Hồi 10b
Tướng sĩ hai bên cùng kinh khủng đến đờ người ra.
Bất thình lình Khất đại-phu vung chưởng hướng hai người. Hai người vận khí chống lại, nhưng chưởng của họ mất tăm mất tích, một luồng kình lực nhu hòa bật tung hai người lên bay về phía trận Thục. Tướng sĩ đều la hoảng. Nhưng hai người lại rơi trúng lưng hai con ngựa của họ, tựa như họ nhảy lên cỡi vậy.
Khất đại-phu mỉm cười:
- Hậu duệ của Thiên-sơn lão tiên thật lắm người tài.
Ông khen như khen con cháu vậy.
Thình lình từ trận Thục, một viên đá to bằng cái thúng vọt lên cao bay đến chỗ Khất đại phu, tiếng gió rít vo vo. Tướng sĩ hai bên ngẩn người ra, vì không biết ai đã dùng thủ pháp gì mà bắt được viên đá vừa to vừa nặng, bay nhanh không thể tưởng như thế.
Khất đại-phu xuống đinh tấn, tay ông phát chiêu về phía trước, viên đá gặp kình lực của ông liền đổi chiều bay tạt sang bên, trúng vào thân cây. Thân cây gập làm đôi đổ xuống.
Ba viên đá từ giữa trận Thục bay ra, nối đuôi nhau gió rít lên vèo vèo. Khất đại-phu phát lên một tiếng phát chưởng đẩy ra. Viên đá đầu tiên đổi chiều bay lên không, viên đá thứ nhì tạt sang phải, viên đá thứ ba tạt sang trái. Trong khi đó viên đá từ trên cao rơi xuống, Khất đại-phu xỉa một cái, viên đá vỡ làm đôi, bay theo trúng hai viên đá kia. Bốn viên đá vỡ tan tành thành bụi bay mù mịt.
Khất đại-phu cười lớn:
- Thiên-sơn lão hữu, hơn mười năm không gặp nhau, không ngờ võ công ngươi cao đến như vậy.
Trong trận Thục một tên lính rẽ đồng đội tiến ra giữa trận, tên này giơ tay tháo nón gỡ khăn che mặt, hiện ra một ông già râu tóc trắng như cước, mặt hồng hào như một trái táo chín. Lão già đến nắm tay Khất đại-phu, cả hai cười hô hố, coi binh tướng hai bên như không có.
Thiên-sơn lão tiên rút trong bọc ra một hộp lớn đưa cho Khất đại-phu nói:
- Này Trần huynh, từ khi chúng ta biết nhau đến giờ, đệ vẫn hàng ngày sai đệ tử lên núi Thiên-sơn kiếm Tuyết-sâm và Hà-thủ-ô nghìn năm định gửi sang Lĩnh-nam cho huynh làm thuốc cứu người. Hôm nay gặp huynh ở đây, đệ xin dâng tận tay.
Khất đại-phu cũng lấy trong bọc ra một gói lớn đưa cho Thiên-sơn lão tiên:
- Thiên-sơn lão huynh, huynh thường nói rằng, núi Thiên-sơn tuyết xuống quanh năm, nếu có mật gấu hay cao hổ-cốt Lĩnh-nam uống vào thì luyện nội công mới tốt. Đệ đã cất được mấy cân. Hôm đi cùng đồ tử đồ tôn qua đây đệ mang theo. Xin dâng sư huynh.
Hai cao thủ già, một từ Thiên-sơn đến, một từ Lĩnh-Nam qua. Phơi phới như tiên ông, ôm nhau cười nói giữa lúc hai bên hàng trăm nghìn người đang chuẩn bị chém giết.
Đằng sau Thiên-sơn lão tiên có Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng, Công-tôn Tư khoanh tay đứng hầu. Đằng sau Khất đại-phu có Phùng Vĩnh-Hoa, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa. Hai ông già kéo nhau lại ngồi trên thân cây bị Khất đại-phu đánh gãy, cầm tay nhau nói chuyện. Họ kể cho nhau nghe về những thú vui hằng ngày, ngắm mây trời, nghe suối chảy. Thiên-sơn lão tiên lấy ra bình rượu mời Khất đại-phu uống. Hai người uống rượu say sưa nói chuyện, làm tướng sĩ hai bên dở khóc dở mếu. Xông vào đánh nhau cũng không được, mà rút cũng không xong.
Quế-Hoa bưng ra một cái điếu thuốc lào. Điếu làm bằng sứ trên vẽ hình hai ông lão ngồi đánh cờ mặt giống hệt Thiên-sơn lão tiên và Khất đại-phu. Cần là một cây trúc xanh mướt, chạm trổ cảnh núi rừng, nét vẽ thật tinh vi sắc sảo. Khất đại-phu đặt điếu trước mặt Thiên-sơn lão tiên, lấy nắm thuốc cho vào điếu. Quế-Hoa đánh lửa lên, hai tay dâng cho Thiên-sơn lão tiên.
Ông cười:
- Lần trước gặp nhau huynh đã cho đệ cái điếu ống, lần này lại cho cái điếu bát. Giữa cảnh tuyết phủ núi Thiên-sơn mà hút thuốc lào Lĩnh-Nam thì tuyệt.
Ông kéo cần để lên miệng hít một hơi. Tiếng nước trong điếu kêu lách cách vang dội một vùng. Ông ngừng lại ngửa mặt lên trời, mắt lim dim để thưởng thức mùi vị thuốc, rồi phu khói lên không. Khói thuốc gặp lạnh kết thành làn hơi trắng tan dần vào không gian.
Hai lão tiên ngồi hút thuốc, đàm luận thánh nhân.
