Ý định của nước Pháp là duy trì đất đai chiếm được của mình, thiết lập tại vùng Nam Kỳ một chế độ thuộc địa và mang tới nơi đó những lợi ích văn minh âu châu. Nước Cao Miên luôn luôn có một mối liên hệ thân hữu với nước Pháp từ trước đến nay. Chúng tôi ước mong rằng những mối liên hệ của hai nước, càng lúc càng trở nên thường xuyên, sẽ trở thành thân thiện hơn. Nhân danh là tư lệnh hải, lục quân ở Nam Kỳ và là người đại diện cho nước Pháp, chúng tôi đến để khẳng định với hoàng thượng về những ý định tốt đẹp nhất của chúng tôi với vương quốc Cao Miên mà cũng là để đáp lại mối hòa bình thân hữu đã có từ trước mà tiên vương thân phụ của ngài đã thực hiện qua sự đại diện các vị sứ thần của quý quốc ở Sài Gòn gởi đến hoàng đế nước Pháp của chúng tôi. Chúng tôi hân hạnh thông báo đến hoàng thượng là không bao lâu nữa, đoàn quân lực của chúng tôi sẽ tiến chiếm Mỹ Tho là cứ điểm cuối cùng của người An Nam tiến sang Cao Miên. Vị thuyền trưởng tàu chiến hoàng gia, chiến hạm Norzagaray, có thể đến diện kiến hoàng thượng nếu cần (sic!) (nếu ông ta muốn như thế). Khải bẩm hoàng thượng . . .>> Đường hướng tiến gần với vương triều Cao Miên đã gặt hái được kết quả toàn diện. Vua Norodom đã đáp ứng lại bằng cách gởi qua biếu tặng và sai một đoàn sứ gồm 80 người.
Vào tháng 4 d.l năm 1861, em trai thứ 3 của Norodom là Si-Vattha gây loạn cướp ngôi khiến Norodom phải chạy trốn sang nước Xiêm La (Thái Lan). Người dân Cao Miên vào lúc nầy, thừa dịp quan binh của triều đình nước Đại Nam đang khốn đốn bận rộn đối phó với đoàn quân xâm lược Âu Châu, đã nổi dậy đánh phá các vùng biên giới giữa 2 nước (Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Dầu Tiếng. . .). Tháng 5 â.l (1860), người Cao Miên chiếm đồn Chu Ức ở Trà Bông thuộc quyền cai quản của tỉnh Gia Định. Phó lãnh binh Nguyễn Hợp đưa quân bình định nhưng bị giết chết khi xung trận. (xem Nguyễn Công Tánh; VSTKCGKL. V; trang 1385). Như vậy, có thể suy định rằng vào lúc đoàn quân xâm lược Âu Châu chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn (Gia Định), Tây Ninh, Thủ Dầu Một, thì người Xiêm La đã tiến chiếm một vùng đất nào đó của Chân Lập (tỉnh Kampot) rồi đưa Norodom về để tiếp tục dẹp nội loạn lấy lại ngôi vua cho Norodom. Trước đây cha của Norodom là Nặc Ong Đôn chỉ làm vua bù nhìn một nửa nước Chân Lập dưới quyền đô hộ của quan cai trị Gia Định. Nay Gia Định, Tây Ninh đã mất vào tay người Pháp thì người Cao Miên rất vui mừng liên hợp với Pháp để họ thoát khỏi ách đô hộ của Đại Nam và chính vì vậy mà ĐNTL viết rằng (ĐNTLCB; quyển XXIII đã dẫn; trang 184) Sau khi Nặc Ong Đôn chết thì Tự Đức muốn đem quân đánh phạt 0 vì kẻ thừa kế của Nặc Ong Đôn là Norodom đệ I không báo tang. Việc nầy được ĐNTLCB ghi lại như sau:
Tuy nhiên việc chinh phạt Cao Miên chưa kịp thực hiện thì người Pháp đã gây hấn ở Đà Nẵng rồi đánh chiếm Gia Định khiến cho triều đình Đại Nam phải bận rộn lo đối phó không còn khả năng đi chinh phạt Cao Miên nữa. Sau khi thay thế Charner, Bonard cũng có sang gặp Norodom và được Norodom tiếp đón nồng hậu vì nghe theo lời cố vấn của giáo sĩ giám mục Miche vàokhoảngtháng9d.lnăm1862. Nghe theo lời cố vấn của Bonard và theo chỉ thị của hầu tước Chasseloup Laubat trong chính phủ Pháp, đề đốc La Grandière lúc vừa mới tới Nam Kỳ đã nghĩ ngay tới việc tìm dịp tạo mối thiện cảm với vua Cao Miên. Nhân một dịp vua Cao Miên bị lây một chứng bệnh truyền nhiễm đang lan tràn trong giáo phận của giáo sĩ giám mục Miche, La Grandière liền phái y sỹ Hennecart tới Oudong. Y sỹ nầy có thể nói và hiểu tiếng Miên từ khi ông ta công tác ở tỉnh Tây Ninh. Vua Cao Miên được chữa khỏi bệnh rất nhanh tỏ rõ thiện cảm lớn lao với viên y sỹ và luôn cả với nước Pháp. Ít lâu sau, La Grandière liền cử phó hạm trưởng Doudart de Lagrée đi theo pháo thuyền Gia Định với 28 binh sĩ sang Cao Miên để thi hành nhiệm chức đại diện cho người Pháp ở bên đó. De Lagrée đến Cao Miên