Đào Kỳ ngạc nhiên tự hỏi: tại sao trong đám Hán binh lại có người bản lãnh phi thường như thế? Chàng lệnh cho thuyền chèo lại gần, bây giờ nhìn rõ hơn, tên Hán binh đang vật lộn với Lưu Chương. Lưu Chương tỏ ra thạo thủy tính, nhưng còn thua tên Hán binh nhiều. Chỉ một lát sau, y bị tên Hán binh dìm xuống nước, cho uống đầy bụng rồi trói y lại. Trói Lưu Chương xong, tên Hán binh vọt người lên cao như cá chép vượt vũ môn, đáp xuống thuyền, đoạn cầm đầu dây giật mạnh một cái đã thấy Lưu Chương bay bổng lên rơi xuống sàn. Đào Kỳ nhìn kỹ tên Hán quân thấy lưng y quen quen, mà chàng không nhận ra hắn là ai. Bỗng thấy ánh đuốc của một thủy thủ soi gần mặt y, chàng phì cười: Mình thật ngu, thì ra là Giao-long nữ.
Đám phản loạn trên thuyền bị bắt hết chỉ có bốn dân thuyền là thoát được về hướng Bắc. Đào Kỳ sai tra xét đám tù binh: Nam có, nữ có, cả người già và trẻ con, nhưng tuyệt nhiên không thấy Trương Thanh. Lục soát dưới hầm chiến thuyền, chàng tìm được thím và hai em, chàng vội cởi trói và tìm lời an ủi, đồng thời sai người báo tin ngay lập tức cho Đào Thế-Hùng.
Hải đội trưởng Trần Như-Ý báo cáo:
- Thuyền chúng tôi ít, thuyền địch nhiều nên chỉ bắt được chiến thuyền với 5 dân thuyền, đánh chìm 12 dân thuyền, nhưng có 4 dân thuyền thoát được, vậy xin đại tướng quân cho quân đuổi theo.
Đào Kỳ ban lời khen rồi lắc đầu:
- Không cần thiết, chúng không chạy thoát đâu. Ta cứ từ từ theo sau cũng được.
Chàng sai bắn tên lửa lên trời báo hiệu cho Lê Chân biết đã xong mọi việc, và quay hỏi Đàm Ngọc-Nga:
- Sư tỷ nghĩ xem có khi nào bọn Trương Thanh chạy về phía Nam không?
Ngọc-Nga lắc đầu:
- Không! Có lẽ chúng thoát trong bốn dân thuyền kia.
- Như vậy chúng sẽ bị bắt hết. Thôi chúng ta trở về huyện đường.
Truyền trở lại huyện đường đã thấy Lê Chân cùng các chiến thuyền neo tại bến Đăng-châu. Chàng dặn Trần Như-Ý tiếp tục tuần hành trên sông rồi cùng mọi người lên bờ. Huyện đường do tráng đinh trang Hiển-minh chiếm đóng, ba tốt do đệ tử Đào Thế-Hùng chỉ huy cũng rút về. Tốt quân Hán trấn đóng cửa Nam cũng đã đầu hàng. Chàng để việc kiểm điểm tù binh cho Đào Thế-Hùng. Cuộc tấn công thành công mỹ mãn, phía tấn công không ai bị thiệt mạng, phía theo Trương Thanh thiệt hại 8 người trong lúc hỗn chiến với đệ tử của Đào Thế-Hùng.
Đào Thế-Hùng tập họp văn võ bá quan cùng quân sĩ huyện Đăng-châu lại để ủy lạo. Ông cho biết chỉ hai người bị tội là Trương Thanh và Lưu Chương, còn tất cả chỉ vì bắt buộc phải thừa hành nên được miễn tội và giữ nguyên chức vụ cũ. Bá quan, tướng sĩ Đăng-châu hoan hô vang dậy, rồi ai về nhà nấy. Tới gần sáng mới thấy Tôn Mạnh trở về, y dẫn theo khoảng 30 người bị bắt trong đó có vợ, tỳ thiếp và con gái Trương Thanh là Trương Thanh-Mai, cùng họ hàng thân thuộc. Duy có Trương Minh-Đức và Tường-Quy không thấy đâu. Đào Thế-Hùng tra hỏi Trương Thanh, được biết con trai và con dâu đi trên dân thuyền bị đánh chìm trên sông, chắc bị chết đuối. Đào Kỳ thất kinh hồn vía, truyền lệnh cho hải đội trưởng Trần Như-Ý phải tìm cách vớt mọi người chết chìm, và mang nộp tất cả tử thi.