Thiên-sơn lão tiên chỉ Công-tôn Tư:
- Đây là đồ tôn của đệ. Hôm trước y cùng Phùng cô nương dạo đàn tấu nhạc, tiếc rằng chúng nó ở xa nhau quá, nếu không thì chúng ta kết hợp cho chúng thành vợ chồng, rồi đem lên đỉnh Thiên-sơn để chúng hưởng cảnh thần tiên của tạo hóa.
Công-tôn Tư sợ đến không thở được. Vì chàng kiểm soát binh mã rất ngặt, thế mà Thái sư-thúc tổ lẻn vào trong quân bấy lâu nay mà mình không hay.
Khất đại-phu quay lại bảo Công-tôn Tư và Vĩnh-Hoa:
- Hai cháu cho rút quân. Hãy nể mặt hai lão già này ngừng tiến quân, đợi sau Tết hãy đánh nhau.
Phùng Vĩnh-Hoa dạ một tiếng trở về trận. Nghiêm Sơn tuy là chúa tướng, nhưng địa vị chàng trong võ lâm so với hai ông tiên này quá thấp. Bây giờ chàng muốn tiến quân, đám anh hùng Lĩnh-Nam sẽ mích lòng. Còn đóng quân như lời của hai ông, thực không còn ra thể thống gì. Vĩnh-Hoa nói:
- Nghiêm đại-ca! Đất Lĩnh-Nam mình coi Khất đại-pu như là một tiên ông, một Thái sư-phụ. Nghiêm đại-ca hãy nể lời người mà lui binh về, đợi sau Tết hãy tiến đánh.
Nghiêm Sơn đành ra lệnh rút binh về ải Kiếm-các.
Trở về ải Kiếm-các, Nghiêm Sơn cho họp đám anh hùng Lĩnh-Nam và tướng sĩ bàn định kế hoạch.
Ngoài trời mưa tuyết lất phất, hai tiên ông vẫn ngồi uống rượu nói chuyện, cạnh có Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng đứng hầu. Trời tối hồi nào rồi mà hai ông không hay. Quế-Hoa công lực yếu nhất, chịu lạnh yếu, nàng phát run nói với Khất đại-phu:
- Ông ngoại ơi, lạnh quá cháu chịu không nổi rồi.
Thiên-sơn lão tiên chỉa ngón tay trỏ hướng vào trán nàng, điểm đến vèo một tiếng, Quế-Hoa cảm thấy một luồng nhiệt khí nhu hòa chuyển khắp cơ thể, làm người nàng nóng ran lên.
Khất đại-phu nói với Thiên-sơn lão tiên:
- Sư huynh bây giờ chúng ta về đâu?
Thiên-sơn lão tiên nói:
- Đây gần Thiên-sơn, vậy tiểu đệ là chủ, vậy mời Trần huynh ghé vào thành Cẩm-dương, chúng ta uống rượu, nói chuyện.
Hai người đứng lên rảo bước về Cẩm-dương. Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, Triệu Khuôn, Nhiệm Mãng líu ríu theo sau. Vào trong thành quân sĩ đã dàn ra uy nghi đón hai ông. Hai ông vẫn cười nói coi như không có gì. Một người dáng điệu uy mãnh, tiến ra khom lưng hành lễ:
- Đệ tử Công-tôn Thuật, xin tham kiến nhị vị Thái sư-phụ.
Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đã gặp ông ở Kiếm-các nên không ngạc nhiên. Khất đại-phu đáp lễ:
- Không dám, ngài đứng đầu Thiên-sơn thất hùng đây phải không? Ngài hiện là đương kim hoàng đế đất Thục sao lại nhẹ thể đối với hai lão nhà quê như vậy.
Công-tôn Thuật chắp tay:
- Đệ tử tuy là vua Thục nhưng vẫn không quên đạo nghĩa võ lâm. Đệ tử cùng các sư đệ lập ra nước Thục, chỉ vì muốn cứu dân Thục thoát khỏi ách tham tàn của vua quan nhà Hán, chứ không hề vì tham quyền cố vị.
Công-tôn Thuật mời hai ông ngồi lên hai cái ghế bọc gấm thực lớn, rồi khoanh tay đứng sau hầu. Cung nga dâng trà nóng, rượu thơm, hoa quả lên.
Thiên-sơn lão tiên hỏi Công-tôn Thuật:
- Các sư đệ của ngươi đâu, gọi ra đây tham kiến Thái sư bá đi.
Công-tôn Thuật vẫy tay, từ sau bức màn gấm, năm người xếp hàng đi ra. Y chỉ vào từng người giới thiệu:
- Đây là Công-tôn Thiệu, vừa là sư đệ, vừa là bào đệ của đệ tử. Y được phong Trường-sa vương trấn thủ Trường-sa. Mới đây bị thất trận mất Kinh-châu. Y trấn thủ Xuyên-khẩu, đánh nhau với Đặng Vũ trên mười chện khiến Đặng Vũ thua phải rút đi. Sau đó Đặng Vũ được anh hùng Lĩnh-Nam trợ giúp, đánh chiếm Xuyên-khẩu, Bạch-đế. Y bị bắt, may nhờ mấy vị tiểu anh hùng Lĩnh-Nam nể tình nghĩa hiệp thả về đây.
Vì trong phòng có nhiều người, Công-tôn Thuật không dám nói người tha Thiệu là Lục Sún, sợ nguy hiểm cho ân nhân.
Công-tôn Thuật chỉ một người nữa:
- Đây là sư đệ của đệ tử tên là Công-tôn Khôi, y cũng là bào đệ của đệ tử. Tước phong Bắc-bình vương, trấn thủ vùng Đông-nam Ích-châu. Mới đây cũng bị anh hùng Lĩnh-Nam bắt sống trên sông Trường-giang, may nhờ một anh hùng Lĩnh-Nam nể tình nghĩa hiệp tha cho.
