Hồi 40b
Dọc đường, đi qua các sông ngòi có thuyền của người Hán, nàng nghĩ: Không biết thuyền của Hán có gì hơn thuyền Giao-chỉ không? Nếu họ có gì hơn mình thì phải bắt chước mới được. Để ý quan sát, quả nhiên nàng thấy đến 5, 6 kiểu thuyền Hán khác xa thuyền Việt, nàng lấy bút cặm cụi vẽ kiểu và ghi chú chi tiết bên cạnh.
Chiều hôm ấy, ba người tới Độ-khẩu, dân vùng này lẫn lộn người Việt, người Hán. Họ phục sức hơi khác người Giao-chỉ, giọng nói nặng như giọng Cửu-chân. Phương-Dung chỉ địa thế nói:
- Kìa ba con sông Kim-long, Nhã-long giang, Đinh-hà gặp nhau, chia làm bốn ngả, nước chảy xiết gần như thác cuộn. Bên này thuộc Hán, bên kia thuộc Thục. Thành bên Hán là Vĩnh-nhân, xây trên ngọn đồi cao, dựa vào một vách núi, có thác cước đổ xuống. Còn sông Kim-sa giang rộng tới mấy trăm trượng, dưới sông Hải đội gồm 10 chiến thuyền lớn và hơn 50 chiến thuyền nhỏ, đậu sát nhau. Thủy thủ sống trên thuyền trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Bên kia sông là thành Độ-khẩu xây theo hình tam giác, mũi nhọn là nơi hai con sông Kim-sa giang và Nha-long giang hợp lại. dưới sông cũng có nhiều chiến thuyền lớn nhỏ, đậu san sát. Trên mặt thành, gươm đao, cung tên sáng ngời, luôn có quân sĩ tuần hành.
Đào Kỳ nhìn qua nói:
- Ngô Hán nói đúng, dùng thủy quân đánh sang bên kia, thì không lên được thành. Còn dùng bộ binh lại không có đường sang. Muốn dùng thuyền chở quân vượt sông thì gặp thủy quân chặn đánh. Nước chảy xiết thế kia, thuyền chở quân nặng làm sao chèo nổi?
Ba người vào một quán bên sông ăn bánh, uống nước. Chủ quán thấy một thiếu niên kỳ vĩ, hùng tráng và hai thiếu nữ trẻ đẹp đi theo, cả ba đều cỡi ngựa. Cho rằng khách sang, tiếp đón niềm nở. Trong quán có một thiếu nữ chiêu đãi xinh xinh, nàng tiến ra hỏi:
- Khách quan dùng gì?
Đào Kỳ xin cho ăn bánh bao, uống trà. Cô gái thấy Đào Kỳ nói giọng lạ hỏi:
- Khách quan từ xa tới đây?
Đào Kỳ đáp:
- Chúng tôi là vợ chồng, còn đây là em gái tôi. Chúng tôi từ quận Giao-chỉ sang tìm thầy học.
Hồi bấy giờ người Giao-chỉ sang Tượng-quận học là sự thường, nên chủ quán không ngạc nhiên hỏi:
- Thế công tử và phu nhân định học gì?
- Phong thổ ở đây giống Giao-chỉ. Tôi muốn sang đây học nghề thuốc, nhưng chưa gặp được lương sư. Nếu ông biết có thầy giỏi, chỉ cho chúng tôi xin hậu tạ.
- Công tử và phu nhân có biết chữ không?
Phương-Dung đáp thay chồng:
- Ba chúng tôi đều biết chữ cả, nhưng thuốc thì không biết một tí gì.
Chủ quán thở dài:
- Công tử muốn tìm thầy giỏi, tất phải đi Đông-xuyên, Côn-minh, chứ đây là biên giới. Bên kia thuộc Thục, bên này thuộc Hán. Hai bên lúc nào cũng chỉ chực đánh nhau, các thầy giỏi đều bỏ đi cả rồi.
Phương-Dung móc tiền ra trả, nàng lại lấy thêm mười đồng tiền, hai tay đưa cho chủ quán:
- Gọi là chút quà mọn tạ ơn ông chỉ bảo.
