Vô Kỵ liền ra lệnh:
- Nhuệ Kim, Hồng Hỏa hai kỳ ra chống đỡ trận đấu. Chu Ðiên và Thiết Quan đạo trưởng hai vị giúp đỡ một kỳ.
Chu Ðiên, Thiết Quan hai người liền vâng lệnh đi liền.
Cục diện đã khẩn cấp như vậy không cho phép Vô Kỵ từ chối nữa chàng liền ra lệnh:
- Nói Không Ðược sư phụ làm ơn cầm thánh hỏa lệnh của tôi đi triệu viện binh của bổn giáo lên núi tiếp ứng ngay.
Nói Không Ðược liền đi luôn.
Các anh hùng ở trên đại điện võ công tuy cao cường nhưng là quân ô hợp, nghe thấy quân Nguyên đã đánh tới ai nấy đều rút khí giới ra vội nhảy ra ngoài.
Dương Tiêu thấy vậy vội nói:
- Thưa giáo chủ, nếu giáo chủ không ra hiệu lệnh thì họ chém giết loạn xạ thế nào cũng thất bại!
Vô Kỵ gật đầu, liền chạy ra ngoài điện, đi tới cái đình chỗ lưng chừng núi xem xét.
Thấy hơn năm ngàn quân tiên phong của Mông Cổ đã tấn công lên tới lưng chừng núi rồi nhưng bị cung nỏ và đao thương của Nhụê Kim kỳ xua đuổi đều bỏ chạy hết.
Chàng đưa mắt nhìn về phía xa thấy từng đội lính Mông lần lượt tiến tới. Quân ngũ của chúng rất chỉnh tề oai nghi.
Lúc ấy cách thời Thành Cát Tư Hãn với Bạt Ðô oai trấn thiên hạ đã xa nhưng thiết kỵ của Mông Cổ vẫn luyện tập luôn nên quân của họ tinh nhụê có một không hai trên thế giới.
Chàng bỗng nghe thấy bên trái có tiếng kêu la động trời và thấy có rất nhiều nữ ni và thanh thiếu nữ chạy ngược lên trên núi.
Những người đó toàn là người của phái Nga Mi, chắc giữa đường bị lính Mông Cổ đẩy lui nên phải quay lại.
Chu Chỉ Nhược cùng Tĩnh Tuệ mọi người đi sau đoạn hậu.
Mấy người đàn ông khiêng một cái cáng với đồ vật đang bị quân Mông Cổ bao vây. Chu Chỉ Nhược huy động bọn đệ tử đã mấy lần xông vào đánh nhưng không sao cứu nổi đồng môn bị bao vây.
Vô Kỵ thấy vậy kêu thầm: "Nguy tai! Chắc cái cáng đó là cáng của Tống Thanh Thư cũng nên!"
Chàng liền kêu gọi:
- Liệt Hỏa, Nhụê Kim hai kỳ yểm trợ Vi Huynh, Phạm Dao theo tôi xuống cứu người.
Nói xong chàng xông xuống núi trước.
Hai tên lính Mông vừa thấy chàng liền đưa xà mâu ra đâm.
Chàng chộp luôn lấy hai chiếc xà mâu đó vận sức hất mạnh một cái.
Hai tên lính Mông đó rớt xuống núi ngay.
Vô Kỵ liền xoay hai chiếc xà mâu lại xông vào đám lính đông như kiến tựa như hai con rồng ra bể.
Nhất Tiếu, Dương Tiêu, Phạm Dao, Bành Doanh Ngọc theo sát sau. Lính Mông va chạm với mấy người đó đều gục ngã liền.
Chỉ thoáng cái cả bọn đã tiến qua mặt bọn Chu Chỉ Nhược.
Phạm Dao lại tấn công một quyền, đánh cho một tên thập phu chưởng Mông Cổ nát mặt, cướp luôn người bị thương nằm trên cáng, kẹp nách và quay mình chạy luôn lên núi.
Vô Kỵ thấy Chu Chỉ Nhược mặt dính đầy máu mà lại xông vào đội lính Mông liền lớn tiếng gọi:
- Chỉ Nhược, đã cứu được Tống đại ca rồi!
Chu Chỉ Nhược không thèm đếm xỉa đến lời kêu gọi của chàng cứ mau roi tấn công về phía trước.
