành. Bấy giờ Đặng Vũ hỏi rằng đạo quân mà Hồ Đề làm tê liệt quân trên thành là quân gì? Hồ Đề không trả lời, nàng sợ lộ bị giặc biết, giặc sẽ có cách chống. Bây giờ Đặng Vũ mới biết là đội ong, nếu địch quân biết trước sẽ dùng lửa chống lại, e khó thành công.
Các đạo quân lục tục lên đường. Đặng Vũ với Trưng Nhị vừa lên ngựa đi được một lát, chưa tới thành Xuyên-khẩu có thám mã về báo:
- Thủy-quân giặc bỏ chạy, nữ tướng Phật-Nguyệt đang cho quân đuổi theo.
Nguyên Phật-Nguyệt là người cơ mưu, võ công cao cường. Lúc nàng đến cảng thủy quân thì Lưu Long, Đoàn Chí đã chờ sẵn. Nàng ra lệnh cho Lưu Long dàn chiến thuyền, khua chiêng trống tiến lên đánh quân Thục. Thủy quân Thục đông hơn Hán lại đóng ở thượng-lưu sông, tấn công như vũ bão. Phật-Nguyệt là đệ tử yêu của Nguyễn Phan, khinh công của nàng ngang với Đào Kỳ, Phương-Dung. Nàng chỉ nhún mình mấy cái đã leo đến đỉnh cột soái thuyền quan sát. Thủy quân Thục chia làm bốn cánh, dàn ra thành đội hình như một tam giác. Phía trước ba đội: Trung quân, tả, hữu. Phiá sau là đội trừ bị. Mỗi đội phía trước có một soái thuyền rất lớn, đội phía sau có năm soái thuyền, một số thuyền nhỏ lui tới tiếp tế cho các chiến thuyền phía trước. Phật-Nguyệt ít đọc binh thư, chưa biết gì về thủy chiến, hơi bỡ ngỡ. Nàng nhìn bên Hán cũng dàn trận tương tự. Là người thông minh, nàng nghĩ:
- Hai bên bắn nhau thế này mà mình ở dưới hạ lưu, địch thượng lưu thì mình yếu thế. Vậy phải cho hai bên cận chiến, thế thượng lưu của địch sẽ mất đi.
Nàng gọi Sún Lé, người chỉ huy Thần-ưng hỏi:
- Sư đệ, nếu hai bên đánh lẫn nhau, Thần-ưng có cách nào phân biệt giữa ta và địch không?
Sún Lé cầm đầu Tây-vu Thiên-ưng, tính tình tinh nghịch hơn cả Hồ Đề, nhiều mưu lắm mẹo, nó nghe Phật-Nguyệt hỏi thế thì gật đầu:
- Có chứ, quân Hán mặc quần áo xanh, quân Thục mặc quần áo sậm. Kể từ lúc giáp chiến đến giờ, Thần-ưng đã phân biệt được giữa ta và địch. Tùy chị muốn, em sẽ ra lệnh cho Thần-ưng chỉ tấn công những ai mặc quần áo mầu nâu sậm thôi.
Phật-Nguyệt gọi Lâu-thuyền tướng-quân Đoàn Chí và đô-đốc Lưu Long lại dặn:
- Bây giờ thế này, hai tướng-quân cho thuyền xuôi theo dòng nước, ryt lui nhưng vẫn giữ vững đội hình. Như vậy mình không phải xuất lực chèo. Giặc đuổi theo thì mình vẫn cứ lui từ từ, cho quân bắn cầm chừng. Cố giữ đôi bên khoản g cách một tầm tên. Chúng ta sẽ cho ba soái thuyền vọt về trước. Lưu tướng-quân đánh bên phải, tôi đánh vào giữa. Đoàn tướng-quân đánh vào bên trái. Khi thấy soái kỳ của giặc bị tôi chặt gãy, sư đệ Sún Lé cho Thần-ưng bay lên tấn công. Đợi hàng ngũ địch loạn mới cho quân đuổi theo.
Nàng dặn Sún Lé:
- Sư đệ có 600 Thần-ưng, chia thành 6 tốt phải không?
- Không em để một tốt cho sư tỷ Hồ Đề dùng. Em mang theo 5 tốt, mỗi tốt 100. Một tốt chia làm 4 lượng. Mỗi lượng 25 Thần-ưng.
- Em có mấy người điều khiển Thần-ưng?
- Tất cả có 5 người với em nữa là sáu. Chúng em đều nhỏ tuổi cả. Lớn nhất 16, nhỏ nhất 14.
- Vậy thì tốt lắm. Em trấn nhậm trung ương. Đứng trên soái hạm chỉ huy. Đầu tiên cho bốn tốt xuất trận. Một tốt đánh vào phải, một tốt đánh vào trái, một đánh vào giữa, một đánh vào hậu quân địch. Còn một tốt cho bay lượn trên không làm trừ bị. Còn đánh cách nào thì tùy ý em.
Sún Lé cười như nắc nẻ:
- Có cho các tướng Thục ăn phân chim không?
