Hồi 7b
Công-tôn Tư quả đang lo những điều Vĩnh Hoa nói. Mẹ của y đã qua đời. Công-tôn Thuật đặt một phi tần khác lên làm hoàng-hậu, cực kỳ sủng ái. Thuật còn nuôi ba con trai của Vương Nguyên làm con, tước phong tới Bình-nam vương, trấn thủ phía nam Ích-châu. Ngoài ra y lại không được lòng hai người chú là Công-tôn Thiệu, Công-tôn Khôi đang trấn thủ Đông và Đông-nam. Bây giờ trước trận Phùng Vĩnh Hoa nói toẹt mối lo ngại cuả y ra. Y biết là đúng, song vẫn thản nhiên:
- Phùng cô nương dạy quả đúng như hoàn cảnh của ta. Nhưng đạo làm tôi phải trung với chúa, đạo làm con phải hiếu với cha mẹ. Thái tử Lịch Sanh tuy chết oan, nhưng danh còn với thiên cổ. Ta được vua cha ủy thác trấn nhậm biên thùy, phải cố giữ cho nước yên, dân được sung sướng thì đã toại nguyện. Còn làm vua hay làm tôi ta không cần nghĩ tới. Cám ơn cô nương đã dạy dỗ. Xin cô nương lui về, để ta cùng Ngô Hán đấu với nhau một trận long trời lỡ đất.
Y lại nói với Ngô Hán:
- Ngô Hán, chúng ta đánh nhau mãi chết quân sĩ nhiều quá, vậy người có dám đấu với ta chăng? Dù đấu văn, đấu võ môn gì ta cũng nhận.
Phùng Vĩnh Hoa nói ;
- Không biết Thái-tử có thể thù tiếp tôi được chăng? Tôi xin đấu văn với Thái-tử. Xin Thái-tử ra đầu đề trước đi.
Công Tôn Tư nói:
- Nếu là cô nương, tôi xin nhường cô nương ra đầu đề. Chúng ta đấu ba cuộc, ai thắng hai thì coi như được. Không biết cô nương nghĩ sao? Cô nương thắng, tôi nguyện lui binh, dẫn đường mời cô nương du lịch thắng cảnh Dương-bình quan hay cả đất Ích-châu như cô nương đã nói với sư-đệ tôi hôm qua. Còn nếu tôi thắng, xin cô nương bảo Ngô Hán lui quân về, để tướng sĩ được nghỉ một tháng. Không biết cô nương có chấp thuận không?
Phùng Vĩnh Hoa nghiêng mình đáp lễ:
- Tôi xin tuân lịnh Thái-tử. Môn thi đầu tiên của tôi là âm nhạc. Tôi tấu một vài khúc, xin Thái-tử đánh nhịp cho.
Vĩnh Hoa là đệ tử phái Sài-sơn, nàng rất giỏi âm nhạc. Nàng vẫy tay về sau, một nữ binh theo hầu dâng lên cây đàn bầu. Nàng để cây đàn trên mình ngựa, dạo khúc Dương Xuân Bạch Tuyết. Nàng dùng nội lực chuyển vào cây đàn, âm thanh đi rất xa. Tướng sĩ hai bên trước nay đã cùng nhau đánh hàng trăm trận, sống chết có thừa. Nay bỗng dưng được thấy một thiếu nữ xinh đẹp, ra trước trận tấu nhạc bằng thứ đàn chỉ có một giây. Tiếng đàn đầm ấm, thanh cao, u nhã, khiến hồn họ như lâng lâng bay bổng lên cao.
Bên trận Thục, Công-tôn Tư rút kiếm ra đánh nhịp theo điệu đàn của nàng, hợp thành một khúc nhạc tuyệt vời. Khúc nhạc dứt, quân sĩ hai bên vỗ tay hoan hô rúng động trời đất.
Phùng Vĩnh Hoa nói:
- Trời sắp vào Xuân, hai bên đánh nhau mãi chán lắm rồi, chi bằng chúng ta cùng nhau tấu nhạc cho tướng sĩ nghe chẳng thú lắm sao. Từ ngày rời Lĩnh Nam đến giờ, nay là lần đầu tiên tiện nữ được gặp tri âm. Đời này tri âm được mấy người, có phải không Thái-tử? Nào tiểu nữ lại thổi một khúc tiêu, mong nhã lượng quân tử dạy cho.
Phùng Vĩnh Hoa được trời phú cho giọng nói thanh tao. Đến sư phụ, cha mẹ nghe nàng nói mà còn thương, huống hồ đứng trước trận tiền nói với Công-tôn Tư. Câu nào cũng êm đềm văn hoa.