Đáng lý xong việc Đăng-châu, Đào Kỳ phải trở về Luy-lâu ngay. Nhưng chàng viện cớ do đất Đăng-châu chưa yên để lần lửa ở lại chờ tin Tường-Quy. Chàng cho ngựa lưu tinh báo tin thắng trận với Lĩnh-nam vương. Hai ngày sau, sứ giả từ Luy-lâu đến trao lệnh bảo chàng phải về ngay. Sứ giả mang sắc phong của Lĩnh-nam vương cử Phùng Đại-Tín, cha của Phùng Vĩnh-Hoa thọ chức huyện lệnh. Dân chúng được tin reo hò mừng rỡ, vì Phùng Đại-Tín là người tài, đức thương dân, đồng thời huyện Đăng-châu có huyện lệnh và huyện úy cùng là người Việt.
Chiều hôm ấy, Trần Như-Ý báo cáo vớt được tất cả 23 người, nhưng không có thi thể của Tường-Quy và Minh-Đức. Hẳn hai người chết đuối, xác trôi đi xa, trước khi Trần Như-Ý chăng lưới vớt xác.
Đào Phương-Dung hiểu tâm sự anh, nàng an ủi:
- Tường-Quy chết chìm như vậy là may. Trương Thanh làm phản, cả nhà tất bị chém. Liệu anh có can đảm chém Tường-Quy không?
Đọan nàng sai làm mâm cơm với đầy đủ lễ vật, đem ra bờ sông để Đào Kỳ tế Tường-Quy. Đào Kỳ đứng trước bàn thờ khói hương nghi ngút, tưởng nhớ lại khuôn mặt ôn nhu của Tường-Quy, hình ảnh buổi đầu tiên gặp gỡ ở Thái-hà trang, rồi cùng nhau du lịch cố đô Cổ-loa. Tới khi chàng đi Đăng-châu thăm nàng, bị đánh một chưởng, đâm một kiếm,... và chàng với Tường-Quy ở trên hoang sơn một đêm với nhau.
Đợi anh khóc cạn hết nước mắt. Đào Phương-Dung mới kéo anh về huyện đường. Chàng sai đóng gông giải cả gia đình Trương Thanh và Lưu Chương về Luy-lâu.
Phùng Vĩnh-Hoa nói:
- Chị thấy ở đây chưa an, lòng người chưa khuất phục, thì chú em và cha chị làm sao làm việc được? Muốn người các thuộc cấp Hán nghe lệnh phục tùng, phải cần đem chém hai người để thị oai.
Thấy Đào Kỳ ngần ngừ, nàng lại nói:
- Đức Khổng phu tử làm tướng nước Lỗ có ba ngày, ngài sai chém gian thần Thiều Chính-Mão. Đệ tử hỏi sao thầy là người nhân nghĩa mà giết người? Ngài trả lời: Cần giết một người, để cứu vạn người. Vậy bây giờ cần giết hai tên Trương Thanh và Lưu Chương để làm gương cho bọn Hán quy phục Huyện-lệnh và Huyện-úy.
Đào Kỳ đành chấp thuận. Chàng tập trung dân chúng ngoài chợ, kể tội hai tên Trương Thanh và Lưu Chương, sai chém đầu, đem bêu khắp các trang. Còn gia đình giải về Luy-lâu cho Nghiêm Sơn định đoạt.
Trước khi cùng Đào Kỳ trở về Luy-lâu, Phùng Vĩnh-Hoa dặn cha:
- Bố với chú Đào Thế-Hùng giờ đây như chân với tay, giờ con không còn phải lo lắng gì nữa. Chỉ khi nào có lệnh khởi binh. Bố phải ở nhà giữ huyện cho chắc, để mình sư thúc tiến quân lên Luy-lâu, bố đừng vì nóng lòng mà cả hai bỏ đi.