Ngay lúc đó một Ngũ lính đi tuần tới, thấy ba người lạ hỏi:
- Chủ quán, ai vậy?
Chủ quán đáp lơ đãng:
- Ba người từ Giao-chỉ sang tìm thầy học thuốc. Tôi chỉ họ đi Đông-xuyên hoặc Côn-minh.
Viên ngũ trưởng hỏi:
- Ba vị từ Giao-chỉ đến đây, thế có thẻ bài chứng minh thân phận không?
Phương-Dung giả vờ ngơ ngác:
- Thái thú Giao-chỉ không bắt dân dùng thẻ bài nên chúng tôi không có.
- Vậy mời ba vị đến sở Tế-tác gặp Giám-sở chúng tôi. Bởi đây là biên cương, chỉ sợ tế tác địch do thám.
Đào Kỳ liếc nhìn Phương-Dung, rồi cùng đi theo viên Ngũ-trưởng. Tới cổng thành, y dẫn ba người vào một căn nhà gỗ khá sạch sẽ. Y nói lớn:
- Trình Giám-sở có ba người từ Giao-chỉ tới, không có thẻ bài, chúng tôi mời họ về đây để Giám-sở định liệu.
Trong nhà, một thanh niên khoảng 25 tuổi bước ra, nhìn ba người rồi mời vào phòng, tự giới thiệu:
- Tôi là Ngô Đạt, Giám-sở Tế-tác Vĩnh-nhân. Đây là biên giới cần đề phòng cẩn mật. Vậy xin ba cô cậu khai cho đúng:Ba cô cậu từ đâu tới, tên họ gì? Đến để làm gì?
Phương-Dung trả lời:
- Chồng tôi họ Kỳ tên Đào, tôi họ Phương, còn đây là em chồng tôi, tên Quốc, chúng tôi từ Giao-chỉ tới tìm thầy học thuốc cứu người!
Giám sở nhìn ba con ngựa hỏi:
- Con ngựa Ô này là ngựa rừng, tôi chưa từng thấy qua. Con hai con chiến mã này, móng đóng thiếc của kỵ binh, tại sao các vị có?
Phương-Dung giật mình nhận ra sự sơ hở của mình và công nhận Giám sở tinh tế, thông minh, nhận ra chân tướng mình. Nàng chưa biết trả lời sao thì Ngô Đạt lại nói:
- Các vị không có thẻ bài, vậy cho chúng tôi khám được không?
Giao-long nữ cười:
- Không được! Ngô đại nhân mà khám, e rằng sẽ gặp một vật làm đại nhân chết khiếp.
Ngô Đạt thấy Trần Quốc xinh đẹp, nói năng có duyên, thì cười:
- Tiểu cô nương! Không lẽ trong bọc cô nương có rắn rết? Nói thực tôi không sợ đâu. Tôi khám đây.
Y chụp bọc của Trần Quốc.
Nàng trầm mình tránh khỏi, rồi nói:
- Trời ơi! Đại nhân định khám thật ư? Này tôi nói cho mà biết, nam nữ thụ thụ bất thân, đại nhân không được đụng vào người tôi!
Ngô Đạt là người học võ, chàng thấy lối né tránh của nàng khác lạ, rõ ràng nàng là một cao thủ. Y giật mình chụp vai nàng. Trần Quốc lại trầm mình tránh khỏi.Y thất kinh chụp lần nữa, lần này nàng cũng tránh thoát. Sau bốn lần chụp hụt, y nhận thấy bản lãnh đối phương cao hơn mình nhiều, y lùi lại rút gươm chém tạt một nhát, Trần Quốc cũng tránh được. Y tiếp tục chém mười chiêu đều bị nàng tránh dễ như chơi. Y biết đối thủ không có ác ý, nếu không chỉ một chiêu là y đã bỏ mạng. Thấy quân sĩ đã vây kín xung quanh, y yên tâm quay lại nhìn Đào Kỳ, Phương-Dung thấy hai người như không chú ý đến cuộc giao tranh, ngồi bình thản quan sát cơ sở. Y bỏ kiếm xuống hỏi:
- Xin quý vị cho biết rõ lý lịch.