Ngô Hán nghĩ thầm:
- Tại sao đất Lĩnh Nam nhiều nhân tài đến thế nhỉ? Nếu nàng không là người bên mình, mình cũng bị mắc mưu. Có ai ngờ, hiện giờ binh tướng của mình đã kéo đến Võ-đô, đánh úp thành mất rồi. Có ai ngờ thiếu nữ trẻ thế kia mà võ công cao, mưu thần chước thánh như vậy.
Nàng vọt người lên cao, con ngựa của nàng phi như bay trước trận. Nàng đứng trên lưng ngựa, cầm ống tiêu thổi bài Động Đình dạ khúc. Nghe thổi tiêu, thì tướng sĩ hai bên cũng từng nghe qua. Đây là nàng đứng trên lưng ngựa, ngựa phi như bay, nàng vẫn giữ được nguồn âm thanh liên miên bất tuyệt là điều không ai tưởng tượng nổi.
Nguồn gốc của phái Sài-sơn bắt đầu từ Phù-đổng Thiên-vương, nghệ thuật cỡi ngựa thần sầu quỉ khốc. Có điều Vĩnh Hoa hợp nghệ thuật cỡi ngựa với âm nhạc được. Ngựa cứ phi bụi mù, tiếng sáo vẫn véo von, khi lên cao vút từng mây, khi nỉ non như tiếng sóng Động-đình. Y phục màu trắng, dây lưng khăn hồng bay phất phới trước gió, tiếng tiêu bay bổng trên không gian. Khúc tiêu hết, quân sĩ hai bên vỗ tay vang dội.
Phùng Vĩnh Hoa vọt người lên cao, đáp xuống, ngồi ngang trên lưng ngựa, chắp tay hướng Công-tôn Tư:
- Xin Thái-tử dạy cho ít lời.
Công-tôn Tư thở dài:
- Tôi thua cô nương cuộc này. Còn cuộc thứ ba, xin cô nương tiếp cho.
Phùng Vĩnh Hoa phi ngựa tới trước trận:
- Tôi xin Thái-tử vừa tấu nhạc, vừa dạy cho mấy thế võ.
Nói rồi nàng cầm ống tiêu đâm liền. Y vội rút kiếm đỡ. Thì Vĩnh Hoa đã thu chiêu trở về. Tiếng gió lọt vào ống tiêu kêu lên những tiếng vi vu. Thế là Vĩnh Hoa dùng tiêu đấu với kiếm của Công-tôn Tư, nhưng tiếng tiêu vẫn phát ra bài Động Đình dã ca nghe rất êm tai. Nếu người nào nhắm mắt tưởng nàng tấu nhạc, có ngờ đâu đó là những chiêu kiếm phổ vào tiêu đầy sát thủ. Đánh được gần trăm hiệp, bài Động Đình dã ca dứt, nàng lui lại:
- Xin thái tử dạy cho ít lời.
Công-tôn Tư nhìn nàng phiêu hốt như có như không, phất phơ trước gió giải lụa trên cổ màu hồng trông như tiên nữ. Y ngất ngây đáp:
- Trong ba cuộc đấu, tôi thua cô nương hai cuộc. Vậy ngoài những điều tôi đã hứa, cô nương muốn thế nào tôi cũng xin chiều lòng tri âm.
Vĩnh Hoa mỉm cười:
- Mai này, Thái-tử với tôi lên đồi Định-cường, chúng mình đánh cờ, gảy đàn, thổi tiêu, uống rượu tiêu dao ngày tháng, chẳng hơn dùng gươm dao giết nhau ư?
Công-tôn Tư trấn nhậm phía Bắc Ích Châu chống với Hán, mục đích của y là trấn thủ chứ không có tham vọng chiếm Trung-nguyên. Y phải xuất thành vì quân Hán tấn công, chứ y không ham chiến. Bây giờ Vĩnh Hoa thắng, lại đề nghị bãi chiến, tấu nhạc, đánh cờ, là điều y cầu mà không được.
Công-tôn Tư ngây người đáp:
- Tôi sẽ hầu tiếp cô nương, tôi mời cô nương ngắm thắng cảnh Định-cường.
Vĩnh Hoa tiếp:
- Đây gần Dương-bình quan hơn, Thái-tử là chủ, tôi là khách, nhất thiết rượu, hoa quả do Thái-tử đem tới. Giờ Mùi ngày mai chúng ta gặp nhau.
Nàng vái dài một vái rồi phi ngựa về trận. Ngô Hán cho lui quân. Y không hiểu kế của Vĩnh Hoa hỏi:
- Mai là ngày chúng ta đánh Võ Đô, cô nương làm sao đánh cờ, tấu nhạc với Công-tôn Tư được?