Đào Kỳ cho lệnh Tôn Mạnh rút quân trước, rồi cùng Thiều-Hoa, Lê Chân, Vĩnh-Hoa, Giao-long nữ lên ngựa trở về Luy-lâu. Tới nơi đã thấy Nghiêm Sơn và Tô Định thân ra đón. Nghe Thiều-Hoa tường thuật chi tiết trận đánh, vương gật đầu tỏ ý hài lòng. Vương là một vị tướng không hiếu sát. Từ khi giúp Quang-vũ đánh dư trăm trận, nhưng bao giờ vương cũng lựa đường lối ít đổ máu nhất. Khi Thiều-Hoa thuật đến chỗ Tường-Quy và Trương Minh-Đức chết chìm mất xác, vương không tin:
- Ta nghi tiểu sư đệ thả hai người trốn chạy thì đúng hơn. Địa vị ta là tiểu sư đệ chắc cũng thả cho họ.
Nhưng khi nghe thuật Đào Kỳ ra sông tế Tường-Quy, Trưng Nhị nói:
- Vậy thì không phải rồi, nếu Tam đệ thả họ đi, chắc y sẽ chịu lỗi với đại ca, chứ y không làm trò hề, bày cuộc tế vọng, lừa dối chúng ta đâu.
Thiều-Hoa hiểu tính tình Đào Kỳ, vì hai chị em sống bên nhau đã lâu, nàng cũng đồng ý với Trưng Nhị.
Nghiêm Sơn tưởng thưởng quân sĩ hữu công. Khi điểm danh sách tù binh không thấy tên Trương Thanh và Lưu Chương, chàng ngạc nhiên và được Thiều-Hoa cho biết, Đào Kỳ đã nghe lời Vĩnh-Hoa chém hai người giữa chợ để răn chúng. Vương nhìn Phương-Dung rồi nói với Thiều-Hoa:
- Ở nhà ta với Dung muội cũng ước tính Phùng Vĩnh-Hoa sẽ chém hai tên này chứ không phải Đào Kỳ.
Vương giao Tô Định xử lý tù nhân gia đình Lưu, Trương và dùng của cải hai tên này, để phủ tuất nạn nhân của cuộc chiến ở Đăng-châu. Xong chàng quen lệ hỏi:
- Còn ai khiếu nại điều gì không?
Giao-long nữ Trần Quốc dơ tay:
- Ai có công cũng được thưởng hết. Tiểu muội lặn dưới nước, đục thuyền, cắt dây buồm, bắt sống Lưu Chương sao không được vương huynh thưởng gì hết?
- Thế sư muội muốn ta thưởng gì?
-Tiểu muội muốn vương huynh gia phong cho làm đô đốc thủy quân!
- Không được, việc quân không phải việc đùa. Tiểu sư muội mới có 17 tuổi sao lĩnh được chức Đô đốc? Đợi qua năm 18 tuổi thành người lớn đã!
Giao-long vùng vằng không chịu:
- Thế xưa kia, tổ sư phái Sài-sơn là Phù-đổng Thiên-vương mới có 7 tuổi đã làm nguyên soái đánh giăc Ân thì sao? Nếu đợi 18 tuổi thì còn gì là đất nước. Và nếu đại ca bảo tiểu muội là trẻ con, sao đại ca lại dùng trẻ con đánh giặc? Bất công, tiểu muội nhất định không chịu!
Nghiêm Sơn đành dỗ:
- Thôi được, đợi đại quân tới Quế-lâm, ta sẽ giao đội Hải quân cho sư muội chỉ huy. Trong cuộc viễn chinh này chỉ có hải quân Quế-lâm tham dự. Còn hải quân Nhật-nam, Giao-chỉ, Cửu-chân không dùng tới. Họ chỉ lo nhiệm vụ tải lương mà thôi.
Ngày xuất quân đã đến. Các đoàn quân Hán từ khắp Giao-chỉ, Cửu-chân, Nhật-nam tề tựu về. Các huyện lệnh, huyện úy đều có mặt. Kỵ binh, bộ binh dàn ra. Ở giữa đã dựng sẵn một đài cao. Cờ xí ngợp trời.
Nghiêm Sơn cỡi bạch mã duyệt binh, rồi vương lên đài:
Một viên văn quan đọc hịch xuất quân cho ba quân tướng sĩ nghe. Nghiêm Sơn cũng vận khí đơn điền lớn tiếng dặn quân sĩ phải hết lòng, không được trộm cướp, hiếp đáp dân chúng, bất cứ ai vi lệnh sẽ bị chèm không tha. Sau đó ba hồi chiêng, trống vang lên, pháo lệnh nổ liên hồi. Một giáp sĩ dẫn con trâu ra chém trước cờ, lấy chậu hứng máu dâng lên Nghiêm Sơn. Vương quay qua Phương-Dung:
- Phiền Quân-sư viết chữ cho!