Phật-Nguyệt là đệ tử của Nguyễn Phan, nên tính tình hiền lành, nhu mì ít tinh nghịch như Hồ Đề, Trần Năng, nàng tát yêu Sún Lé:
- Không cần, hôm trước tướng bên giặc oai phong, cho Thần-ưng thả phân xuống, làm mất thể diện chúng. Hôm nay là trận đánh sinh tử, cần cho tấn công cào mặt, móc mắt.
Sún Lé hỏi:
- Có bằng này lối đánh: Một là cho Thần-ưng bất thần tấn công, nhào xuống mổ mắt, cào mặt mấy cái rồi bay lên không. Địch bị thương, tất ngửa mặt lên trời theo dõi. Em cho chim bay lượn đe dọa. Thấy chúng cúi xuống, em cho Thần-ưng nhào xuống đánh. Chúng ngửa lên thì cho Thần-ưng bay lượn đe dọa, làm chúng không thể tấn công về trước. Còn lối đánh thứ nhì, thì cho từng lượng Thần-ưng một từ trên cao nhào xuống đánh, mổ mắt cào mặt, rồi lại bay lên. Tiếp theo lượng thứ nhì, cứ như vậy trên trời mỗi cánh quân đều có ba lượng, một lượng tấn công. Chị thích lối nào?
Lưu Long nói:
- Nên đánh lối thứ nhì hay hơn. Khi em cho Thần-ưng đánh, thì bọn tôi chèo thuyền lên tấn công, địch phải thua.
Phật-Nguyệt chỉ về phía trước nói:
- Em thử cho tấn công đội thứ nhì chị xem nào?
Sún Lé cầm tù-và thổi một hơi dài, lập tức có năm tiếng tù-và của những Sún chỉ huy Thần-ưng ở các thuyền khác đáp lại. Sún Lé lại cầm tù-và thổi liền bẩy tiếng to nhỏ khác nhau. Lập tức soái thuyền phía sau có một thiếu niên khác nhỏ tuổi hơn Sún Lé một chút, leo lên cột buồm tay cầm năm lá cờ xanh, vàng, đỏ, trắng và đen phất, lát sau có tiếng kêu ré trên không của loài chim, rồi một đám Thần-ưng từ xa bay tới chia làm 5 đội, mỗi đội 25 con trông rất đều đặn. Đàn Thần-ưng bay vòng vòng trên trời như thao diễn.
Sún Lé nói với Phật-Nguyệt:
- Thằng Sún Lùn đang thao diễn dấy! Em cho lệnh tấn công đây.
Nói rồi nó cầm tù-và thổi ba tiếng dài, lập tức Sún Lùn cầm cờ xanh phất một cái, đội hình Thần-ưng đi đầu kêu lên đồng loạt, từ trên cao bổ xuống chiến thuyền Thục, mỗi con tấn công một thủy thủ. Đám thủy thủ bị tấn công bất ngờ buông cung tên để gạt Thần-ưng, thì Thần-ưng lại bay bổng trên cao. Thế là thủy thủ trên một chiến thuyền Thục bị thương gần hết, giữa lúc đang luống cuống thủy quân Hán, bắn ngã gục hết rồi nhảy vọt sang chiếm lấy.
Phật-Nguyệt bảo Sún Lé:
- Em cho tấn công vào tất cả các chiến thuyền phía phải một lượt.
Sún Lé cầm tù-và thổi năm hơi. Lập tức Sún Lùn phát cờ liên tiếp. Đoàn Thần-ưng ré đồng loạt, từ trên cao bổ xuống. Một trăm Thần-ưng tấn công vào bốn chiến thuyền, lại bay vọt lên cao. Thủy thủ Hán thích quá, bắn tên rào rào, nhảy sang cướp chiến thuyền địch.
Bên Thục hỗn loạn vì mất năm chiến thuyền một lúc. Hậu quân chuyển động, rồi các chiến thuyền từ từ rút lui. Phật-Nguyệt chỉ một soái thuyền bảo Sún Lùn:
- Em dùng Thần-ưng tấn công soái thuyền kia đi.
Sún Lùn cầm tù-và thổi. Lập tức đoàn Thần-ưng lại kêu lên vang trời. Bốn lượng mỗi lượng 25 con vụt xuống soái thuyền. Dưới soái thuyền đã chuẩn bị, dùng tên bắn một loạt, nhưng không trúng con nào. Bọn thủy thủ dùng dao chém ngược trở lên đồng loạt, hơn 10 Thần-ưng chết văng dưới sàn. Sún Lùn cầm cờ phất ba cái, tức thì số Thần-ưng còn lại đồng loạt lao xuống tấn công. Thủy thủ Thục mải đánh nhau với Thần-ưng, thì soái thuyền Lưu Long đã đuổi kịp, Lưu Long nhảy vọt sang trước cùng quân Hán đánh nhau với Thục. Dù trên soái thuyền Thục, hết trên trăm người bị thương, số còn lại đến hơn 300 đồng chống trả. Phật-Nguyệt thấy cảnh hỗn độn bảo Sún Lé:
- Không cần chị ra lệnh, chỗ nào có quân Thục, em ra lệnh tấn công thực gấp.