Việc Lục Sún thả Công-tôn Thiệu thì Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa biết, còn ai thả Công-tôn Khôi thì nàng không hề biết.
Công-tôn Thuật chỉ vào một người nữa giới thiệu:
- Đây là sư đệ Điền Sầm, tước phong Tần-vương lĩnh chức Tư-đồ.
Y chỉ vào một người khác:
- Đây là ngũ đệ tên Tạ Phong lĩnh chứ c Tư-không.
Thiên-sơn lão tiên hỏi:
- Sư phụ ngươi thu một lượt bảy đệ tử, huấn luyện cho văn võ toàn tài. Ngươi đứng đầu, bốn người vừa ra mắt ta đã biết rồi. Người thứ bảy là Lũng-tây vương Triệu Khuôn ta gặp ở giữa trận. Sau này sư phụ ngươi còn thu thêm một người nữa, ngoài Thiên-sơn thất hùng là Nhiệm Mãng ta cũng đã gặp. Vậy người thứ sáu đâu? Y tên gì?
Công-tôn Thuật luống cuống đáp:
- Đệ lục sư đệ tên là Vương Nguyên, cách xa đã lâu, đệ tử không được tin tức gì cả.
Khất đại-phu xen vào:
- Nếu lấy quyền lực của ngài là Hoàng-đế, lão phu không dám can thiệp vào chuyện của ngài. Vì lão phu hiện đang ở bên quân Hán. Nếu lấy võ đạo mà bàn, thì lão phu trên Công-tôn đại-hiệp đến hai bậc. Công-tôn đại hiệp ơi, Thiên-sơn lão tiên đang hưởng nhàn trên tuyệt đỉnh Thiên-sơn, ngắm mây trời, uống tuyết, thưởng trăng, thế mà ngài bỏ thì giờ xuống đây chẳng qua cũng vì Công-tôn đại hiệp mà thôi. Đại hiệp cứ nói thực đi, may ra lão phu gỡ được cái thế cờ tuyệt vọng này của đại hiệp.
Thiên-sơn lục-hiệp và Nhiệm Mãng đồng quì xuống một lượt. Công-tôn Khôi khóc rằng:
- Thái sư-phụ! Xin Thái sư-phụ giết đệ tử đi. Đệ tử phạm tội đã nhiều không thể tha thứ. Sau khi giết đệ tử rồi, xin Thái sư-phụ cứu cho trăm họ Ích-châu, bảo vệ sự sống còn của phái Thiên-sơn.
Thiên-sơn lão tiên hắng rặng hỏi:
- Công-tôn Thiệu ngươi là người thành thực, chí tình, ngươi đem tiền nguyên hậu quả của chuyện Vương Nguyên nói cho ta biết?
Công-tôn Thiệu cúi đầu thuật:
- Khi sư phụ để tử từ trần, người có dặn phải đứng lên đánh đuổi bọn tham quan, cứu trăm họ Ích-châu, Kinh-sở, Lưỡng-xuyên, tạo hạnh phúc cho muôn dân. Bấy giờ là niên hiệu Kiến-thủy nguyên niên (32 trước tây lịch). Vua Thành-Đế chuyên dùng hoạn quan và bọn ngoại thích. Vừa lên ngôi ngài phong cậu là Vương Sung làm hầu tước, giao hết binh quyền cho họ ngoại. Đến niên hiệu Hà-bình thứ nhì nhà vua lại phong cho 8 người cậu họ Vương làm Liệt-hầu 27. Đến niên hiệu Dương-sóc nguyên niên 24, quan Kinh-triệu doãn Vương Chương làm sớ tâu lên vua, nói Đại tư-mã Vương Phùng quá ác. Vua giết chết Vương Chương. Đến niên hiệu Tuy-hòa nguyên niên 8, vua Thành-Đế phong cho Vương Mãng làm Đại tư-mã. Trong thiên hạ ai theo họ Vương thì sống, ai chống thì chết.
Công-tôn Thiệu thở dài:
- Trước đó tất cả bảy sư huynh đệ của đệ tử đều đi thi, đỗ Hiếu-liêm. Nhờ tài kiêm văn võ bọn đệ tử được thăng lên tới Thái-thú, riêng Lục sư-đệ thì phong tới Thứ-sử. Bọn đệ tử nghe lời sư phụ dùï làm Thứ-sử, Thái-thú nhưng vẫn lấy võ đạo trị dân, vì vậy dân chúng tuân phục. Kịp đến khi Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Bọn đệ tử họp các huynh đệ lại, phất cờ nêu cao chính nghĩa, phục hồi Hán triều. Lưu Huyền khởi binh xưng là Cảnh-Thủy hoàng-đế, anh em đệ tử đều qui phục. Ít lâu sau Quang-Vũ dùng gian kế đoạt ngôi của Cảnh-Thủy, các sư đệ bàn với đệ tử phất cờ dựng nghiệp. Riêng Lục sư-đệ trấn thủ vùng Lũng-tây tài trí hơn người được cử làm Thừa-tướng. Sự nghiệp Thiên-sơn đang huy hoàng, thình lình sư đệ Công-tôn Khôi khám phá ra Lục sư-đệ chuẩn bị sĩ tốt giết đại sư huynh lên làm vua. Đại sư huynh sai nhị sư huynh bất thần đến vây bắt Lục sư-đệ. Lục sư đệ trốn mất, chính thê tự tử chết. Đại sư huynh truyền tịch thu tài sản.