Phuông-Dung hoa tay cầm bút viết đại tự:
Lĩnh-nam vương, Tả tướng quân Nghiêm
Nghiêm Sơn ra lệnh để đầu trâu lên đàn tế cờ. Cuộc tế theo nghi thức xong, các tướng dẫn đoàn quân của mình ai về trại đó nghỉ, ngày mai lên đường sớm.
Nghiêm Sơn ra lệnh:
- Đào Kỳ lĩnh ấn Chinh-viễn đại tướng quân, thống lĩnh 3 Quân bộ, 3 Sư kỵ với các cao nhân theo trợ giúp là: Nam-hải nữ hiệp, Trường-yên nữ hiệp, Thiên-thủ viên hầu, cùng 3 sư muội là Trần Năng, Lê Chân, Phương-Dung. Tới Côn-minh dừng lại đợi ta.
- Sư thúc Đinh Công-Thắng lĩnh ấn Hổ-oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo Giao-chỉ gồm: 4 Quân bộ, 3 Sư kỵ đi cánh thứ nhì. Phụ giúp có các cao nhân Khất đại phu, Lê Ngọc-Trinh, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa.
- Sư thúc Triệu Anh-Vũ lĩnh ấn Chinh-di đại tướng quân, thống lĩnh đạo Cửu-chân gồm: 3 Quân bộ, 3 Sư kỵ. Cao nhân theo trợ giúp gồm: Nữ hiệp Phùng Vĩnh-Hoa, Đàm Ngọc-Nga và Vương phi Hoàng Thiều-Hoa.
- Kỳ dư tất cả đi theo đạo trung quân do vương thống lĩnh!
Trời tháng mười, gió heo may len lỏi trong sương mai. Cây cỏ tiêu sơ. Miền Bắc Giao-chỉ lạnh buốt xương. Đào Kỳ căn dặn các tướng giữ kỷ luật nghiêm minh, cấm nhũng nhiễu dân chúng. Đi được hai ngày, quân đến một thung lũng ở giữa hai dãy núi hùng vĩ, cao chót vót. Phương-Dung nhìn núi cao, rừng già hỏi:
- Không biết đây là đất Giao-chỉ hay đã sang Quế-lâm rồi?
Trần Năng chỉ ngọn núi cao chót vót:
- Qua rặng núi này, tới một con sông nữa là địa phận Tiên-yên, nơi hành hiệp của đệ tam sư thúc? Vì vậy người có mỹ hiệu là Tiên-yên nữ hiệp. Suốt dãy Đông-triều bị ảnh hưởng của Cấm-sơn hay Ma tần lĩnh. Cách đây mấy trăm năm Trung-tín hầu Cao Nỗ tục danh Ông Nồi phá quân Đồ Thư, giết hơn 50 vạnquân Tần ở đây. Tương truyền quân Tần bị vây hãm, rồi bị Hầu dùng hỏa công thiêu chết trong khe núi. Xác chết bốc mùi thối hơn trăm dặm, do đó khi gió lùa đi từ Cấm-sơn ra gây nên bệnh thời khí. Dân chúng dị đoan cho rằng hồn quân Tần ra hại người, nên lập miếu thờ và gọi Cấm-sơn là Ma-tần lĩnh.
Ghi chú.
Địa phận này, ngày nay thuộc vùng Chi-lăng.
Đi được một lát, Lê Chân chỉ ngôi miếu lớn gần đường, Đào Kỳ và mọi người vào miếu. Dân chúng đang đốt nhang vái xì xụp. Họ thấy quan binh thì tránh dạt sang bên có vẻ sợ hãi. Chợt có người nhận được mặt Lê Chân reo lên:
- Đông-triều nữ hiệp! Thì ra là người. Người đi đâu đến đây?
Lê Chân phủ dụ họ và hỏi han sự tình. Dân chúng đồng nói:
- Cách nay mấy ngày, gió chướng từ Ma Tần lĩnh thổi qua, cả vùng bị bệnh, chết không biết bao nhiêu mà kể. Chúng tôi phải cúng quảy những con ma Tần. Khổ lắm cô ơi! Bọn ma này hoành hành từ lâu đời rồi.