Sún Lé cầm tù-và thổi lên liên tiếp. Trên các chiến thuyền khác đám Sún đồng phất cờ. Thần-ưng lao vùn vụt tấn công. Hàng ngũ Thục quân náo loạn cả lên, chiến thuyền Hán được dịp tràn đến bắt.
Binh Thục đang hỗn loạn, thì viên đô-đốc chỉ huy hạm đội nhận ra người chỉ huy đoàn Thần-ưng là Sún Lé, y nói với tên cận vệ mấy câu. Người này phất tay ra hiệu, mười tên thủy thủ võ công cao cường theo y, tấn công đồng loạt binh Hán, rồi nhảy sang thuyền có Sún Lé. Võ công 11 người này cực cao, chỉ mấy chiêu chúng đã chiếm được chiến thuyền. Một trong bọn họ đã nhảy tới chụp Sún Lé. Sún Lé đã chuẩn bị từ trước, nó cúi đầu húc vào bụng tên này. Y ngẩn người ra, vì trên đời này khi bị tấn công, thì người ta nhảy lùi lại tránh, chứ có ai húc đầu vào đối thủ đâu. Y đưa tay túm Sún Lé, nhấc lên định trói lại thì cảm thấy bàn tay đau nhói. Y nhìn kỹ thì ớn da gà, vội buông Sún Lé ra, vì trên mu bàn tay y có đến năm con bò-cạp. Y đạp chết bò-cạp thì mu bàn tay sưng lên. Y biết phải bắt cho được Sún Lé để lấy thuốc giải độc. Nếu không chỉ trong khoảnh khắc, nọc bò-cạp chạy vào tim thì hết phương cứu chữa.
Y nhặt đao chém liên tiếp mười chiêu, giết 10 thủy thủ Hán. Khi y quay lại tìm, thì Sún Lé đã leo lên chót vót cột buồm, thè lưỡi chế nhạo y.
Nguyên Lục Sún là 6 đứa trẻ mồ côi. Cha mẹ chúng bị người Hán bắt giết. Hồ Đề đem về nuôi nấng dạy dỗ. Chúng sống với thú rừng, leo cây nhảy nhót như khỉ đã quen. Y chỉ chuyền mấy cái đã lên đến đỉnh cột buồm, đứng điều khiển Thần-ưng.
Bọn 11 cao thủ chém hầu hết quân Hán trên thuyền Sún Lé, nhưng không làm cách nào bắt được nó. Tên trưởng toán lo sợ cuống cuồng vì tay y tím bầm sưng lớn. Y biết nọc độc đang chạy lên cánh tay, chậm thì chết, bèn gọi lớn:
- Chú nhỏ kia mau đưa thuốc giải độc bò-cạp cho ta, nếu không, ta sẽ chặt cột buồm thì chú rơi xuống là hết đời.
Sún Lé cười khì khì, tính tinh nghịch nổi dậy. Nó tụt quần đái xuống đầu bọn thủy thủ Thục. Bọn này vội nhảy tránh, tên cầm đầu phất tay:
- Hạ cột buồm xuống!
Cả mười tên xúm vào dùng dao chặt cột buồm. Sún Lé thấy nguy, vội cầm tù-và thổi, móc trong túi ra cây cờ vàng phất lia lịa xuống dưới chân.
Từ xa một đoàn Thần-ưng ré lên, bay đến. Chúng thấy chúa tướng lâm nguy, đồng loạt tấn công bọn thủy thụ.. Bọn này là những cao thủ võ công đâu có dở, chúng vung đao chém. Sáu Thần-ưng bị trúng đao rơi xuống sàn. Sún Lé sợ Thần-ưng tử trận nhiều. Nó cầm cờ ra lệnh đoàn Thần-ưng không tấn công nữa, từ trên bổ xuống gần đầu quân địch lại vọt lên. Bọn thủy thủ không dám chặt cột buồm, ngửa mặt lên trời, phòng Thần-ưng tấn công.
Trong khi đó gần 500 Thần-ưng như những vì sao xẹt trên trời, lao vào các chiến thuyền khác. Quân Hán được dịp tiến đánh. Một khắc sau bên Thục cho lệnh rút lui, chiến thuyền Hán cho lệnh đuổi theo ráo riết. Phật-Nguyệt thấy một thuyền Hán không người chèo lái, trên cột buồm có Sún Lé phất cờ điều khiển Thần-ưng đánh 11 thủy thủ Thục, nàng thất kinh, tự mắng:
- Mình thật sơ ý, mải lo tấn công, quên mất một chiến thuyền Hán bị cao thủ Thục đánh chiếm, trên đó có Sún Lé.
Khi hai thuyền gần nhau, nàng nhún mình một cái, nhảy qua chiến thuyền kia kêu lớn:
- Sún Lé! Có chị đây đừng sợ!