Bọn đệ tử đều tin như vậy, sau đại sư-huynh vào nhà ngục thẩm vấn thứ thiếp của Lục sư-đệ, mới biết rằng y thị được Nhị sư huynh đem về làm thứ thiếp rồi. Đại sư huynh thấy bên trong có gì bí ẩn, mở cuộc thẩm vấn rộng rãi, mới biết Nhị sư-huynh vì say mê người thứ thiếp của Lục sư-đệ, buông lời chọc ghẹo. Nàng đem chuyện nói với Lục sư-đệ. Lục sư-đệ giận quá, định dẫn đệ tử đến hỏi tội Nhị sư-huynh. Vì vậy Nhị sư-huynh ra tay trước. Đại sư-huynh xấu hổ, hối hận mang ba con trai của Lục sư-đệ về phủ nuôi nói dối là con đẻ, dạy dỗ cẩn thận. Đứa lớn tên Phúc, tước phong Bình-nam vương. Hai đứa em là Lộc, Thọ, tuy còn nhỏ tuổi đều được phong làm Thứ-sử.
Công-tôn Thiệu thở dài:
- Chuyện tưởng thế là yên. Không ngờ sau đó bọn đệ tử được tin Lục sư-đệ giúp Ngỗi Hiêu phất cờ ở Lũng-hữu, xưng là vua. Lục sư-đệ võ công đã cao, tài dùng binh lại hơn người, vì vậy Quang-Vũ xuất đại binh đánh đều bị thất bại. Khi Ngỗi Hiêu chết, Quang-Vũ đem binh đánh nữa, Lục sư-đệ bị thất bại. Đại sư huynh mới cử người thân nhất với Lục sư-đệ là Thất sư-đệ mang quân cứu Lục sư-đệ. Hai bên họp quân đuổi được Quang-Vũ. Thất sư-đệ kể hết sự tình cho Lục sư-đệ nghe, để sư huynh đệ giảng hòa. Được ít lâu sau con Ngỗi Hiêu là Ngỗi Thuần hàng Hán, Lục sư-đệ chán nản, đem bản bộ quân mã giao cho Thất sư-đệ. Tất cả đất đai còn lại của Ngỗi Thuần đều giao cho Đại sư-huynh quản nhiệm hết. Lục sư-đệ bỏ đi tiêu dao sơn thủy. Còn chuyện về sau, Thất sư-đệ sẽ kể tiếp.
Triệu Khuôn tiếp lời:
- Không ngờ Lục sư-huynh xưng là Vu-sơn cùng với người con gái là Sa-Giang giả làm người hát dạo, tiêu dao sơn thủy. Lục sư-huynh được người đời tặng cho danh hiệu Tiêu-thần, Sa-Giang được tặng danh hiệu Cầm-tiên. Cách đây ít tháng, đạo quân Lĩnh-Nam vượt Kim-sơn đánh Độ-khẩu...
Thiên-sơn lão tiên gật đầu:
- Chuyện này ta biết. Anh hùng Lĩnh-Nam dùng tới 600 con vừa vượn vừa khỉ cho chúng chăng dây, vượt Kim-sơn đánh vào phía sau Ích-châu, ta đứng trên núi thấy hết. Nếu ta ra tay thì họ đã chết hết trên núi tuyết Kim-sơn. Nhưng ta thấy họ là những người anh hùng võ công tuyệt cao, nên ta lờ đi cho họ tiến vào Nam Ích-châu.
Quế-Hoa đứng hầu cạnh Khất đại-phu chợt nhớ ra một điều. Hôm trước nàng mang quà của Nghiêm Sơn, Phương-Dung cho Thiều-Hoa, Đào Kỳ, được Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng kể cho nghe. Khi họ lên đến tuyệt đỉnh tuyết sơn. Thấy có vết chân người để lại trên tuyết và vết đao khắc vào đá mấy câu thơ:
Anh hùng Lĩnh-nam,
Lập chí phục quốc,
Có mắt như mù,
Có tai như điếc,
Giúp kẻ bạo tàn,
Đánh người đồng đạo.
Triệu Anh-Vũ biết người khắc mấy câu thơ trên là đại cao thủ, không muốn giết ông. Song ông không đoán được đại cao thủ đó là ai. Hôm nay Quế-Hoa mới biết là Thiên-sơn lão tiên.
Nàng lên tiếng:
- Lão tiên! Hôm ở đỉnh Kim-sơn may nhờ lão tiên nương tay cho, không thì Triệu sư thúc với đạo Thần-hầu Lĩnh-nam đã bỏ mạng, tan xương nát thịt rồi.
Thiên-sơn lão tiên xoa đầu nàng:
- Trần huynh với ta giống nhau. Chúng ta lớn rồi, không thể ra tay đánh đám con cháu. Ta biết họ vào Thục đánh đồ tử, đồ tôn ta, mà ta cũng không nỡ ra tay. Họ là anh hùng giết đi thực uổng.
Ông nói tiếp:
- Thế rồi Công-tôn Khôi bị anh hùng Lĩnh-Nam bắt trên sông Trường-giang ta cũng biết hết. Đáng lẽ Vương Nguyên đem Công-tôn Khôi ra xẻo thịt tế vợ, nhưng may mắn có một anh thư Lĩnh-Nam tên Trưng Trắc, ban đêm lẻn vào nhà tù thả y ra.
Khất đại-phu, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa đều kêu lên một tiếng ủa đầy vẻ kinh ngạc.
Ông tiếp:
- Hiện Vương Nguyên đang theo đạo Lĩnh-Nam cùng với ba đứa con vào Thành-đô diệt họ Công-tôn trả mối hận năm xưa. Các ngươi sắp sửa bị giết chết ba họ trong sớm tối.
Thiên-sơn ngũ hùng cùng Nhiệm Mãng quỳ gối xuống khóc:
- Thái sư thúc hãy cứu trăm họ Ích-châu. Sáu anh em đệ tử nguyện tự tử để đền tội. Bọn đệ tử đồng lòng tôn Lục sư-đệ lên làm Hoàng-đế.