Phương-Dung lấy một gói trong bọc đưa cho y, rồi nói:
- Có người gởi cho quan trấn thủ ải nầy món quà, nhờ Ngô giám sở đưa dùm.
Ngô Đạt lấy cái hộp bọc lụa, mở ra thì trong có ba tấm thẻ bài và một phong thư. Y cầm lên coi thấy tấm thứ nhất đề: Trần Quốc, Thống-lĩnh Hải-đoàn Lĩnh-nam. Tấm thứ nhì: Đào Kỳ Chinh-viễn đại tướng quân. Tấm thứ ba: Nguyễn Phương-Dung Đệ nhất Quân-sư. Phong thư có ấn son đỏ đề: "Lĩnh-nam vương Tả tướng quốc, lệnh văn võ các cấp phải tuân lệnh điều động của Đệ nhất Quân-sư và Chinh-viễn đại tướng quân. Trái lệnh xử trảm".
Ngô Đạt đã được Thái-thú Cù Anh-Thông loan báo đại quân Lĩnh-nam vương đã tới Quế-lâm. Chinh-viễn đại tướng quân sẽ tới bí mật bất kể ngày đêm để dọ thám bên địch. Hễ thấy không được chào hỏi, phải mời vào gặp cấp trên ngay. Vì vậy y vẫy quân sĩ:
- Các người tránh ra hết.
Đợi quân sĩ đi hết, y mới chắp tay hành lễ quân cách:
- Giám-sở Tế-tác Vĩnh-nhân xin ra mắt Quân-sư và Đại-tướng quân.
Thái độ y hiên ngang, kính trọng mà không sợ hãi. Đào Kỳ thấy thiện cảm:
- Chúng ta đi gặp vị trấn thủ ải này rồi hãy nói truyện.
Ngô Đạt dẫn ba người vào một căn nhà khác. Y ra hiệu ba người ngồi chờ, rồi vào trong. Một lát sau y trở ra cùng một tướng quân, tuổi khoảng 50 dáng điệu uy nghiêm.Viên tướng trấn thủ hành lễ quân cách:
- Tiểu-tướng Trần Huê xin ra mắt Quân-sư và Đại tướng quân.
Đào Kỳ và Phương-Dung đáp lễ. Y mời ba người vào trong trướng, sai đãi trà. Phương-Dung cho y biết sơ ý định đánh Thục. Vì vậy nàng và Đào Kỳ tới đây để đích thân thám sát tình hình. Nàng bày tỏ nỗi lo lắng không vượt sông được, nói với Trần Huê:
- Sông này, rộng sâu thế nào?
- Kim-sa giang rộng khoảng một ngàn trượng. Sâu không biết bao nhiêu mà lường. Mùa nước cạn còn rộng khoảng 800 trượng mà thôi, nước chảy cũng ít mạnh. Còn về tình hình bên địch xin để Ngô Đạt trình bày.
Ngô Đạt đỡ lời Trần Huê:
- Đạo quân Độ-khẩu của Thục có một Lữ kỵ binh, một Lữ bộ binh và một Hải đoàn. Hải đoàn đóng sát ngay chân thành Độ-khẩu. Trong thành có hai tốt kỵ, hai tốt bộ. Tổng cộng cả bộ, kỵ, thủy là 600 người. Tướng trấn thủ là Sơn Ngọc-Quang, ít học, nhưng là một tướng có tài và là một tay võ công trác tuyệt. Y lại là người kiên trì cẩn thận. Trong thành y để 600 quân, bên ngoài y còn cho đóng hai đồn Hoa-bình và Mễ-dịch, cách Độ-khẩu khoảng 15 dặm. Mỗi đồn đều có 100 quân bộ và 100 quân kỵ. Nếu chúng ta vượt sông đánh Độ-khẩu, sẽ bị hai đồn đánh bọc hậu.
- Từ trước đến giờ tướng quân đã vượt sông lần nào chưa?
Trần Huê thưa:
- Phục-ba tướng quân Mã viện đã cho thử vượt sông. Tuy đổ quân được sát vào chân thành Đội-khẩu, nhưng bị hai đồn Hoa-bình và Mễ-dịch kéo về đánh, thành ra bị bại. Quân đổ bộ phải rút về, chết chìm phân nữa. Từ đấy không thấy lệnh trên nói gì nữa, tiểu tướng chỉ biết trấn thủ nghiêm ngặt mà thôi.