Nhưng đường núi vốn chật hẹp, người thì đông đúc nên nàng không thể xông qua được. Vô Kỵ thấy còn hai đệ tử của Nga Mi khiêng một cái cáng nữa vẫn còn bị bao vây, chúng đang cầm cự với lính Mông chàng liền nghĩ thầm:
- Chẳng lẽ người trên cáng này mới là Tống sư ca chăng?
Nghĩ đoạn chàng múa hai cây xà mâu rồi tung mình nhảy lên, cứ chống hai cây mâu đó vào vách núi mà đi tựa như người ta đi cà kheo vậy.
Còn cách hơn trượng mới tới nơi, chàng đã thấy hai đệ tử của phái Nga Mi đó trước sau bị tên bắn trúng, ngã lăn lóc xuống núi.
Vô Kỵ thất kinh, phi thân nhảy tới, giơ chiếc mây bên trái ra, cản trở không cho chiếc cán đó rơi xuống vực.
Quả nhiên chàng thấy người nằm trong cáng toàn thân được băng vải trắng toát, chỉ chừa có hai mắt. Người đó chính là Tống Thanh Thư.
Chàng vội vứt xà mâu, ôm luôn Thanh Thư vào.
Chàng cảm thấy người y nặng khác thường và trong lần vải băng hình như có vật gì cứng rắn khôn tả.
Nhất thời chàng không kịp suy nghĩ, chỉ sợ đụng chạm mạnh, xương của Thanh Thư bị gãy nên chàng phải né phải, tránh trái, luồn lách giữa những thế mâu của quân Mông Cổ đâm tới lia lịa.
Chân chàng đi rất vững. Chàng đã thấy Hân Lợi Hanh, Trương Tòng Khuê tấn công tới. Hai người cầm trường kiếm bảo vệ hai bên.
Kiếm của hai đại hiệp đâm tới đâu lính Mông gục tới đó.
Nhờ có Tòng Khuê và Lợi Hanh bảo vệ nên Vô Kỵ mới được bình yên ẳm được Thanh Thư đi lên trên núi.
Mấy trăm lính Mông Cổ xếp hàng xông lên, Bành Doanh Ngọc liền ra lệnh:
- Liệt Hỏa Kỳ ra đây.
Giáo chúng của Liệt Hỏa Kỳ liền dùng ống đồng phun dầu đá và những hỏa tiễn ra.
Thế là hơn hai trăm tên lính Mông Cổ đều bị cháy xem tên nào tên nấy tựa như một trái cầu tròn, lăn long lóc xuống núi.
Bên kia Hồng Thủy Kỳ cũng dùng vòi rồng phun nước độc xuống. Có mấy trăm tên lính trúng phải thuốc độc, chết lăn ra bừa bãi.
Quần hùng thừa cơ xông lên chém giết. Tên Vạn phu chưởng của lính Mông Cổ ở dưới lưng núi thấy vậy, liền gõ chiêng thâu binh.
Những binh lính của chúng liền đổi tiền đội thành hậu đội và dùng cung nỏ bắn trở lên, không cho quần hùng xông tới truy kích. Rồi chúng từ từ rút lui xuống bên dưới.
Bành Doanh Ngọc thở dài và nói:
- Quân Mông Cổ tuy bại nhưng không rối loạn, đủ thấy chúng quả là tinh binh của thiên hạ.
Mọi người thấy quân Mông Cổ đã lui xuống chân núi, giải tán bốn bên như hình cái quạt, thì biết nhất thời chúng chưa dám lên núi vội.
Vô Kỵ liền hạ lệnh:
- Nhuệ Kim, Liệt Hỏa, Hồng Thủy tam kỳ, canh giữ lấy các đường lối lên núi. Cự Mộc, Hậu thổ nhị kỳ, mau chặt gỗ dọn đất để làm hào lũy phòng vệ quân địch lên đánh phá.
Nõ hành kỳ đều nhận lệnh của chàng đi phòng bố ngay.
Thoạt tiên quân hùng ai nấy tự phụ mình có võ công đều nghĩ dù không chém giết được quân địch thì cũng có thể bảo vệ lấy thân được, nhưng vừa rồi trải qua một trận giao chiến, họ mới nhận thấy oai lực của quân Mông Cổ như thế nào và họ biết hành quân đánh trận khác hẳn với một trận đấu tỷ võ thường của mình.