Vĩnh Hoa ghé tai Ngô Hán nói nhỏ mấy câu, Ngô Hán gật đầu nói:
- Đêm nay quân sư Tào Mạnh cùng Công-tôn Tư nghĩ nát đầu cũng không ra chủ ý của cô nương. Có điều, chúng ta chuyển quân, sợ Tế-tác của giặc khám phá ra nguy hiểm vô cùng.
Phùng Vĩnh Hoa cười:
- Khi rời Phiên-ngung về đây, tôi có giới thiệu với Tướng quân một lão tướng của chúng tôi tên Vi Đại Khê. Vị lão tướng chỉ huy 100 chó Ngao. Tôi đã bí mật cho chó Ngao phục trong các hẻm núi, dọc đường đến Võ-đô. Nếu Tế tác giặc ẩn núp, sẽ bị phát hiện, giết chết liền.
Bỗng Hổ-nha đại tướng Cáp Diên bước vào thưa:
- Trình Nguyên-soái và quân sư, Ngao-sơn Vi Đại Khê bắt được 37 tên Tế Tác, xin Nguyên-soái định liệu.
Vĩnh Hoa cười:
- Giam chúng lại, cho ăn uống tử tế, giờ Mùi ngày mai thả chúng ra.
Nàng nói với Ngô Hán:
- Ngày mai, giờ Mùi tôi hội với Công-tôn Tư, bấy giờ thả chúng ra, chúng có về báo cáo thì đã trễ.
Vĩnh Hoa cùng Khất đại-phu đợi trời tối, âm thầm sai 2000 quân, nay 300 cỗ xe bí mật lên đường. Mỗi cỗ xe chở hai Hổ hoặc hai Báo. Trời vừa sáng thì vượt sông Hán-thủy. Phùng Vĩnh Hoa chỉ phía tòa thành xa xa nói:
- Kia là Võ-đô, chúng ta phải lấy thành trước giờ Ngọ.
Nàng cho gọi Tây-vu tam hổ tướng, tam báo tướng tới họp. Hồ Đề phong chúng là đại tướng quân cho oai, chứ thực sự chúng đều là những thiếu niên, tuổi chưa tới 18. Song chúng chỉ huy, huấn luyện Hổ, Báo đã lâu. Bọn Hổ, Báo nghe tiếng tù-và, tiếng hú hoặc điệu phất cờ mà tiến, thoái, bao vây, tấn công địch như một đạo quân tinh nhuệ.
Vĩnh Hoa ra lệnh cho Hắc Hổ:
- Sư đệ phục đội Hổ binh ở đây. Đợi lệnh tôi thì xua hổ tấn công vào thành. Sư-đệ định tấn công cách nào?
Hắc Hổ nói:
- Em chỉ huy bằng cờ. Em chỉ huy đội Hắc-hổ làm trừ bị phía sau. Còn Hoàng chỉ huy bằng tù và, Bạch thì chỉ huy bằng thanh la. Chúng em liên lạc với nhau bằng cờ. Như vậy, Hoàng, Bạch chia hổ thành 10 đội, mỗi đội 10 con dàn làm hai hàng. Khi xung phong vào đội hình địch, mỗi đội 10 con dàn làm hai hàng. Khi xung phong vào đội hình địch, thì hàng thứ nhất cắt đứt đội hình địch, rồi chia làm hai quẹo sang phải, trái tấn công. Hàng thứ nhì chọc thẳng vào trung ương. Đội hắc hổ của em tùy nghi tiếp viện, đề phòng địch đánh tập hậu.
Phùng Vĩnh Hoa vỗ vai Hắc Hổ:
- Các em đúng là đại tướng.
Nàng gọi Hắc Báo ra lệnh:
- Sư đệ dẫn đội báo phục kích ở giữa đường từ Lưỡng-hà khẩu về Võ-đô, đợi khi Võ-đô lâm nguy, ắt thủy quân từ Lưỡng-hà khẩu về cứu viện. Thái sư thúc Cao Cảnh Minh lập tức xua quân chiếm khẩu. Sư đệ có bổn phận ngăn không cho địch quân trở về.
Phùng Vĩnh Hoa cùng Khất đại phu leo lên ngọn cây cao nhìn về Võ-đô quan sát trận địa. Trước thành Võ-đô, Chinh-tây tướng quân Phùng Dị, cạnh Quế Hoa. Hoành-giả tướng quân Vương Thường cạnh Quỳnh Hoa. Phía sau quân sĩ dàn thành trận nghiêm chỉnh.