Phương-Dung gật đầu nói với Ngô Đạt:
- Xin Giám-sở mang theo 2000 trượng dây lớn cỡ bằng đầu ngón tay út. Chúng ta lên đường ngay.
Ngô Đạt cáo từ một lát rồi trở lại đã có sẵn dây. Phương-Dung dẫn Ngô Đạt, Trần Hụê cùng đi dọc theo Kim-sa giang. Trời về đêm lạnh buốt tới xương. Hai tướng công lực còn kém đều phát run. Đào Kỳ móc túi đưa mỗi người một viên thuốc chống lạnh của Khất đại phu chế trên đảo cho phụ thân chàng. Hai tướng nuốt vào, thấy người ấm áp dễ chịu. Đi một lát Ngô Đạt chỉ sang phía bên kia sông:
- Kia là đồn Hoa-bình. Thường thường bên kia sông lúc nào cũng có binh lính tuần tiễu. Nhưng nay là mưa lạnh, chúng yên tâm không ai dám vượt sang, nên chúng án binh ngủ.
Phương-Dung chỉ vào bên này sông:
- Khoảng giữa Độ-khẩu và Hoa-bình, chúng ta có thể vượt sông. Xin lang quân giúp sức.
Đào Kỳ rút kiếm chặt hai cây tre lớn nhất ở bụi tre gần sông, vót nhọn đầu. Đoạn chàng cầm hai cây tre, nhún người vọt lên cao, lộn một vòng đầu xuống trước. Khi tới đáy sông chàng vận khí, dùng sức cắm hai cây tre lún gần phân nửa, rồi vọt lên đáp vào bờ. Chàng bảo Giao-long nữ:
- Tiểu muội với ta mỗi người đeo một cuộn dây, vượt sông, chằng dây, để Ngô giám sở và sư tỷ bám dây lội qua.
Ngô Đạt thất kinh hồn vía:
- Nước sông lạnh lại chảy xiết, làm sao vượt qua?
Giao-long nữ cười:
- Tôi là Giao-long, Đào đại ca là rái cá. Chúng tôi tu luyện ngàn năm thành người, qua sông có gì khó?
Nói xong nàng nhào xuống nước cùng Đào Kỳ lặn sâu trong đáy sông. Một lát sau cả hai đã nổi bên kia bờ sông. Họ chỉ bị trôi về hạ lưu hơn trăm trượng thôi. Đào Kỳ lại chặt cây, cắm xuống sông, cột dây vào, đoạn chàng bắt chước tiếng chim, rúc lên một hồi.
Bên này Phương-Dung bảo Trần Huệ:
- Tướng quân đứng ở đây, để tôi với Ngô giám-sở bám dây lội qua sông.
Bây giờ Ngô Đạt mới tỉnh ngộ. Y nhảy xuống sông bám dây lội qua. Khi đến được bờ đã thấy Phương-Dung ngồi đó tự bao giờ. Bốn người len lỏi trong đêm đến Độ-khẩu, theo đường bộ qua Mễ-dịch rồi lại trở về chỗ cũ, lội sông, sang Vĩnh-nhân.
Tới thành Vĩnh-nhân Phương-Dung nói:
- Trần, Ngô tướng quân cần giữ bí mật, coi như chúng tôi chưa tới đây, để tế tác giặc không biết. Tướng quân được phép tổ chức cờ bạc, ăn chơi cho quân sĩ trong ngày cuối năm, để đánh lạc hướng chú ý của giặc. Tôi sẽ có lệnh sau.
Sáng hôm sau ba người lên đường trở về Côn-minh, tới nơi thì Triệu Anh-Vũ và Đinh Công-Thắng cũng vừa về tới. Nghiêm Sơn mời tất cả vào trướng thương nghị.