Quân Mông Cổ hàng vạn người xông lên, mạnh như nước hồng thủy, người có võ công lợi hại như Chỉ Nhược mà ở trong đám đông ấy cũng không thể dở tài ba ra được. Nếu không có trận pháp Ngũ hành kỳ của Minh giáo chống đỡ cho thì lúc này trên núi Thiếu thất đã bị quân Mông Cổ chiếm mất rồi, và các người sẽ bị chúng chém giết một cách thảm thiết cũng nên?
Riêng có tăng chúng của chùa Thiếu Lâm là vẫn có qui luật, từng đội hòa thượng trẻ tuổi, tay cầm thuyền trượng, giới đao, nghe lệnh của các nhà sư lớn tuổi phân đi các nơi canh phòng. Nhưng vì ít không địch nổi nhiều, tất nhiên sức lực của mấy ngàn tăng chúng làm sao chống đỡ nổi hơn hai vạn quân lính Mông Cổ tinh nhuệ như thế?
Vô Kỵ đặt Thanh Thư xuống, rờ tay vào mũi chàng, thấy hơi thở liền quay đầu lại định gọi Chỉ Nhược, nhưng chàng không thấy hình bóng của nàng đâu cả.
Chàng liền hỏi:
- Tống phu nhân đâu rồi?
Mọi người vì lo xua đuổi quân Mông Cổ nên không ai biết Chỉ Nhược đi đâu.
Các đệ tử của Nga Mi lúc này đã hết coi Minh giáo là kẻ thù nên họ đồng thanh trả lời là không thấy người chưởng môn của mình đâu cả.
Vô Kỵ sợ lúc hỗn loạn, nhỡ Thanh Thư bị thương thêm thì sao, nên chàng vội cởi vải bó quanh mình Thanh Thư ra xem.
Chàng thấy trên người của Thanh Thư có quấn tất cả ba lần vải trắng.
Ðến khi cởi xong ba lần vải trắng đó ra liền có tiếng kêu "coong coong" và có bốn mảnh khí giới gãy rơi ra.
Vô Kỵ giật mình kinh hãi và la lớn:
- Ðồ Long đao và ỷ Thiên kiếm.
Quần hùng nghe nói ba chữ Ðồ Long đao liền quay đầu lại nhìn xem.
Nhưng thấy Ðồ Long đao đã gãy làm hai khúc, cả ỷ Thiên Kiếm cũng vậy.
Vô Kỵ cầm nửa mảnh Ðồ Long đao lên thấy vẫn nặng chình chịch, chàng cảm xúc vô cùng vì cha mẹ mình bị chết bởi thanh đao này, vì hơn hai mươi năm nay trên giang hồ phân tranh cũng vì thanh đao này, và quần hùng tụ tập trên chùa Thiếu Lâm chủ yếu cũng vì thanh đao Ðồ Long này.
Chàng nghĩ đến thanh bảo đao đã xuất hiện, nhưng đao kiếm đã gãy rồi, hoá thành vô dụng hết.
Chàng cầm đao gãy lên xem, thấy chỗ gãy bên trong trống rỗng, có thể dấu được vật gì. Cả ỷ Thiên Kiếm cũng vậy, bên trong đều trống rỗng hết và nếu bên trong có vật gì thì người ta đã lấy đi mất rồi.
Dương Tiêu thở dài và nói:
- Thảo nào Chu cô nương có võ công kinh như thế, thì ra nàng đã học quyền kiếm trong phổ trong đao kiếm này.
Tuy Vô Kỵ là người rất nhân hậu, nhưng chàng không phải là người ngu xuẩn.