Trên thành Võ-đô phát pháo lệnh, quân sĩ từ hai cửa thành ra ngoài. Rồi cũng dàn thành trận trước quân Hán. Mỗi cửa thành vẫn còn khoảng vài trăm quân thiết kị trấn giữ.
Hai tướng xuất trận bên Thục là Điền Nhung và Nhiệm Đăng, dàn trận xong, Nhiệm Đăng phi ngựa ra trước hỏi:
- Phùng Dị, Vương Thường các ngươi là bại tướng, còn đến đây làm gì? Hãy về đi để khỏi uổng mạng.
Y chỉ tay một cái, đại quân Thục tràn sang như nước vỡ bờ. Võ công Phùng Dị, Vương Thường cao hơn Nhiệm Đăng và Điền Nhung. Hai người đứng đốc chiến cho quân sĩ xung sát.
Đánh được một lát, trong thành Võ-đô nổ ba tiếng pháo, hai đạo quân nữa đổ ra tiếp ứng.
Phùng Dị, Vương Thường cho lệnh đổi tiền quân làm hậu quân, lui binh. Thục binh chia làm hai đuổi theo. Bấy giờ ở Vọng-tử quan, Cao Cảnh Minh đốt pháo lệnh đánh vào hậu quân hai đội Thục binh. Quân Thục thấy quân Hán xuất hiện đánh vào hậu quân thì nao núng, gần như rối loạn. Hai tướng Điền Nhung, Nhiệm Đăng bình tĩnh chia quân ra làm hai cự địch. Một mặt đốt pháo hiệu báo về thành cho biết họ bị lâm nguy.
Quế Hoa vọt ngựa lên phóng chưởng đánh Nhiệm Đăng. Nhiệm Đăng thấy một thiếu nữ trẻ tuổi, không mặc áo giáp trụ, phóng chưởng đánh mình, thì gác vũ khí giơ quyền đỡ. Binh một tiếng, y bật người khỏi ngựa. Cũng may võ công cao, y lộn một vòng đứng xuống đất, tay tê chồn. Y cho rằng vừa rồi mình khinh xuất, y lại vung chưởng đáng một chiêu cực kỳ thần tốc. Quế Hoa hít hơi phát chiêu trong Phục-ngưu thần chưởng, chiêu Lưỡng Ngưu Tranh Phong. Bùng một tiếng nữa, lần này nàng mới thấy ê tay, phải lui lại một bước. Bên kia Nhiệm Đăng cũng lùi hai bước. Hai người lại đấu với nhau, chiêu nọ kế tiếp chiêu kia, uy lực gấp bội. Chỉ 20 hiệp, Nhiệm Đăng đã luống cuống tay chân, bị nàng đá trúng sườn. Y vọt lên cao bỏ chạy vào trận, thế là trận thế y rối loạn, bị vây hai đầu.
Phía bên kia Quỳnh Hoa đánh với Điền Nhung. Điền Nhung thấy nữ tướng thì biết rằng phải là người có tài mới dám ra trận. Y cẩn thận vận đủ mười thành công lực đánh ra. Bùng một tiếng, Quỳnh Hoa cảm thấy cánh tay tê dại. Nàng biết gặp kình địch, vội dùng Phục-ngưu thần chưởng chống lại. Nhưng dầu sao nàng cũng chỉ là một thiếu nữ 19-20 tuổi, công lực chưa làm bao, mà Điền Nhung thì lớn tuổi hơn Nhiệm Đăng nhiều, công lực của y mạnh không thể tưởng tượng được. Đấu với nhau được 12 chưởng, Quỳnh Hoa đã thấy mắt hoa đầu váng. Tuy nhiên vì tự hào Gái Việt đất Lĩnh Nam lại là cháu Khất đại phu, nàng quyết dù chết cũng không lùi lại một bước. Điền Nhung thấy vậy khen cho cô gái nhỏ tuổi mà can đảm.
Y hít một hơi đầy, rồi vận khí phóng ra một chưởng mong kết liễu tính mệnh Quế Hoa, nàng quyết không lùi. Đầu óc hoang mang, nàng hít hơi phát bừa một chưởng. Chưởng đó là chiêu Kình Ngư Xuyên Dương trong Thiết-kình phi chưởng của phái Cửu Chân, mà Đào Kỳ đã dạy nàng. Hai chưởng chạm nhau, Điền Nhung bật lui trở lại đến ba bước. Quỳnh Hoa ngạc nhiên đến ngẩn người ra. Nàng phát chiêu Thiết-kình phi chưởng nữa đánh tới. Điền Nhung vận đủ mười thành công lực đỡ. Bùng một tiếng nữa, người y bắn về phía sau, loạng choạng muốn ngã, y oẹ một tiếng, thổ ra búng máu tươi.