Đào Kỳ hỏi Trần Năng:
- Hùng phu nhân, người thử xem họ bịnh gì,
Trần Năng đến chẩn mạch, xem lưỡi hỏi han mấy con bệnh hiện diện, một lát trở lại nói:
- Tôi xem mạch, thấy Phù mà xác, lưỡi khô, bợn lưỡi vàng, mồ hôi xuất, người sốt, mắt đỏ, tiện bí. Rõ ràng bị Phong nhiệt làm cảm mạo, chứ không có ma Tần, ma Hán nào làm ra cả. Muốn chữa trị không khó đâu!
Lê Chân hành hiệp ở vùng này nhiều năm, nàng coi dân chúng như tay chân ruột thịt, vội nối với Trần Năng:
- Sư muội! Trước đây nhiều lần chị muốn phá ngôi đền này nhưng sợ dân chúng phản đối. Nếu em chữa trị khỏi bệnh cho họ, chị có cách làm cho dân chúng tự động phá miếu.
- Muốn giải Phong nhiệt, phải dùng Ma hoàng phát mồ hôi. Mồ hôi ra Phong nhiệt được giải. Thêm hạnh nhân cho bớt ho, bớt sưng cổ. Cam thảo làm vị thuốc hòa các vị khác với nhau. Sau cùng Thạch cao để hạ nhiệt xuống. Sở dĩ có người chết vì Phong nhiệt nhập bì mao làm bế tắc phế khí, rồi đưa đến mũi nghẹt, hầu sưng, hơi thở bế tắc, nhiệt độc nhập tim, làm tim ngưng đập. Vì vậy dùng Ma hoàng, Thạch cao, Hạnh nhân giải Phong nhiệt, sẽ khiến Phế khí thông được với bì mao. Bệnh nhân khạc ra đờm được thì bệnh khỏi.
Bệnh Phong nhiệt mà Trần Năng nói đó ngày nay gọi là Cúm. Theo Tây-y là chứng grippe do siêu vi trùng gây ra. Với y học Việt-Hoa ngày xưa, bài thuốc của Trần Năng chữa trị có kết quả vẹn toàn.
Trong quân Hán tại Lĩnh-Nam có nhiều thầy thuốc đi theo, họ có sẵn những vị thuốc căn bản thường dùng. Trần Năng cho gọi quân y sĩ lấy một ít, dân chúng tìm hái những vị có sẵn. Nàng sai lấy thùng lớn, nấu thuốc cho dân chúng uống. Vài khắc sau, những người khỏe, bệnh nhẹ, khạc ra đờm hết ho, hết sưng cổ. Những người mê man tỉnh dần nhiệt hạ, ăn uống biết ngon.
Đào Kỳ căn dặn chư tướng tiếp tục đưa quân lên đường, còn chàng ở lại với bộ chỉ huy chờ trị bệnh cho dân. Chiều Lê Chân nói:
- Chúng ta nên đi thăm Ma Tần lĩnh, để biết dấu vết chiến trường cổ, nơi Trung-tín hầu đánh tan quân Tần.
Mọi người theo Lê Chân vào một khu lòng chảo, thấy trê góc núi có một tấm bia đá rất lớn, tạc một bài ký. Phương-Dung lớn tiếng đọc:
Đại phàm, vạn sự ở thế gian đều do thượng đế sắp đặt. Xưa kia vua Đế Minh cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ-lĩnh gặp Tiên nữ, kết hôn với nhau, sinh được Thái-tử đặt tên là Lộc Tục. Vua Đế Minh ở với Tiên ít lâu rồi trở về phương Bắc. Ngài truyền các quan lập đàn tế trời rồi thề rằng:
"Ta nhất sinh có nhiều cung tần mỹ nữ, nhưng chỉ sinh có một Thái tử. Sau lại kết hôn với Tiên nữ ở Động-đình hồ mà có thêm Lộc Tục. Vậy ta phong Thái tử làm vua phương Bắc đến núi Ngũ-lĩnh. Từ núi Ngũ-lĩnh về Nam, gọi là Lĩnh-nam, phong cho Lộc Tục làm vua. Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương ".