Chàng vừa trông thấy đao gãy và kiếm gãy trong lòng đã tỉnh ngộ ngay và nghĩ:
- Thế ra tối hôm đó ở trên hoang đảo, đao kiếm này là do Chỉ Nhược lấy đi. Không hiểu nàng ta dùng thủ đoạn nào mà đuổi được Triệu Minh và giết chết được Hân Ly, rồi lại dùng đao kiếm chém lẫn nhau, vì vậy hai lợi khí sắc bén nhất thiên hạ gãy đôi như thế. Rồi nàng lấy võ công bí kíp trong đao kiếm ra ngấm ngầm tu luyện. Chàng càng nghĩ càng hiểu ra, liền nghĩ tiếp:
- Phải rồi, khi lên hoang đảo, ta dùng Cửu Dương thần công xủa đuổi độc tố cho nàng, thấy trong người nàng phát sinh ra một nội lực ngấm ngầm chống lại thần công của ta. Sau thấy sức quái dị đó càng ngày càng mạnh, hiển nhiên nội công của nàng tu luyện càng ngày càng tiến bộ. Vì thời giờ cấp bách nàng lại muốn chóng thành công, không chịu luyện tập nội công căn bản trước, nên nàng chỉ học những ngoại công âm độc để mau chóng thành tài vì thế những võ công đó tuy lợi hại thật, nhưng vẫn không thể nào luyện tới mức thượng thừa được.
Chàng đang ngẫm nghĩ thì Ngô Kình Thảo, chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ tiến lên nói:
- Thưa giáo chủ, thuộc hạ xuất thân thợ rèn, đã học qua cách luyện đao kiếm để thuộc hạ thử xem không biết có thể nối lại bảo đao, bảo kiếm này không?
Dương Tiêu mừng rỡ nói:
- Thuật luyện kiếm của Ngô Kỳ Sứ quả thật là vô song, giáo chủ cứ trao cho Ngô kỳ sứ làm thử xem.
Vô Kỵ gật đầu đáp:
- Hai thanh lợi khí này đã gãy đôi, quả thật đáng tiếc. Ngô Kỳ sứ cứ thử hàn lại xem, may ra chắp nối lại được cũng chưa biết chừng.
Dương Tiêu liền nói với Hạ Diệm:
- Chưởng kỳ sứ của Liệt hỏa kỳ, luyện đao luyện kiếm cần phải có lửa mạnh vậy mong Hạ huynh đệ giúp một tay. Chắc lúc này quân Thát đát chưa tấn công lên núi đâu, anh em chúng ta cứ thủng thẳng mà làm.
Hạ Diệm cười nói:
- Việc đốt bếp thổi lửa đó là nghề của tiểu đệ.
Thế rồi hai người chỉ huy thuộc hạ, xây luôn một cái lò rất cao, chỉ để hở một lỗ hổng rộng chừng một thước cho lửa bốc lên thôi.
Những đồ nhóm bếp Liệt hỏa kỳ lúc nào cũng sẳn sàng nên chỉ trông chốc lát bếp lửa đã đỏ hồng rồi.
Ngô Kình Thảo cứ nhìn thẳng vào lò lửa, bên cạnh y có mười bảy thứ khí giới, hễ thấy lò lửa biến sắc là cho khí giới đó vào trong lò thử xem sức lửa như thế nào.
Cho tới khi ngọn lửa đã biến thành màu trắng rồi, liền hay tay cầm cái kìm gang kẹp hai mảnh đao Ðồ Long vào làm một, đưa vào trong lò.
Mọi người thấy y mình cởi trần, những sao lửa bắn vào người y mà không bị phỏng chút nào, thì đều khâm phục.
Vô Kỵ thấy vậy nghĩ thầm:
- Việc luyện đao kiếm này cũng là một tài năng lớn chứ không phải tầm thường, nếu là thợ rèn thường thì làm sao chịu nổi sức nóng như thế này?
Chàng bỗng nghe thấy hai tiếng kêu "bộp bộp" thì ra hai tên giáo chúng đang kéo ống bễ bỗng lăn ra chết giấc.
Hạ Diệm với phó kỳ sứ liền lôi hai người kia ra, rồi tự động thay hai người đó để kéo bễ.
Nội công của hai người này cao siêu hơn hai giáo chúng kia nhiều, nên ngọn lửa bốc cao hơn trước gần trượng, trông thật là đẹp mắt.
Ngô Kình Thảo đột nhiên la lớn:
- Nguy tai.
Y vội vã tung mình nhảy lùi về sau, vẻ mặt rầu rĩ.
Mọi người thấy vậy giật mình kinh hãi, nhìn tay y, thấy hai cái kiềm kia đã chảy thành nước rồi mà Ðồ Long đao vẫn không việc gì.