Điền Nhung cảm thấy trong hai chiêu cuối cùng của Quỳnh Hoa tuy bao hàm phong lôi vũ bão thực, nhưng kém mãnh liệt tinh diệu hơn các chiêu trước nhiều, mà lại thắng. Y còn thấy rõ hai chiêu sau khắc chế với võ công của y.
Quỳnh Hoa tuyệt không ngờ Thiết-kình phi chưởng lại có uy lực hơn Phục-ngưu thần chưởng. Nàng nghĩ:
- Ông ngoại dậy rằng, Phục-ngưu thần chưởng là chưởng lực mạnh nhất Lĩnh Nam. Thế sao lại không bằng Thiết-kình phi chưởng?
Sự thực nếu dùng Thiết-kình phi chưởng đấu với Phục-ngưu thần chưởng chắc chắn sẽ bị thua. Bởi vì Phục-ngưu thần chưởng do Sơn Tinh chế ra, rất tinh diệu với võ công Lĩnh Nam. Còn Thiết-kình phi chưởng do Vũ Bảo Trung chế ra, trong nguyên tắc khắc chế võ công của tướng Tần, tức khắc võ công Trung-nguyên. Quỳnh Hoa dùng nó đánh Điền Nhung, y bị bại ngay.
Điền Nhung hỏi Quỳnh Hoa:
- Cô bé kia! Ngươi tên họ là gì? Ta xem dường như võ công của ngươi không thuộc bất cứ môn phái nào ở Trung-nguyên, vậy sư phụ ngươi là ai?
Quỳnh Hoa được Vĩnh Hoa dặn phải lễ độ, nhu nhã, nàng nghiêng mình thi lễ:.
- Tiểu nữ họ Trần tên Quỳnh Hoa, gái Việt đất Lĩnh Nam. Tiểu nữ không có sư phụ. Tiểu nữ thụ nghiệp với ngoại tổ. Ngoại tổ họ Trần húy là Đại Sinh, thường được đời tôn là Thánh y Khất đại phu. Tướng-quân! Người rút quân đi thôi. Tiểu nữ với người vì quốc sự mà phái đối chiêu. Tiểu nữ làm người bị thương, trong lòng rất áy náy. Thôi người đi đi, tiểu nữ không đuổi theo đâu.
Điền Nhung thấy một thiếu nữ xinh đẹp, không mặc giáp trụ, xuất trận đã lấy làm lạ. Nàng dùng chưởng lực thắng mình là hai điều lạ. Thắng mình rồi, nàng còn nói năng nhu nhã, tỏ ý hối hận làm mình bị thương, càng ngạc nhiên và cảm động. Y thấy phía Đông có quân vây, mà ở nay có đồn Lâm-giang. Y cho quân chạy về phía đó. Y chạy được một quãng thì gặp Nhiệm Đăng. Nhiệm kể chuyện bị một thiếu nữ khác là Trần Quế Hoa đánh bại. Hai người cho quân lên đồi Lâm-giang đồn trú, chờ quân trong thành cứu viện.
Vĩnh Hoa thấy thành mở cửa, rồi một đội kị binh xuất thành, đánh về phía hậu quân của Phùng Dị, Vương Thường biết Nhiệm Mãng xuất binh cứu viện, thành bỏ trống. Nàng cười với Khất đại phu:
- Thái sư thúc, Nhiệm Mãng bị trúng kế cháu rồi. Chúng ta chiếm thành đi thôi.
Nàng rút tù và ra thổi một hồi, lệnh cho Hắc Hổ. Hắc hổ hú lên một tiếng dài, mười hổ tướng đồng hú lên, các đội hổ binh gầm gừ hướng Võ-đô lao tới. Tại bốn cửa thành Võ-đô, đều có thiết kỵ gác phía ngoài. Bỗng những tiếng gầm gừ, rồi một đoàn cọp vàng, trắng, đen, vằn bốn mầu khác nhau tấn công vào bốn cửa thành. Binh Thục là những võ sĩ can đảm, dùng vũ khí chống lại. Nhưng ngựa của chúng thấy cọp sợ quá lăn kềnh ra, bỏ chạy mất. Đàn cọp tràn vào bốn cửa thành. Vĩnh Hoa cùng Khất đại phu vào thành, hạ cờ Thục xuống, treo cờ Hán lên, sai đốt cỏ báo hiệu cho Quỳnh Hoa, Quế Hoa biết rằng đã chiếm được thành.