vào đầu năm 1863 và mặc dù bị người Xiêm ở đó cản trở gây hiềm khích chia rẽ nhưng De Lagrée vẫn chiếm được lòng tin của quốc vương Norodom. Từ ngày 18 tháng 6 d.l năm 1863, De Lagrée đã gởi báo cáo về cho La Grandière rằng nhà vua (Cao Miên) đang ở tmột vị thế rất thuận lợi nhưng không thể để vị vua nầy bị chi phối bởi một ảnh hưởng nào khác; một khi ông vua nầy đã ban phát một điều gì thì cần phải nhận ngay và không nên bàn bạc gì tới điều đó nữa. Sau khi đoàn sứ Phan Thanh Giản khởi hành sang Pháp, la Grandière liền đến Oudong vào ngày 9 tháng 8 d.l năm 1863 và được Norodom tiếp đón hết sức long trọng. Giáo sĩ giám mục Miche đóng vai trò thông ngôn và đi đến kết quả là một hiệp định được ký kết vào ngày 11 tháng 8 d.l năm 1863 đặt nước Cao Miên (Cambodge) dưới sự đô hộ của Pháp và một địa điểm hải quan trong lãnh vục tỉnh Pnom-Penh được giao nhượng cho người Pháp để làm bến nhà kho và đồn trú quân sự.
Sau khi ký kết hiệp định bảo hộ Cambodge xong, la Grandière yên tâm trở về Sài Gòn nhưng Norodom thì lại gặp nhiều rắc rối do chính quyền bảo hộ cũ của người Xiêm (Thái Lan) do Phnea-Rat cai trị ở Oudong gây ra. Mặt khác, triều đình nước Xiêm cũng tìm cách ngăn chận việc hoàng đế Pháp Napoléon III phê chuẩn định ước bảo hộ Cambodge, hứa sẽ giao hoàn ấn tín của vương triều nước Cambodge và yểm trợ cho Norodom làm lễ đăng quang lên ngôi vua ở Oudong. De Lagrée báo cáo tự sự về Sài Gòn. La Grandière liền phái thêm một pháo hạm sang Cambodge để cảnh cáo sự can dự của người Xiêm vào nội tình của Cambodge. Tuy nhiên, Phnea-Rat vẫn tiếp tục dùng mọi thủ đoạn để cho Norodom mất lòng tin vào người Pháp. Nhân chuyện các thủy binh Pháp sai rượu xong vào cung đình chọc ghẹo các công chúa khiến cho Norodom nổi giận, Phnea-Rat liền lợi dụng thời cơ nầy để tạo chia rẽ giữa Norodom và người Pháp và Phnea-Rat đã khuyến dụ được Norodom ký kết một hiệp ước vào ngày 1 tháng 12 d.l năm 1863 chấp nhận sự bảo hộ của người Xiêm. Hiệp ước bảo hộ nầy được phê chuẩn trao đổi vào ngày 22 tháng 1 d.l năm 1864 nhưng lại không có lễ đăng quang huy hoàng cho Norodom ở Oudong mà cũng không có ấn tín như Phnea-Rat đã hứa khiến cho Norodom thất vọng rất nhiều. Tuy nhiên, theo chỉ thị của triều đình vua Xiêm, Phnea-Rat đề nghị rằng Norodom sẽ được đăng quang trọng thể nếu Norodom chịu sang thủ đô Bangkok của nước Xiêm. Norodom chấp thuận. Doudart de Lagrée đã tìm đủ cách để khuyến cáo Norodom đừng đi, ngay cả đưa ra những lời hăm dọa đánh chiếm các tỉnh thành của Cambodge, nhưng vô hiệu quả. Ngày 3 tháng 3 d.l năm 1864, Norodom được Phnea-Rat và một toán nhỏ quân Xiêm hộ tống lên đường đi sang nước Xiêm. Chỉ vài giờ sau, de Lagrée ra lệnh cho quân Pháp tiến chiếm hoàng cung và các cơ sở hành chánh công cộng. Hai ngày tiếp theo, 2 tàu chiến và 100 thủy binh của Pháp được phái đến để tăng viện cho de Lagrée. Khi đi xa khỏi Oudong khoản 10 dặm, Norodom phải dừng lại và khiếp sợ khi biết được tin kinh đô Oudong đã bị người Pháp chiếm giữ. Norodom bèn quyết định quay trở lại Oudong mặc dù Phnea-Rat ngăn cản và phản đối quyết liệt. Tháng 8 d.l năm 1864 hiệp định bảo hộ đã được hoàng đế Pháp Napoléon III phê chuẩn. Đại tá Desmoulins thừa lệnh mang lên Oudong và nghi lễ trao đổi văn kiện chuẩn phê được tổ chức tại Oudong từ ngày 12 đến ngày 17 tháng 4 d.l năm 1864. Người Pháp liền cử đại tá Aubaret sang thủ đô Bangkok gặp vua Xiêm Mang-Kut để bàn định về việc tổ chức lễ đăng quang chính thức cho Norodom và vấn đề quân Xiêm rút ra khỏi hai tỉnh Angkor và Battambang. Vua Xiêm phải nhượng bộ. Ngày 3 tháng 6 d.l năm 1864, Norodom làm lễ đăng quang. Ngày 16 tháng 6 d.l năm 1864, Phnea-Rat cùng quân Xiêm rút hết ra khỏi lãnh thổ Cambodge. Ngày 25 tháng 10 d.l 1864, vua Norodom với một số đông tùy tùng xuống Sài Gòn để cống lễ chính quyền Pháp, được người Pháp tiếp đón nồng hậu. Ngày 27 tháng 10 d.l năm 1864, vua Norodom trở về Oudong. -257.