Khất đại-phu hỏi Thiên-sơn lão tiên:
- Huynh tính sao? Họ cũng đáng thương.
Thiên-sơn lão tiên rót rượu mời Khất đại-phu rồi nói:
- Đệ xuống đây thì đã là câu trả lời cho Trần huynh vậy. Trần huynh ơi, huynh làm thuốc cứu hàng nghìn người, bây giờ xin huynh ban cho phương thuốc cứu trăm họ Ích-châu đi.
Khất đại-phu suy nghĩ một lúc rồi gật đầu:
- Thiên-sơn lão tiên, hai cái thân già chúng mình phải ra tay thôi. Bây giờ đệ phải trở về ngay mới kịp, hẹn dịp khác chúng ta sẽ gặp lại sau.
Ông cùng hai cháu lên đường trở về dinh Hán, đến nơi gần nửa đêm. Phùng Vĩnh-Hoa và các anh hùng Lĩnh-Nam ngồi chờ. Họ thấy ông về thì mừng lắm. Quế-Hoa tường thuật tỉ mỉ cuộc hội kiến trong thành Cẩm-dương cho mọi người nghe.
Phùng Vĩnh-Hoa nói:
- Sáng nay cháu được thư của sư tỷ Trưng Trắc. Sư-tỷ cũng có viết thư cho Trưng Nhị và anh hùng đạo Kinh-châu nói:
Hãy án binh bất động, chờ đến sau Tết mới có quyết định. Sư tỷ còn vào Thành-đô hội với Thiên-sơn thất hùng, quyết định ra sao, sẽ chúng ta biết.
Đoạn này thuật cuộc tiến quân của Anh Hùng Lĩnh Nam và Đào Kỳ
Tại bản doanh anh hùng Lĩnh-Nam, Trưng Trắc cho mời riêng anh hùng Lĩnh-Nam đến họp. Nàng hướng vào Nam-hải nữ hiệp, Hoàng Thiều-Hoa, Đào Kỳ:
- Sư bá, sư muội, sư đệ. Cháu xin tạ lỗi với các vị về vụ cháu tha Công-tôn Khôi. Trước khi sang đây, Đặng đại-ca đã tiếp sứ giả của Công-tôn Thiệu. Sứ giả thuật tất cả mọi việc, xin đại ca thực hành lời hứa chia ba thiên hạ trước đây. Đặng đại ca không dám chủ trương, bí mật mời Đào-hầu, Đinh-hầu ở Cửu-chân, tất cả bảy vị Thái bảo phái Sài-sơn, sư thúc Nguyễn Trát phái Long-biên, sư thúc Cao Cảnh-Sơn phái Hoa-lư để xin ý kiến. Tất cả đều đồng ý với Đặng đại ca và Công-tôn Thiệu. Đại hội cử cháu sang hội ý với anh hùng Lĩnh-Nam bên này. Cháu dũng Thần-ưng đưa thư cho Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa cùng ngưng tiến quân, đợi sau Tết mới có quyết định.
Trưng Trắc hướng về Vương Nguyên:
- Vương tiên sinh, tiên sinh nên về đất Thục làm vua, chúng tôi có thể giúp tiên sinh giữ vững cơ nghiệp phái Thiên-sơn.
Hoàng Thiều-Hoa xen vào hỏi:
- Trưng sư muội, Nghiêm đại ca có biết chuyện này không?
Trưng Trắc lắc đầu:
- Chắc chắn là không.
Thiều-Hoa rưng rưng nước mắt hỏi Đào Kỳ:
- Sư đệ, vậy tất cả anh hùng Lĩnh Nam phản Nghiêm đại ca sao?
Đào Kỳ ôm lấy Thiều-Hoa:
- Sư tỷ! Em thương yêu sư tỷ còn hơn chính bản thân em nữa. Vì vậy chính em đã thuyết phục anh hùng Lĩnh-Nam tùng chinh giúp Nghiêm đại-ca. Bây giờ sự thể như thế này, chúng ta cần tiến quân vào Thành-đô, hội nhau bàn định. Nếu tất cả muốn diệt Thục phò Hán, thì ta đánh Thành-đô. Còn nếu có quyết định khác, chúng ta sẽ tùy cơ định liệu. Em nghĩ chúng ta chỉ phản Hán, chứ đâu có phải phản Nghiêm đại-ca. Anh hùng Lĩnh-Nam đều ghi nhớ ơn đức của Nghiêm đại-ca, muốn tôn người lên làm Hoàng-đế mà.
Đào Kỳ cho tập hợp tướng sĩ ra lệnh:
- Chúng ta là đạo quân đầu tiên tiến vào Thành-đô. Vậy tướng sĩ phải nghiêm cấm quân sĩ không được cướp của dân, không được phạm đến tù binh, hàng binh, không được đốt phá cung thất Thục-đế. Nếu tướng sĩ phạm thì cấp Lữ trưởng trở xuống bị xử trảm.
Chàng ra lệnh:
- Sư bá Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng tiến quân theo hai đường, một chiếm Long-xương, rồi theo đường thủy vào uy hiếp Thành-đô. Một theo đường Đông-sơn đến Mi-sơn. Đạo này có hiền đệ Vương Lộc làm tiên phon g dẫn đường. Hiền đệ nhớ một điều: Thù nhà sau nợ nước, nếu người dòng họ Công-tôn đầu hàng thì không được giết.
Ngừng một lát chàng tiếp:
- Hiền-đệ Vương Thọ cùng sư muội Đinh Bạch-Nương, sư đệ Hiển-Hiệu và Quách Lãng đánh Hán-nguyên. Còn sư bá Nam-hải, sư thúc Đinh Đại, sư thúc Vương Nguyên, sư tỷ Thiều-Hoa, sư muội Vương Sa-Giang đánh thẳng vào Thành-đô.