Điền Nhung, Nhiệm Đăng bị vây ở chân núi Lâm-giang, được tín hiệu báo rằng sư phụ Nhiệm Mãng từ trong thành đem thiết kị ra cứu ứng. Hai tướng dẫn quân quay lại đánh. Phùng Dị, Vương Thường vội dàn quân rút lên núi lập thế cố thủ. Nhiệm Mãng và hai đệ tử gặp nhau. Nhiệm Đăng hỏi:
- Sư phụ! Không biết ở Lĩnh Nam có phái võ nào khắc chế với võ công phái Thiên-sơn không? Hôm nay bọn sư huynh đệ chúng con gặp hai thiếu nữ rất trẻ, xinh đẹp đánh bị thương.
Nhiệm Mãng chau mày bắt Nhiệm Đăng thuật lại những chiêu thức đã đấu. Nhìn đệ tử diễn lại, mắt ông lộ ra những tia khủng khiếp, ông nói không ra lời. Nhiệm Đăng theo học với Nhiệm Mãng từ lâu, y biết sư phụ mình là đệ tử cao nhân đương thời, không ai địch nổi quá hai chưởng của ông, thế mà không hiểu sao nghe thấy hai cô gái xuất hiện, mắt lại lo sợ như vậy.
Nhiệm Mãng thở dài:
- Điều mà sư phụ lo nghĩ bấy lâu, nay đã thành sự thật. Để sư phụ kể cho con nghe. Nguyên hai trăm năm trước đây, đất Lĩnh Nam được cai trị bởi một vị vua gọi là An Dương Vương. Tên nước là Thục. Bấy giờ Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, muốn mang quân đánh Lĩnh Nam. Triều Thần can gián không nên, vì đường đất xa xôi, lam sơn chướng khí, nhân vật Lĩnh Nam không phải tầm thường.
Tần Thủy Hoàng không tin, muốn dò thám nhân vật Lĩnh Nam, mới cho sứ đòi vua An Dương Vương cống mấy võ sĩ. Vua An Dương gửi sang một võ sư cùng với đoàn đệ tử. Võ sư này tên là Lý Thân. Thầy trò Lý Thân dùng võ công đấu với võ sĩ Tần trước sân rồng, thắng hết tất cả võ quan, vệ sĩ. Tần Thủy Hoàng phong cho Lý Thân là Tư-lệ hiệu-úy mang quân đánh Hung-nô. Lý Thân đến đâu là Hung-nô bỏ chạy. Hung-nô yên, Tần Thủy Hoàng phong Lý Thân tước Vạn-tín hầu, cho về quê Lĩnh Nam thăm nhà. Mấy năm sau Hung-nô lại sang đánh, tướng Tần không sao địch nổi. Tần Thủy Hoàng lại cho người sang triệu Lý Thân. Nhưng Lý Thân đã qua đời. Tần Thủy Hoàng sai làm một tượng giống hệt Lý Thân, để trên cổng thành Hàm-dương. Trong bụng có đủ máy móc, binh lính vào trong đó giật dây, thì tượng cử động như người sống. Quân Hung-nô tưởng Lý Thân còn sống, không dám sang đánh nữa.
Tần Thủy Hoàng tưởng Lý Thân chết rồi, sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân sang đánh An Dương Vương, tin rằng chiếm được nước Thục dễ dàng. Nào ngờ thất bại. Y quên mất một điều, mỗi khi đấu với một võ sư Trung-nguyên, Lý Thân thường giả vờ chống đỡ, dò biết hết chiêu thức. Lộ số võ công của địch, rồi đem về nghiên cứu ra cách khắc chế. Hôm sau y chỉ phản công mấy chiêu là thắng được. Khi về nước, y tập trung hết tất cả võ công Trung-nguyên tìm ra nguyên lý, ưu điểm, khuyết điểm, rồi chế ra một thứ nội công, quyền, cước, kiếm, trượng phá võ công chúng ta.
Nhiệm Đăng hiểu ra:
- Khi chúng ta giao đấu với địch thủ, phải cố gắng tìm ra những sơ hở của đối phương, rồi mới tìm chiêu thức của mình khắc chết được mà phản công. Còn hậu duệ của Lý Thân đấu với chúng ta, chỉ cần đánh bừa đi, từ chiêu số đến nội công, đều đã bao hàm khắc tinh với chúng ta. Thế thì hồi ấy chắc Đồ Thư bị bại!