Đinh Công-Thắng trình bày:
- Chúng tôi đi thám thính, đường Kim-sơn đến Long-xương phải qua một ngọn núi cao 1500 trượng. Sang chân núi bên kia chỉ có một tốt khoảng 100 binh sĩ canh phòng. Tới mãi Long-xương mới có một lữ kỵ binh đóng trong thành nhỏ. Đây là đồng bằng, dân chúng sống hiền hòa, binh sĩ trễ nãi, việc canh phòng sơ hở. Có điều khi vượt qua Kim-sơn, chúng tôi phải nhờ đến đội Thần-hầu của Hồ Đề lên trước cột dây mới qua được. Tuy vậy, nếu mạo hiểm đánh chiếm Long-xương, tất Thành-đô rúng động. Chỉ sợ sau đó chúng rút quân từ hai đạo Tây-xuyên và Kinh-châu về, chúng ta ít người khó đương cự nổi.
Triệu Anh-Vũ là sư thúc Nghiêm Sơn, ông là người can trường, nói:
- Tôi với Đinh huynh đã bàn, nếu cần hy sinh tính mạng, chúng tôi cũng quyết làm cho được.
Đào Kỳ ngẩn người nghĩ:
- Anh của Đinh Công-Thắng bị Phương-Dung giết, mà sao Công-Thắng lại đổi tính mau như vậy?
Chàng chợt nhớ ra, anh em Lôi-sơn tam hùng chỉ ước muốn làm chúa 36 động Mê-linh, nay Trần Năng nhường chức Thống-lĩnh cho Đinh Hồng-Thanh rồi, có lẽ vì vậy anh em họ Đinh đã thỏa lòng.
Suốt hai ngày Nghiêm Sơn bàn định với Phương-Dung, Đào Kỳ để quyết định phương kế tối hậu. Vương cho đánh trống khẩn cấp họp tướng sĩ. Vương thăng trướng ban lệnh:
- Chúng ta phải tới Thành-đô ăn Tết Bính-thân. Vậy xin các vị sư bá, sư thúc, chư huynh đệ và tướng sĩ nghe lệnh:
- Đào hiền đệ chỉ huy đạo thứ nhất, bí mật đến Độ-khẩu, làm thế nào tới nơi mà giặc không biết. Khi tới chia quân làm ba: Đội thứ nhất do Trần Huệ, ngày đêm tuần tiễu phía Nam Kim-sa giang, đề phòng địch vượt sông tập kíck. Trần Huệ cũng phụ trách việc tiếp tế lương thảo và bảo vệ đường liên lạc giữa Đào hiền đệ và Tổng hành dinh của ta. Sư muội Trần Quốc chỉ huy đội Giao-long binh Thiên-trường chăng dây qua sông. Sau khi vượt sông Trần muội chia đội Giao-long ra làm hai, mai phục phía ngoài Độ-khẩu và Hoa-bình, nếu gặp tuần đội tiễu địch phải giết sạch, không để thóat một mạng. Trong khi đó sư huynh Nguyễn Nhân cùng năm tướng Nghĩa, Lễ, Trí, Tín và Giao-Chi chỉ huy đội quân ráp cầu phao cho thực nhanh, làm sao trước lúc trời sáng phải xong 4 cầu phao. Đầu cầu phía Nam do Giám-sở tế tác Vĩnh-nhân, Ngô Đạt chỉ huy bảo vệ. Đầu cầu phía Bắc do sư huynh và chúng huynh đệ bảo vệ. Đào hiền đệ phải cho một sư bộ và một sư kỵ đổ bộ trước khi trời sáng. Sau khi cầu phao làm xong, Đô-đốc Trần Quốc lập tức trở về Vĩnh-nhân điều khiển Hải đội sẵn sàng, chờ tín hiệu của nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa sẽ đánh thẳng sang bên kia Độ-khẩu.
- Đào hiền đệ cho Lữ bộ mai phục trên đường từ Hoa-bình về Độ-khẩu. Khi đánh Độ-khẩu tất quân Hoa-bình đổ về cứu. Ta cứ để cho chúng đi, chỉ cho một phần phục binh đánh cầm chân, phần kia tiến chiếm Hoa-bình. Để một số quân Hoa-bình chạy thoát và mở vòng vây để toán quân giặc tiếp cứu Độ-khẩu chạy được về Độ-khẩu, chúng sẽ làm binh lính ở đây rối lọan mất tinh thần.