Kể từ đấy thiên hạ chia đôi. Bắc do vua Đế Nghi cai trị. Nam do Thái tử lên ngôi, hiệu là Kinh-dương vương. Nước Lĩnh-nam phía Bắc tới Động-đình hồ, phía Nam giáp với nước Hồ-tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, Đông giáp biển Nam-hải. Kinh-dương vương kết hôn với con gái của Động-đình quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm. Thái tử Sùng Lãm kế tục ngôi vua lấy hiệu là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết hôn với Công chúa Âu Cơ con vua Đế Lai, sinh được trăm con. Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng làm vua, hiệu là Hùng vương, đặt tên nước là Văn-lang. Lại phong 99 con mỗi người làm chủ một ấp, vì vậy đất Lĩnh-nam mới có trăm họ. Đó là nguồn gốc Bách-việt vậy.
Nước Văn-lang chia làm 15 bộ:
Văn-lang Tân-hưng
Lục-hải Giao-chỉ
Hoài-hoan Châu-diên
Vũ-định Ninh-hải
Cửu-chân Cửu-đức
Phú-lộc Vũ-ninh
Dương-tuyền Nhật-nam
Việt-thường
Nước Văn-lang truyền được 88 đời vua. Kể từ năm Nhâm-tuất, Kinh-dương vương lập quốc đến năm Quí-mão bị vua An-dương bản triều chinh phật vong quốc dài 2622 năm. Danh hiệu 88 đời coné lưu truyền được 18 đó là:
1. Lục-dương vương 0
2. Hùng-hiển vương 0
3. Hùng-quốc vương
4. Hùng-diệp vương
5. Hùng-hy vương
6. Hùng-huy vương
7. Hùng-chiêu vương
8. Hùng-vi vương
9. Hùng-định vương
10. Hùng-nghi vương
11. Hùng-trinh vương
12. Hùng-vũ vương
13. Hùng-việt vương
14. Hùng-anh vương
15. Hùng-triệu vương
16. Hùng-tạo vương
17.Hùng-nghi vương
18. Hùng-tuyên vương
Năm Đinh-hợi, niên hiệu An-dương vương thứ 44, Tần-thủy hoàng sai tướng Đồ Thư mang 500 ngàn quân sang đánh Bách-việt, chiếm đất phía Nam Ngũ-lĩnh. Đặt ra 3 quận Quế-lâm, Nam-hải và Tượng-quận. Vua An-dương cử ta đem quân chống giặc Tần. Tháng 11 năm ấy giết Đồ Thư, phá tan quân Tần ở chỗ này.
Than ôi! Tần-thủy hoàng diệt 800 chư hầu Trung-nguyên, làm vua một vùng đất rộng chưa cho là đủ, quên lời thề tổ tiên, xâm chiếm Lĩnh-nam, nên Đồ Thư mới bị giết.
Ta nhân ngày lành tạc bia này cho đời sau biết.
Niên hiệu An-dương thứ 45, năm Mậu Tuất tháng 3 ngày rằm làm bia này.
Bình-bắc đại tướng quân tước Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung ghi.
Trần Năng tính đốt ngón tay nói:
- Tính từ khi lập quốc đến đời vua An-dương vương là 2.622 năm. Vua An-dương ở ngôi được 50 năm thì bị Triệu Đà chiếm mất. Từ ngày chúng ta mất nước đến nay là 243 năm. Như vậy nước Lĩnh-nam chúng ta lập quốc được 2.915 năm.
Lê Chân ít đọc sách, không thạo địa dư hỏi:
- Nước Hồ-tôn là nước nào vậy?
Thiên-thủ viên hầu đáp:
- Tiếp giáp với phía Nam của Nhật-nam. Bây giờ đổi quốc hiệu là Chiêm-thành. Nước này có nền văn hiến không phải tầm thường. Võ công của họ lấy dương cương làm căn bản.
Đào Kỳ thở dài:
- Nước Lĩnh-nam chúng ta vốn có cương thổ, trước kia từ hồ Động-đình phía Nam núi Ngũ-lĩnh. Nhà Tần sang đánh, chúng ta phải lùi về vùng Giao-chỉ ngày nay. Đồ Thư chiếm đất đai phía Bắc lập ra Quế-lâm, Tượng-quận, Nam-hải giao cho Triệu Đà trấn nhậm. Khi Triệu Đà khởi binh diệt vua An-dương chiếm Âu-lạc. Lĩnh-nam lại được thống nhất. Không biết bây giờ chúng ta phục quốc, chỉ đòi lại Quế-lâm, Cửu-chân và Giao-chỉ. Hay là đòi hết đất đai từ phía Nam núi Ngũ-lĩnh?