Đinh Bạch-Nương hỏi:
- Trong bọn chúng tôi, ai là chúa tướng?
Đào Kỳ buồn cười về cô em bà Chằng, nói:
- Sư-đệ Hiển-Hiệu là Hổ-nha đại tướng quân dĩ nhiên sư đệ làm chúa tướng.
Vương Thọ hỏi:
- Đánh Hán-nguyên xong chúng tôi sẽ làm gì?
Đào Kỳ khen:
- Hiền đệ quả là người cầm quân kinh nghiệm. Sau khi hạ xong Hán-nguyên, hiền-đệ cho đối xử với tù binh, hàng binh như chúng ta đã làm. Hiền-đệ cử một tướng cũ của hiền-đệ trấn thủ. Hiền-đệ tức tốc mang quân đến trấn ở Tiểu-kim bắt Công-tôn Thuật. Vì có thể y sẽ chạy vô khu rừng núi này ẩn thân.
Hiển-Hiệu lĩnh mệnh, mời các tướng trẻ ra ngoài bàn định kế sách.
Đào Kỳ tiếp:
- Sư bá Nam-hải mang ba vạn quân tiến theo đường phía Nam đánh vào Thành-đô. Thế nào sư bá cũng vào thành trước. Xin sư bá chỉ huy việc tiếp thu thành trì, bảo quản kho tàng. Sư thúc Đinh Đại kinh nghiệm chiến đấu nhiều, xin lãnh ba vạn quân đánh vào cửa Bắc Thành-đô. Sư tỷ Trưng Trắc lĩnh một vạn quân đánh vào cửa Đông. Sở dĩ sư tỷ lĩnh ít quân, vì phía sau sẽ có đạo quân của sư bá Đinh Công-Thắng, Thiệu Anh-Vũ tiến lên, tổng số sẽ tới năm vạn là ít. Sư tỷ Thiều-Hoa đánh cửa Tây, chỉ cần phục quân ở ngoài thành, đợi cho giặc chạy qua một nửa thì đổ quân ra, cắt làm đôi mà bắt giặc. Số còn lại giặc chạy về Tiểu-kim, đã có Hiển-Hiệu bắt chúng. Thôi mời quý vị điểm quân, ngày mai giờ Dần sẽ xuất phát.
Vương Nguyên nước mắt đầm đìa hỏi:
- Đào nguyên soái, cha con tôi với Công-tôn Khôi thù sâu như biển. Tại sao nguyên soái không cho cha con tôi xuất lực?
Đào Kỳ ghé tai Vương Nguyên nói nhỏ:
- Vương sư thúc, sư muội và cháu sẽ đột nhập Thành-đô bắt giặc trước tất cả. Nhưng phải giữ bí mật hết sức mới được.
Vương Nguyên cả mừng chắp tay lạy Đào Kỳ. Đào Kỳ vội đỡ dậy. Hai người ra chỗ vắng bàn việc đột nhập Thành-đô.
Vương Nguyên móc trong túi ra tấm bản đồ:
- Đây là bản đồ Thành-đô, tôi ghi rất kỹ. Đào nguyên soái hãy coi.
Đào Kỳ thấy bản đồ ghi chi tiết từng chỗ đóng quân trong thành, sông, núi kinh, lạch, cùng các cung điện, không chỗ nào mà không có. Chàng ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao sư thúc có bản đồ nầy?
Vương Nguyên đáp:
- Nguyên hai cha con tôi hóa trang, đổi hình làm nghề ca hát khắp Thành-đô, biết rõ mọi đường lối trong thành.
Đào Kỳ cho lấy thẻ bài cũ của Việt-tây để ba người dùng, rồi bí mật lên đường vào Thành-đô.
Vương Sa-Giang bàn:
- Bây giờ chúng ta phải giả dạng mới được. Cha làm nhạc công, con làm ca nhi còn Đào đại-ca làm gì bây giờ?
- Thành-đô ai cũng biết cha và con cả rồi, bây giờ Đào đại-ca nói tiếng Thành-đô không rõ thì dễ bị lộ lắm. Chi bằng cha tuyên bố con mới lấy chồng, Đào đại-ca là chồng của con. Đào đại-ca đóng vai người câm.
Vương Nguyên là văn sĩ lãng mạn, coi chuyện đó thường tình. Nhưng Vương Sa-Giang ngượng quá:
- Đào đại-ca có vợ rồi, cha không biết hay sao mà bảo con là vợ đại-ca?
Vương Nguyên phì cười:
- Cha có bảo con là vợ đại-ca thực đâu. Hai người là vợ chồng giả thôi mà. À! Được rồi, Đào đại-ca giả làm người câm, để cha muốn nói gì thì nói. Đại-ca làm người mãi võ kiếm tiền, như vậy chúng ta đột nhập Thành-đô dễ dàng hơn.
Vương Nguyên tính khoáng đạt, nghĩ sao nói vậy, nhưng Sa-Giang với Đào Kỳ tự nhiên thấy ngượng ngùng. Ba người lấy một ít vàng bạc làm lộ phí, rồi lên đường đến Thành-đô.
Chiều hôm đó ba người đến Nhã-an. Nhã-an là một quận gần Thành-đô, nằm trên giao điểm của năm con sông, thuyền bè đi lại tấp nập, dân cư đông đúc. Dù đất Thục đang loạn ly, mà hàng quán buôn bán vẫn sầm uất. Trai thanh gái lịch đi lại vui vẻ. Quân lính đầy trong quận lỵ nhưng không sách nhiễu dân chúng như quân Hán ở Giao-chỉ thường làm.