Y lắc đầu nói:
- Thuộc hạ bất tài và bảo đao Ðồ Long này quả danh bất hư truyền.
Hạ Diệm với người phó sứ tạm ngưng kéo bễ, lui sang một bên, cả hai người quần áo ướt đâm tựa như ở dưới nước bước lên vậy.
Triệu Minh bỗng đề nghị:
- Vô Kỵ đại ca, có phải Thánh Hỏa lệnh của đại ca cũng như Ðồ Long đao, bất cứ thứ khí giới nào cũng không chém được phải không?
Vô Kỵ đáp:
- À, phải đấy.
Chàng có tất cả sáu miếng Thánh hỏa lệnh, đã đưa cho Nói Không Ðược một miếng để điều khiển binh tướng, hiện giờ chàng còn giữ năm miếng.
Chàng vội lấy ra đưa cho Ngô Kình Thảo và nói:
- Ðao kiếm không làm được liền thì thôi, nhưng thánh hỏa lệnh này là vật báu truyền của bổn giáo, chớ để nó suy suyển.
Kình Thảo cầm lấy thánh hỏa lệnh lên xem, thấy năm miếng thánh hỏa lệnh đó không phải là vàng cũng không phải là sắt, cứng rắn khôn tả.
Cầm trong tay thấy nặng chịnh, y liền cúi đầu ngẫm nghĩ, vẻ mặt quái dị.
Vô Kỵ lại nói tiếp:
- Nếu nhận thấy không làm được thì đừng có mạo hiểm.
Kình Thảo nghe nói rùng mình, y đang trầm ngâm suy nghĩ, bỗng như người thức tỉnh, vội đáp:
- Thuộc hạ nhất thời thất thần, nên mới thất lễ như thế, mong giáo chủ tha lỗi cho. Vì thánh hỏa lệnh là dùng bạch kim huyền thiết trộn với kim cương sa mấy thứ tạo thành, lửa nóng đến đâu cũng không thể nung chảy được, nên thuộc hạ đang hoài nghi, không hiểu năm xưa người ta dùng cách gì để chế thành, vì thế nên mới thất thần như thế.
Triệu Minh vừa cười vừa xen lời nói:
- Có lẽ Ngô Kỳ Sứ phải đi Ba Tư một phen để lãnh giáo những người thợ cao tay của họ mới được. Chưởng kỳ sứ xem này, trên thánh hỏa lệnh còn có khắc những nét hoa và chữ, vậy những đường chỉ hoa và những chữ đó họ điêu khắc bằng cái gì thế?
Ngô Kình Thảo đáp:
- Muốn khắc những đường chỉ hoa và chữ lên trên thánh hỏa lệnh này không khó, chỉ cần bôi sáp trắng lên, rồi điêu khắc đường chỉ hoa với chữ sáp trắng đó. Sau đó đổ nước cường toan rất mạnh vào, chỉ vài tháng là cùng, bên dưới nó bị nước cường toan đó ăn dần và cạo sáp trắng đó đi. Ðường chỉ hoa và chữ liền hiện ra trên thánh hỏa lệnh, tiểu nhân chỉ không hiểu cách nung đúc của họ thôi.
Hạ Diệm bỗng lớn tiếng hỏi:
- Này có làm hay không đấy?
Kình Thảo vội nói với Vô Kỵ:
- Giáo chủ cứ yên tâm, liệt hỏa của chú em họ Hạ đây, tuy lợi hại thực, nhưng không làm suy suyển nổi thánh hỏa lệnh này đâu.
Hạ Diệm nghe nói trong lòng nơm nớp lo sợ, vội đỡ lời:
- Tôi hết sức quạt lửa, nếu có đốt cháy thánh hỏa lệnh của bổn giáo thì tôi không chịu trách nhiệm đâu.
Ngô Kình Thảo mỉm cười đáp:
- Chắc hiền đệ không đủ nghị lực đợi chờ lâu như thế đâu. Nhưng hiền đệ chịu được thì cứ quạt đi, tất cả trách nhiệm tôi đều gánh hết. Thế rồi, y dùng hai chiếc thánh hỏa lệnh kẹp lấy nửa thanh đao Ðồ Long và dùng hai miếng nữa kẹp lấy nửa thanh đao kia. Sau mới dùng kìm gang kẹp vào bốn miếng Thánh hỏa lệnh ấy, rồi đặt bảo đao vào trong lò lửa thiêu đốt lại. Lửa trong lò càng bốc, càng cao, đốt thêm nửa tiếng đồng hồ nữa, mọi người thấy Kình Thảo, Hạ Diệm và phó kỳ sứ của Liệt Hỏa kỳ đứng trước lò càng ngày càng tỏ vẻ mệt mỏi và dần dần chịu không nổi.