Lê Chân khảng khái rút kiếm chém tảng đá bể đôi nói:
- Phải chiếm lại hết! Một tấc đất của tổ tiên cũng không bỏ.
- Nhưng sư tỷ không biết đó thôi. Từ hơn hai trăm năm nay người phương Bắc xuống lập nghiệp tại vùng Nam-hải, Tượng-quận. Còn người Việt ta bỏ xuống Giao-chỉ, Quế-lâm. Nay muốn chiếm lại đất e khó khăn lắm.
Trần Năng kiên quyết:
- Sư thúc, một tấc đất cũng phải đòi. Người Hán đến Tượng-quận, Nam-hải đồng hóa người Việt, nay ta cứ đòi rồi đồng hóa lại họ chứ có gì đâu?
Nam-hải nữ hiệp nhìn Trường-yên đại hiệp lẩm nhẩm gật đầu, tỏ ý thông cảm với nhau. Bởi thế hệ của bà đã trên 60 tuổi, sống lâu dài trong tăm tối vong quốc. Bị người Hán đô hộ khổ nhục tưởng không sống được. Thế hệ bà, mọi người chỉ mong người Hán để yên thân, nay hy vọng phục quốc lóe lên, việc phục hồi Lĩnh-nam, chỉ trong một sớm, một tối. Đám trẻ lại muốn đi xa hơn, tức là đòi lại vùng đất phía Nam Ngũ-lĩnh. Bà thấy lòng bừng bừng như uống rượu say, mỉm cười sung sướng một mình. Lê Chân liếc mắt thấy hôm nay nét mặt sư phụ tươi hồng trẻ hẳn lại hàng chục tuổi. Nàng ngạc nhiên:
- Sư phụ! Không hiểu sau hôm nay sư phụ lại cao hứng thế? Sư phụ có thể cho chúng đệ tử biết không?
Nam-hải nữ hiệp mỉm cười:
- Sư phụ thấy con chém đá, Trần Năng lại lập chí đòi đồng hóa lại người Hán, thì biết chúng con hơn chúng ta nhiều, vì vậy ta vui lắm.
Sau hai ngày, dân chúng hầu hết đã khỏi bệnh. Ba vị trang trưởng thân đến tạ ơn Trần Năng, Đào Kỳ và Lê Chân.
Phương-Dung nói với Lê Chân và ba vị trang trưởng:
- Đông-triều nữ hiệp và ba vị trang trưởng ở vùng này sao lại để cho tên giăc bại trận Đồ Thư làm hại dân chúng? Vừa qua có hàng chục người chết vì chúng, mấy trăm người bệnh hoạn. Nay Hùng phu nhân ra tay cứu chữa khỏi, như vậy trận đấu giữa Hùng phu nhân và đám ma Tần đã rõ. Vậy nữ hiệp còn đợi gì mà không đánh cho chúng mấy roi để lần sau không còn hoành hành hại người?
Các trang trưởng nghe vậy mừng lắm. Họ cho rằng nếu trừ tiệt được đám cô hồn Đồ Thư, để khỏi phải cúng tế như một vị thần thì sung sướng biết mấy.
Lê Chân cùng ba vị trang trưởng tụ tập dân chúng trước bàn thờ Đồ Thư. Mở cửa thấy hai con ngựa gỗ, trên có hai tướng cầm đao oai phong lẫm liệt. Ở giữa bệ Đồ Thư ngồi trên ngai lưng đeo kiếm. Lê Chân lớn tiếng nói với Đào Kỳ:
- Trước kia Trung-tín hầu Vũ Bảo Trung giết Đồ Thư tại đây, Trung-tín hầu là tổ sư sáng lập phái Cửu-chân. Vậy hiền đệ là đệ tử phái Cửu-chân hãy thay ngài đánh chúng vài chưởng!
Đào Kỳ lùi lại vận khí, phát một chiêu trong Thiết-kình phi chưởng đánh ngay tượng Đồ Thư. Bình một tiếng tượng tan nát. Đào Kỳ đánh tiếp hai chưởng, đập tan nát cả người lẫn ngựa hai viên tướng hầu. Mọi người thất kinh hồn vía vì thấy máu văng khắp đền tanh hôi chịu không được.
Lê Chân chỉ vào pho tượng nát vụn, đầm đìa máu quát:
- Thế là chúng mày chết lần nữa. Từ nay không được hại người.