Vương Nguyên quen thuộc với trấn này, ông nói:
- Trấn có khoảng ba mươi ngàn nóc gia, nguồn thủy lợi như tôm cá không biết bao nhiêu mà kể, lại là nơi nuôi nhiều súc vật, rất giàu có. Chúng tôi qua lại ca hát nhiều lần, dân phố quen mặt chúng tôi. Đào huynh đệ mới đến đây lần đầu, lại không nói được giọng Ích-châu, vì vậy chúng ta tránh gặp gỡ nhiều người. Chúng ta tạm kiếm nhà quen nghỉ ngơi, rồi ngày mai lên đường, nhất thiết giấu kín hành tung, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Bây giờ chúng ta đến nhà Tạ viên ngoại, nghỉ ngơi ăn uống đã.
Ba người đi về phía bãi sông Thanh-y. Trên sông thuyền đậu san sát, cạnh sông, một khu vườn rộng, ngoài có hàng rào rất đẹp. Vương Nguyên giật chuông. Một lát, có người lão bộc mở cổng. Lão bộc trông thấy Vương tỏ vẻ sợ hãi, giật mình. Y chắp tay lắp bắp:
- Đại tiên sinh giá lâm, để tiểu nhân vào báo với trang chủ.
Nói rồi y chạy biến vào trong. Đào Kỳ hơi ngạc nhiên vì thân thủ y không phải tầm thường, mà tại sao lại đi làm nô bộc. Rồi nữa, khi y thấy Vương thì sợ hãi, tại sao?
Vương đối với dân chúng là ngươi hát dạo kiếm tiền, một nghề chỉ hơn ăn mày một chút thôi. Tuy vậy, chàng nghĩ:
- Có lẽ Vương là bạn của trang chủ, nên nô bộc trông thấy phải kính trọng là lẽ thường.
Tạ trang chủ quần áo chỉnh tề, chạy ra đón khách. Y chắp tay chào Vương Nguyên:
- Tiên sinh và cô nương giá lâm tệ trang, thật hân hạnh cho chúng tôi. A... còn vị thiếu niên nầy là ai?
Vương Nguyên chỉ Đào Kỳ:
- Y là con rể tôi. Tôi mới cho chúng cưới nhau mấy tháng trước. Y bị câm từ nhỏ, không biết nói nhưng nghe được, hiểu được và biết viết. Võ công y thuộc loại khá. Y theo chúng tôi đi mãi võ độ nhật.
Tạ viên ngoại mời khách vào trang. Qua hai lần cổng, đến một cái sân khá rộng, trong sân đầy cây kiểng, nào quất, nào thủy-tiên. Trong vườn đầy đào và mai, trên cây đào đã lấm tấm mấy nụ hoa nở. Vào tới nhà chủ nhân hỏi Vương Nguyên:
- Tiên sinh ở chơi mấy ngày, đợi qua Tết hãy về Thành-đô, để chúng tôi được thưởng thức khúc nhạc tiên trong ngày đầu xuân.
Vương Nguyên lắc đầu:
- Đa tạ viên ngoại, đợi khi khác. Chúng tôi có việc khẩn phải lên đường. Xin viên ngoại cho tá túc một đêm là đủ.
Tạ viên ngoại gọi người nhà dặn:
- Người nầy là hiền tế của Vương tiên sinh. Ngươi đưa họ ra căn phòng ngoải thủy các. Vợ chồng trẻ, đêm xuân đáng giá ngàn vàng, họ phải ở thủy các mới xứng đáng.
Người lão bộc đưa Đào Kỳ và Sa-Giang ra phía sau, quả nhiên có căn nhà nội lên giữa cái hồ. Từ bờ ra thủy các phải qua một cái cầu. Hai người qua cầu rồi, lão bộc cầm một bánh xe trên bờ quay tròn, bánh xe cuốn dây, cây cầu cất lên. Thế là Đào Kỳ với Sa-Giang cô lập trên thủy các. Hai người mở cửa căn thủy các vào trong, có một phòng ngủ, giường nệm rất dầy, có đủ chăn, màn sạch sẽ. Trên vách treo mấy thanh kiếm. Như vậy chứng to ûchủ nhân là người văn võ toàn tài.
Sa-Giang than:
- Họ tưởng đại-ca với tiểu muội là vợ chồng thực, nên cho ở với nhau trong thủy các này. Thủy các có một cái giường, tối ngủ làm sao đây? Chúng mình đâu phải vợ chồng!
Đào Kỳ nghĩ:
- Tại sao họ đưa mình vào thủy các rồi kéo cầu lên? Họ định giam mình ở đây hay sao?
Trong đầu chàng chợt nhớ lại ngày nào ở Thái-hà trang, Lê Đạo-Sinh cũng xếp đặt cho chàng với Tường-Quy cùng xuống du thuyền, rồi tình yêu nảy sinh, tạo thành một thiên trường hận. Giờ nầy Tường-Quy đã ra người thiên cổ, chàng vẫn không quên được.
Sa-Giang nhìn chàng hỏi:
- Đào đại-ca, có phải đại-ca nhớ nhung sư tỷ Phương-Dung không?
Đào Kỳ lắc đầu:
- Tôi đang nghĩ chuyện khác.
- Chuyện khác! Đại-ca nói dối em rồi. Nếu đại-ca nghĩ chuyện khác thì khuôn mặt không tỏ ra những nét nhu mì, yêu thương như vậy. Nét mặt đó chỉ có khi người ta nghĩ đến người mình yêu mà thôi.
Đào Kỳ nhìn Sa-Giang, chàng thấy nét mặt cô nhu mì, ôn nhu, tươi như hoa xuân. Chàng vội quay đi để tư tưởng không bị cuốn vào vòng tội lỗi. Sa-Giang hỏi:
- Đại-ca! Đại-ca thấy em với chị Phương-Dung ai đẹp hơn?