Phạm Dao đưa mắt ra hiệu cho Chu Ðiên, tay trái phẩy một cái, hai người cùng nhảy xổ lên thay tay cho Hạ Diệm với phó kỳ sứ và dùng sức kéo ống bễ.
Phạm, Chu hai người công lực hơn Hạ Diệm và Phó kỳ sứ nhiều, nên lửa trong lò cứ bốc lên thẳng và ngọn lửa trắng bạch, Kình Thảo đột nhiên quát lớn:
- Chú em họ Cố ra tay.
Phó kỳ sứ của Nhuệ Kim kỳ là Cố mạnh Lỗ, tay cầm đao sắc bén đi tới cạnh lò, múa thanh đao đến nhoáng một cái lưỡi đao nhắm ngực Kình Thảo đâm luôn.
Quần hùng đứng cạnh đó thấy vậy kinh hoàng thất sắc, đều đồng thanh kêu la.
Ngực của Kình Thảo đã có máu tươi vọt ra nhỏ xuống thanh đao Ðồ Long.
Máu gặp nóng liền hoá thành một luồng khói bốc lên.
Kình Thảo vội la lớn:
- Thành rồi...
Y lui về phía sau mấy bước ngồi phịch xuống dưới đất.
Mọi người thấy hai mảnh của thanh đao Ðồ Long đã dính chặt và nhau rồi.
Lúc ấy, mọi người mới biết luyện đao kiếm hễ thấy không thành thường thường phải nhỏ máu vào khí giới.
Hai thanh bảo kiếm Can Tương, Mạc Tà thời cổ cũng vậy, vợ chồng người luyện kiếm còn nhảy vào trong lò hy sinh mới luyện thành hai thanh bảo kiếm sắc bén đó.
Cử chỉ của Ngô Kình Thảo đây cũng bắt chước các tay thợ có tên tuổi đời xưa.
Vô Kỵ vội đỡ Ngô Kình Thảo dậy, xem vết thương của y thấy lưỡi dao đâm vào không sâu mấy, chỉ bị thương xoàng thôi.
Chàng liền lấy thuốc chữa thương ra rịt cho và lên tiếng nói:
- Ngô huynh hà tất phải hy sinh như vậy, thanh bảo đao này có nối lại được hau không cũng không quan trọng cho lắm, nhưng phải để cho Ngô huynh phải chịu đựng rất đau khổ như vậy là không phải.
Kình Thảo thấy giáo chủ không xem lại thánh hỏa lệnh, cũng không xem thanh đao Ðồ Long mà lại chú y tới vết thương của mình trước nên trong lòng cảm động vô cùng, liền đáp:
- Bị chút thương nhỏ ở da thịt có nghĩa gì đâu mà khiến giáo chủ nhọc tâm, nhọc lòng đến thế?
Nói xong, y đứng dậy cầm thanh đao Ðồ Long lên xem, thấy chỗ nối liền không có dấu vết gì hết chỉ có một đường chỉ máu thôi.
Y cũng đắc chí vô cùng.
Vô Kỵ xem lai bốn miếng Thánh hỏa lệnh thấy quả nhiên không suy suyển chút nào. Chàng cầm lấy thanh đao Ðồ Long chém luôn vào hai cây trường mâu vừa cướp được của lính Mông Cổ một nhát.
Chỉ nghe thấy kêu soẹt một tiếng rất khẽ, hai cây sà mâu đó liền gãy làm đôi ngay.
Quả thực, thanh đao này chém sắt như chém bùn.
Quần hùng thấy vậy liền lớn tiếng hoan hô và nói:
- Tuyệt kỳ, tuyệt kỳ.
Kình Thảo lại cầm lấy hai mảnh của thanh ỷ thiên kiếm, nhưng y bỗng nghĩ đến cựu chưởng kỳ sứ Nhuệ Kim kỳ là Trang Tranh với mấy chục anh em của bổn kỳ đều bị chết dưới thanh kiếm này.