Nhiệm Mãng thở dài:
- Bại thì còn khá. Dân số Lĩnh Nam hồi đó bất quá vài triệu người, quân lính bất quá trăm ngàn, thế mà Đồ Thư mang tới 500 ngàn quân sang đánh, toàn quân bị diệt, y bỏ xác tại Lĩnh Nam. Từ đó võ lâm Trung-nguyên khi đụng chạm với võ lâm Lĩnh Nam thường bị bại dễ dàng. Hai thiếu nữ mà các ngươi gặp, tuổi bất quá 19-20, thời gian luyện tập chưa lâu, mà đã như vậy. Nếu sư phụ y xuất hiện, ta e rằng đến sư huynh ta là Triệu Khuôn cũng lạc bại.
Nhiệm Đăng nhớ ra điều gì:
- Con nghe nói rằng Hán Quang Vũ bị ta đánh thua, y cho gọi người em kết nghĩa trấn thủ Lĩnh Nam là Nghiêm Sơn về, giao cho toàn quyền điều động binh mã đánh Ích-châu. Nghiêm Sơn lấy vợ Việt, khéo thu phục võ lâm nhân sĩ Lĩnh nam, họ theo giúp rất đông. Hai cô gái hôm nay chắc thuộc đám người đó.
Nhiệm Mãng chỉ lên núi:
- Bây giờ quân của ta đông hơn, địch ở trên núi. Chỉ cần vây nửa buổi là chúng chết khát. Ta cần đấu chưởng với hai cô gái Việt, để biết rõ nội công, chiêu số chúng như thế nào.
Bỗng binh sĩ la hét náo loạn. Nhiệm Mãng hỏi sao, họ chỉ về phía trước: Khói trong thành Võ-đô bốc lên mịt mù.
Nhiệm Mãng kinh hoàng:
- Chúng ta không cần vây bọn này nữa. Hãy trở về Võ-đô xem sao đã.
Nhiệm Mãng cùng Điền Nhung dẫn quân trở về. Đi một lát gặp một đám tàn quân chạy tới. Chúng quỳ rạp xuống đường mà khóc:
- Không biết cọp ở đâu nhiều quá, đến mấy trăm con tràn vào thành với quân Hán. Thành đã bị chiếm mất rồi. Tất cả vợ con, thân thuộc chúng tôi bị hãm trong tay giặc, không chừng bị cọp ăn thịt hết cũng nên. Xin tướng quân kíp trở lại chiếm thành.
Nhiệm Mãng lòng nóng như lửa đốt:
- Các ngươi đã đốt lửa gọi quân ở Lưỡng-hà khẩu về chưa?
- Thưa có, thủy quân Lưỡng-hà khẩu về đến giữa đường bị một đạo Hán quân khác chiếm Lưỡng-hà khẩu. Bao nhiêu chiến thuyền bị địch bắt hết. Thủy quân quay trở lại thì bị một đội báo mấy trăm con tấn công. Binh lính bị báo cắn chết quá nửa, số còn lại bị bắt.
Nhiệm Mãng thúc quân đi cho mau, nhưng phía hậu quân của Nhiệm Đăng náo loạn lên. Nguyên Phùng Dị, Vương Thường thấy quân Thục từ thành đổ ra đánh vào sau mình, theo kế Vĩnh Hoa, chạy lên núi lập trận. Được một lát thấy khói bốc lên tại Võ-đô. Hai tướng biết quân Hán đã vào Võ-đô. Tiếp theo thấy binh Thục chia làm hai, một cản hậu, một hối hả trở về, biết rằng chúng đang náo loạn. Hai tướng cho quân đuổi theo rất gấp.
Dẫn đầu binh Hán là Quỳnh Hoa, Quế Hoa khiến Nhiệm Đăng càng uất lên. Cạnh hai nàng còn Phùng Dị, Vương Thường võ công cao ngang với sư phụ y. Nhiệm Đăng là tướng tài bên Thục, can đảm có thừa, y thúc quân cương quyết chặn hậu. Cho nên Phùng Dị, Vương Thường tả xung hữu đột cũng không chọc thủng được tuyến quân Thục.
Nhiệm Mãng là Phiêu-kị đại tướng quân của Thục, võ công, trí dũng tuyệt vời, y không tỏ vẻ nao núng, hạ lệnh cho binh sĩ lùi về Vọng-tử quan, đóng quân ven núi.
Vĩnh Hoa truyền lệnh thu quân. Các tướng Hán vào thành. Bấy giờ họ mới phục Phùng Vĩnh Hoa, lạy rạp xuống đất mà chúc tụng.
Chu Á Dũng đứng lên hiến kế:
- Giặc mất thành, lương thực không có, muốn vượt sông thì không có thuyền bè. Đóng ở Vọng-tử quan thì lương thảo không có. Xin quân sư cho đánh một trận để bắt Nhiệm Mãng.