- Cho hai Lữ bộ và kỵ tiến đánh Mễ-dịch, nữ tướng Hoàng Thiều-Hoa chỉ huy cánh quân này. Khi bắt đầu đánh Mễ-dịch, nhớ bắn tên lửa làm hiệu để Đô-đốc Giao-long nữ thúc quân vượt sông đánh vào Hải đội địch. Giặc bị công phá bốn phía, thua chạy. Đào hiền đệ phải chuẩn bị trước phục binh chặn bắt hết, không để một tên tẩu thoát báo tin.
- Sau khi chiếm được Độ-khẩu, Hoa-bình và Mễ-dịch, Minh Giang sẽ đóng tại Độ-khẩu, Vĩnh-nhân. Còn Đào đệ thúc quân tiến đánh Đức-xương, Tây-xương, Việt-tây và Hán-nguyên. Đến Hán-nguyên, phải án binh tại chỗ, chờ bắt tay với đạo Kim-sơn rồi cùng đánh Thành-đô.
Từ hồi xuất binh tới giờ, chư tướng chỉ thấy ba vị quân sư điều binh khiển tướng. Bây giờ mới thấy Nghiêm Son đích thân ban lệnh, kế hoạch chính xác, ngồi trong trướng mà định việc trăm dặm, Vương quả không hổ danh tướng trăm trận, trăm thắng, không phụ lòng Hán đế cho chỉ huy cả Đặng Vũ, Ngô Hán, Phùng Dị và Mã Viện.
Đợi các tướng được phân công ghi nhớ kỹ lệnh, đoạn Vương tiếp:
- Đạo thứ nhì do sư thúc Triệu Anh-Vũ và Đinh Công-Thắng chỉ huy tiến đánh Long-xương. Đường tiến quân của nhị vị sư thúc rất khó khăn, nhưng nếu đem được quân tới Long-xương là giặc kinh hồn, táng đởm rồi. Vậy hai vị ưu tiên chọn một Lữ bộ toàn quân khỏe mạnh, can đảm và kỷ luật. Dùng đoàn quân Thần-hầu của Hồ Đề leo núi, chăng dây trước hai vị lên theo dùng dây kéo người. Đầu tiên kéo hai, sau thành bốn rồi thành tám, cứ thế khi có 200 quân thì kéo xuống chân núi bố phòng, để quân còn lại tiếp tục vượt núi. Khi cả Lữ qua rồi thì để đội Thần-hầu thủ bên này Kim-sơn bảo đảm tiếp tế lương thực. Đợi đêm hãy vượt rừng đánh chiếm đồn nhỏ của địch trấn giữ chân núi Kim-sơn không cho một người chạy thoát, bắt chúng giao binh phù, hướng dẫn đường bất thần đánh Long-xương. Chiếm được Long-xương thì không còn gì đáng sợ nữa. Lúc đó nhị vị sư thúc cần liên hệ với Đào hiền đệ. Kể từ đây, mọi tiếp tế, bổ sung đều từ Hán-nguyên đưa đến.
- Sau khi hai đạo quân chiếm Hán-nguyên và Long-xương bắt tay được với nhau, chúng ta sẽ dồn hết 16 quân Bộ, 16 sư Kỵ Lĩnh-nam vào Ích-châu. Bấy giờ Chinh-viễn tướng quân cho binh tiến chiếm Thành-đô. Nhớ răn dặn tướng sĩ, không được giết hại người, không được cướp bóc. Cần phải đánh thật mau, trước khi Đặng Vũ tới.
Sau cùng thông lệ chàng hỏi:
- Có ai thắc mắc gì không?
Giao-long nữ nói:
- Sau khi đánh Độ-khẩu, tiểu muội với đội Giao-long và đội của trang Cối-giang sẽ làm gì?
Nhờ nàng nhắc Nghiêm Sơn mới chợt nhớ ra:
- Trần đô-đốc điều khiển hai lực lượng này theo tướng quân Đào Kỳ đánh chiếm các đội thủy quân địch ở Hán-nguyên. Rồi góp thủy quân dọc sông Dân-giang lên đánh Thành-đô. Tiểu muội tổng chỉ huy thủy quân Lĩnh-nam.