Y không sao nhịn được, nước mắt nhỏ xuống ròng ròng và nói:
- Thưa giáo chủ, kiếm này đã giết chết Trang đại ca chúng tôi và đồng thời nó cũng giết hại rất nhiều anh em nữa, nên Kình Thảo tôi hận nó vô cùng, không muốn tiếp nối nó nữa vậy kính xin giáo chủ trị tội cho.
Nói xong, nước mắt của y lại nhỏ ra như mưa.
Vô Kỵ liền nói:
- Ðó là nghĩa khí của Ngô đại ca, có lỗi gì đâu.
Nói xong, chàng cầm hai khúc kiếm gãy đó đi tới trước mặt Tĩnh Tuệ của phái Nga Mi và nói:
- Kiếm này nguyên là vật của quý phái, xin đại sư nhận lấy để sau này trao trả cho Chu... cho Tống phu nhân.
Tĩnh Tuệ không nói năng gì, đỡ lấy hai mẩu kiếm đó luôn.
Vô Kỵ cầm thanh đao Ðồ Long, ngẫm nghĩ giây lát và nói với Không Văn rằng:
- Phương trượng, đao này là của nghĩa phụ tôi kiếm ra được, bây giờ nghĩa phụ tôi đã quy y tam bảo, người đã thuộc phái Thiếu Lâm, vậy đao này do Thiếu Lâm giữ lấy.
Không Văn xua tay đáp:
- Con dao này đã đổi chủ mấy lần rồi, sau cùng Trương giáo chủ trong thiên quân vạn mã mà cướp được, ai ai cũng trông thấy hết và lại do Ngô đại ca của quý giáo nối liền lại. Huống hồ, ngày hôm nay thiên hạ cùng bầu Trương giáo chủ là Minh giáo chủ của võ lâm, luận tài, luận đức, luận nguồn gốc, luận danh vì, đao này phải về tay Trương giáo chủ mới đúng thiên kinh đại nghĩa.
Quần hùng liền phụ hoạ và đồng thanh nói:
- Phải, ai ai cũng đều một ý kiến hết, Trương giáo chủ đừng từ chối nữa.
Vô Ky bất đắc dĩ đành phải nhận lấy thanh đao đó và trong lòng nghĩ thầm:
- Nếu nhờ thanh đao này, hiệu lệnh thiên hạ võ lâm xua đuổi quân Thát Ðát cũng là một việc hay.
Chàng bỗng nghe thấy trong đám đông có nhiều người xôn xao và nói:
- Võ lâm chí tôn, bảo đao Ðồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mặc cảm bất tòng.
Bên dưới còn có hai câu:
- Ỷ thiên bất xuất, thùy nhữ tranh phong.
Nhưng mọi người thấy ỷ thiên kiếm đã gãy không có ai nối liền nên không người nào nhắc nhở tới hai câu ấy.
Mọi người của Nhuệ Kim kỳ rất hận cây Y thiên kiếm, nay thấy đao đã liền như trước, còn ỷ thiên kiếm thì gãy làm hai mảnh, người nào người nấy khoái trí vô cùng.
Lúc ấy, trong Hồng thủy kỳ đã khiêng ra một cái chảo sắt lớn trong miếu ra, để trên lò lửa nấu một vạc dầu thật sôi, chỉ chờ đợi quân Mông Cổ xông lên trên núi là dùng dầu đó tấn công.
Chùa Thiếu Lâm đã có từ ngàn năm nay, dầu trong chùa tích trữ hành nhà có thể nói dùng bao nhiêu cũng không hết.
Mọi người bận rộn nửa ngày, trong bụng đã thấy đói.
Trừ Ngũ hành kỳ của Minh giáo và nửa số tăng chúng của Thiếu Lâm phải canh gác ở các nơi hiểm yếu ra còn những người khác với tăng chúng vào chùa dùng cơm chay. Chờ khi sắp tối Vô Kỵ nhảy lên một cây cao, nhìn xuống dưới núi, thấy quân Mông Cổ một đạo đóng phía Tây bao vây chặt chân núi, bốn bề đều có khói bốc lên, chàng biết ngay chúng đang thổi cơm ăn.