Đào Kỳ không ngờ Sa-Giang hỏi câu đó. Chàng suy nghĩ rồi đáp:
- Bàn về thông minh, lanh lợi, trên thế gian không có người thứ hai bằng Phương-Dung. Bàn về vẻ đẹp thì nàng có vẻ đẹp uy nghiêm như những đóa hoa Huệ, hoa Thủy-tiên. Còn cô thì vẻ đẹp như hoa Đào, hoa Mận mùa xuân. Khi cô vừa hát, vừa đàn thì có sức hấp dẫn, thu hút người ta hơn cả sư-tỷ Hoàng Thiều-Hoa.
Sa-Giang hỏi tiếp:
- Em nói tỷ dụ thôi nghe. Tỷ dụ như anh mới quen chị Phương-Dung với em cùng một lúc, anh không bị phân chia về người Việt, người Hán, không bị dư luận, cha mẹ can thiệp, anh sẽ chọn ai?
Đào Kỳ chết lặng, không ngờ nàng hỏi câu đó. Sa-Giang so với Phương-Dung võ công không bằng, văn học thua xa, kiến thức kém cỏi, gia thế càng kém, nhưng đối với chàng dường như nàng có một cái gì giống Tường-Quy, chàng dễ bị rung động. Hai người đã bị ước hẹn giả vợ chồng, rồi lại bị đưa ra nhà thủy các vắng vẻ thế này rồi nàng lại hỏi câu đó nữa, làm Đào Kỳ hoảng sợ. Chàng chạy ra ngoài sân nhìn tuyết lất phất rơi. Rõ ràng là chàng chạy trốn.
Một lát chàng thấy có một hơi thở thơm tho bên cổ trái, rồi một bàn tay mềm mại nắm lấy tay chàng. Chàng muốn gỡ ra mà người như bị tê liệt, không sao cử động được, Sa-Giang dựa vào người chàng. Chàng thấy ấm áp dễ chịu, đưa tay ra quàng lấy nàng. Hai người đứng như vậy lâu lắm, mãi cho đến khi có tiếng người lão bộc nói bên kia cầu:
- Cô nương, tiểu nhân đưa cơm vào cho cô nương và lang quân xơi.
Đào Kỳ hoảng hốt buông Sa-Giang ra, hai người vào thủy các ăn cơm. Suốt bữa ăn, hai người không nói với nhau câu nào.
Trời bắt đầu tối, Sa-Giang lấy lửa đốt lên cây đèn để ở án thư. Nàng lấy đàn ra dạo, tiếng đàn rung động không gian, truyền ra ngoài hồ. Bên ngoài tuyết xuống, mọi vật trắng xóa. Sa-Giang ru hồn vào tiếng đàn, cất giọng hát:
Tĩnh nữ kỳ thù,
Sĩ ngã ư thành ngung.
Ái nhi bất kiến,
Tao thủ trì trù.
(Có người con gái nhu mì, đợi ta ở góc thành. Ta yêu nàng mà không gặp, vò đầu, vò tóc rối bời).
Đào Kỳ biết nàng lấy bài hát này trong Kinh thi, phổ vào nhạc. Dưới ánh đèn huyền ảo, chàng thấy Sa-Giang đẹp vô cùng, giống như Tường-Quy trước đây. Chàng nhắm mắt lại để tưởng tượng ra hình ảnh Phương-Dung, nhưng Phương-Dung vẫn không thấy, mà chỉ thấy đôi vai gầy, đôi mắt ướt, hai bàn tay trắng nhỏ của Sa-Giang. Chàng nhủ thầm:
- Ta là con trai của Đào-hầu nổi danh đạo đức Lĩnh-Nam. Ta không thể đi đến đâu để tình ái đến đó được. Phương-Dung là vợ ta, nàng thông minh, võ công tuyệt vời, mưu trí không ai bì kịp. Nàng đẹp như tiên nga, giờ này đang nhớ nhung ta.
Nhưng chàng lại thấy hình ảnh của người đàn ông lấy nhiều vợ. Chàng thường thấy những danh nhân, đi đâu gặp dịp là nghe con hát, vui với kỹ nữ là điều thường tình, không có tội gì cả. Bất quá lấy thêm Sa-Giang làm vợ nữa là cùng, có gì trắc trở đâu?
Sa-Giang ngưng đánh đàn, nàng đến ngồi cạnh Đào Kỳ, ngước mắt nhìn chàng hỏi;
- Đại-ca chưa trả lời câu hỏi của em ban nãy.
Đào Kỳ thở dài:
- Vương cô nương, tôi là người đất Lĩnh-Nam, đã có vợ rồi. Vợ tôi là Phương-Dung, do cha mẹ cưới cho. Chúng tôi thương nhau từ nhỏ tới giờ. Tôi biết cô nương đối với tôi một mối nhu tình, nhưng tôi không làm gì để đền đáp cô nương được cả.
Sa-Giang dựa đầu vào vai Đào Kỳ. Chàng ngồi im, không dám đẩy nàng ra. Cứ như vây lâu lắm, thì chàng khám phá ra Sa-Giang đã ngủ rồi. Chàng khẽ bồng nàng lên đặt vào giường, đắp chăn cho nàng ngủ. Còn chàng thì ngồi trên ghế dưỡng thần.
Chàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Chập chờn cho đến sáng hôm sau. Vương Nguyên gọi hai người. Đào Kỳ giật mình tỉnh giấc trước. Chàng chạy ra mời lão vào trong thủy các. Vương Nguyên nói:
- Chúng ta chuẩn bị vào Thành-đô hôm nay. Trời tuy có tuyết nhưng đường không trơn mấy. Ngựa đi lại chắc không sợ gì.
Còn Tiếp