Giao-long nữ nghe vậy thích quá, gật gật đầu cười.
Nghiêm Sơn đứng dậy, cung kính đưa ấn kiếm cho Nam-hải nữ hiệp:
- Thưa sư bá, sau đây cháu phải đi Kinh-châu cùng sư muội Phương-Dung xem xét tình hình. Việc điều khiển tất cả bá quan văn võ từ Lĩnh-nam cho tới Kinh-châu đều do sư bá thay cháu. Nhất là việc bảo đảm việc trấn thủ hậu quân cho Đào hiền đệ. Phụ giúp sư bá, có sư thúc Lương Hồng-Châu và sư muội Lê Ngọc-Trinh.
Nam-hải nữ hiệp khảng khái nhận lời:
- Tôi xin nhận trách nhiệm này. Tôi có thắc mắc, khi Hồ Đề đi giúp Đặng Vũ có mang theo đội Thần-phong, Thần-ưng. Còn Vĩnh-Hoa mang theo đội Thần-báo, Thần-hổ. Ở đây đội Thần-hầu theo Triệu Anh-Vũ. Còn đội Thần-xà và Thần-ngao để làm gì?
Giao-long nữ khúc khích:
- Xin sư bá cho cháu đội Thần-xà để đánh hải đội của địch!
Nghiêm Sơn đồng ý giao đội Thần-xà cho Giao-long nữ và tiếp:
- Đội Thần-ngao sẽ được chia đều cho ba đạo, để canh phòng, thám thính.
Phương-Dung tiếp lời Nghiêm Sơn:
- Sau khi chiếm được Độ-khẩu, sư bá có thể cho dời tổng hành dinh đến đó theo Đào lang. Lúc trở về Lĩnh-Nam, chúng ta sẽ dùng sông Trường giang đổ ra Kinh-châu, rồi từ Kinh-châu về Giao-chỉ bằng đường biển. Nhất thiết các đồn trại của giặc chiếm được dọc đường, xin sư bá tự quyết đề cử tướng sĩ trấn nhậm. Các chức huyện lệnh, huyện úy vùng mới chiếm, Đào lang sẽ trình sư bá để quyết định. Chúng ta cần người tài đức để an dân. Biết và dùng người trên thế gian này khó ai bằng sư bá. Có điều bên Hán trọng nam khinh nữ, không như bên Lĩnh-nam ta. Vì vậy xin sư bá hiển lộng thần uy nếu cần để tướng sĩ phục tùng. Bởi họ chỉ phục sức vũ dũng mà thôi.
Nam-hải nữ hiệp tủm tỉm cười:
- Nguyễn Trát sinh ra cháu quả là viên ngọc quí hiếm trên thế gian.
Nghiêm Sơn thấy Lê Ngọc-Trinh mặt buồn rười rượi, chàng hỏi:
- Lê sư muội dường như có diều gì không được vui lòng?
Lê Ngọc-Trinh trả lời:
- Ai cũng ra trận được cả, chỉ mình tôi ngồi gác lương thực, chán quá!
Nghiêm Sơn nói:
- Sư muội lầm rồi. Đại phàm đạo dùng binh, quan trọng ngất là bảo vệ lấy căn bản. Căn bản là hậu quân. Vì vậy ta phải nhờ hai vị có uy tín nhất là Nam-hải nữ hiệp và sư thúc của ta trấn giữ. Nếu để giặc chiếm mất hậu quân, chặn đường về, chúng ta chết hết. Sư muội là đệ tử Khất đại phu, giỏi trị bệnh, võ công cao cường, ta để ở với Nam-hải nữ hiệp bảo vệ sau lưng toàn quân, đó chức vụ quan trọng nhất.
Vốn tính hiền hòa, Lê Ngọc-Trinh đổi buồn làm vui, gật đầu mỉm cười.
Sau đó mọi người giải tán, ai về lo nhiệm vụ nấy, chuẩn bị thi hành lệnh được giao phó.
Bộ Anh hùng Lĩnh-Nam
đến đây đã chấm dứt, xin xem tiếp bộ
ĐỘNG ĐÌNH HỒ NGOẠI SỬ