Phùng Vĩnh Hoa cười:
- Chu tướng quân ước tính tình hình như vậy cũng tạm gọi là có mưu lược. Nhưng không phải là kế tốt nhất. Tướng quân thử nghĩ coi, Nhiệm Mãng là Phiêu-kị đại tướng quân Thục, trấn nhậm Võ-đô với một vạn thủy quân, một vạn kị binh, ba vạn bộ binh. Thế mà bị ta đánh một trận thành mất, cửa ngõ vào Thành-đô bị mở. Thủy quân bị giết hơn ba ngàn, còn lại đầu hàng. Chiến thuyền, khí giới mất hết. Ba vạn bộ binh hao mất một. Một vạn kị binh mất trên năm ngàn. Bây giờ chỉ còn hai vạn bộ binh với năm nghìn kị binh đóng ở Vọng-tử quan, lương thực không có. Không biết chiều nay sẽ lấy gì ăn. Bất cứ giá nào y cũng phải liều một trận tìm đường thoát thân. Trong các đường thoát thân, chắc chắn y sẽ rút về phía Bích-khẩu, vượt sông Dương-bình quan. Vậy ta phục quân ở đó chắc chắn bắt được y.
Các tướng hớn hở, muốn đi đánh liền. Vĩnh Hoa nói:
- Giặc cùng chớ đuổi. Bây giờ tôi phải làm cho Nhiệm Mãng mất tinh thần đã, sau mới làm tan quân của y được. Vậy Chinh-tây Phùng tướng quân thủ ở Lưỡng-hà khẩu thay cho sư bá Cao Cảnh Minh. Tại đây có một vạn bộ binh Hán và hơn năm ngàn hàng binh thủy quân Thục. Phùng tướng quân cho chiến thuyền tuần tiễu dọc từ Lưỡng-hà khẩu tới Lâm-giang, ngăn đường giặc qua sông. Tuyệt đối không được lên bờ giao chiến.
Phùng Dị lên đường liền. Vĩnh Hoa tiếp:
- Hoành-giả Vương tướng quân lĩnh một vạn quân bộ, năm ngàn quân kị ra đóng ở đồn Lâm-giang, không cho giặc trở về Dương-bình quan. Tuyệt đối không rời khỏi trại.
Vương Thường lãnh lệnh lên đường. Vĩnh Hoa tiếp:
- Trung-lang tướng Lai Háp trấn thủ Võ-đô, giữ vững thành. Tôi để lại cho một vạn quân, như vậy đủ không?
Lai Háp gật đầu:
- Nếu trong một tháng tôi giữ được. Quá một tháng thì không nổi.
Vĩnh Hoa gật đầu:
- Tôi chỉ cần một ngày thôi.
Nàng tiếp:
- Tiền-quân hiệu-úy Chu Á Dũng dẫn một vạn quân bộ, phục ở phía Nam sông Hán-thủy. Thấy Nhiệm Mãng đến đó thì đổ ra đánh ngay trước mặt, không cho chúng về Dương-bình quan. Xin Cao Cảnh Minh sư bá đi cùng với Chu tướng quân. Vì e Nhiệm Mãng xuất hiện, Chu tướng quân không phải địch thủ của y.
Nàng đứng lên nói với Khất đại-phu:
- Thái sư thúc cùng Quế Hoa, Quỳnh Hoa và cháu đi bắt Nhiệm Mãng.
Nàng gọi Hắc Hổ và Hắc Báo tướng lại dặn nhỏ mấy câu. Hai người vâng dạ, gật đầu đi liền.
Vĩnh Hoa cùng Khất đại-phu đi thẳng đến Vọng-tử quan. Binh Thục đang trên đường đến Hán-thủy. Nhiệm Mãng đi đầu, thấy Vĩnh Hoa chỉ có bốn người với mười quân kị, y cho quân dừng lại. Điền Nhung chỉ Quế Hoa, Quỳnh Hoa cho Nhiệm Mãng biết.
Quế Hoa, Quỳnh Hoa phi ngựa lên trước. Quỳnh Hoa nghiêng mình thi lễ:
- Tiểu nữ là Trần Quỳnh Hoa, gái Việt đất Lĩnh Nam xin vấn an Phiêu-kị đại tướng quân, Kiến-oai đại tướng quân, Xa-kị đại tướng quân. Hôm nay ra trận, vì việc nước chúng tôi phải qua lại mấy chiêu với các vị, thực rất lấy làm áy náy. Tuy được các vị nhẹ tay cho, tôi thấy các vị có khí phách anh hùng, vì vậy đến đây tạ lỗi.