Chương 24
Về chuyến công du của đoàn sứ Phan Thanh Giản 1. Những hoạt động của chính quyền thuộc địa La Grandière trong khi phái đoàn sứ Đại Nam đang ở Paris: Sau khi đoàn sứ Phan Thanh Giản lên đường sang Pháp, đề đốc La Grandière, không đếm xỉa gì đến tin đồn là đạo quân viễn chinh của Pháp sẽ rút khỏi các vùng đã chiếm được ở Nam Kỳ, cứ vẫn tiếp tục chương trình tổ chức và củng cố guồng máy thuộc địa non trẻ của ông ta: ra lệnh truy lùng đầu lĩnh kháng chiến Quản Định được hoàng đế Tự Đức yểm trợ và cổ xúy, ứng trước, cung cấp tài chánh và những sự yểm trợ cần thiết cho các cư dân trong các vùng do quân xâm lược Pháp kiểm soát, thực hiện nhiều công trình xây dựng cơ sở quan trọng ở vùng Sài Gòn Mới và Sài Gòn Cũ (tức Chợ Lớn này nay), kích thích sáng kiến trong giới tư nhân. Ngày 28 tháng 11 dl năm 1864, tất cả việc làm của La Grandière đã được chính phủ Pháp chuẩn phê ngầm bằng cách phong cho ông ta chức vụ Thống đốc Nam Kỳ Hạ (Basse Cochinchine) để thay thế đô đốc Bonard.
Trong khi các viên chức chính quyền của triều đình Pháp ở Paris tiếp tục bàn cãi về vấn đề tái nghị hoà ước Nhâm Tuất thì vào tháng 12 dl 1864 đoàn sứ Đại Nam lên đường sang Tây Ban Nha trên tàu Terceira của Tây Ban Nha. Trong khi còn lênh đênh trên vùng biển Địa Trung Hải thì có cơn bảo biển lớn nhận chìm một tàu khác; sau 15 ngày chưa tới bến, thì có tin đồn là tàu chở đoàn sứ đi Tây Ban Nha cũng bị nhận chìm trong cơn bảo biển đó và tin đồn nầy cũng được loan truyền ở Sài Gòn nhưng chỉ được tiếp nhận bằng một thái độ thờ ơ vì cho rằng đó chỉ là một thủ đoạn của triều đình Đại Nam nhằm mục đích kéo dài thêm thời gian hiệu lực chấp hành hoà ước Nhâm Tuất đã được hai bên phê chuẩn. Thực tế thì tàu Terceira cũng bị cơn bảo làm hư hại nhưng may mắn không bị nhận chìm giữa biển và đã tới được hải cảng Naples. Gần một tháng sau tin tức về tàu chở đoàn sứ Phan Thanh Giản đã đến thủ đô Madrid/ Tây Ban Nha mới được đưa tới Sài Gòn. Dự thảo một hòa ước hiệu chỉnh với Đại Nam cùng với hoà ước Pháp-Cao Miên đã được chính phủ Pháp giao cho đại tá Aubaret tân lãnh sự của chính phủ Pháp ở Bangkok (Thái Lan) và ở Huế. Aubaret được bộ ngoại giao Pháp ủy nhiệm toàn quyền thương thảo với triều đình Huế về những yêu cầu do đoàn sứ Phan Thanh Giản nêu ra. Aubaret rời nước Pháp lên đương nhận chức vụ lãnh sự vào tháng 1 dl năm 1864 và dự trù là sẽ đến Sài Gòn vào khoảng tháng 2 dl năm 1864 nhưng vì tàu bị trục trặc cho nên ông ta phải sang Thái Lan trước để trao ủy nhiệm thơ của hoàng đế Pháp cho vua Thái Lan đồng thời cũng gởi sang Sài Gòn hiệp ước bảo hộ Cao Miên ký kết ngày 11 tháng 8 dl năm 1863 đã được Napoléon III phê chuẩn. Nhóm chính quyền thuộc địa của La Grandière ở Sài Gòn bất mãn về việc chính phủ Pháp chỉ định Aubaret vào nhiệm vụ thương thảo với triều đình Huế để sửa đổi hoà ước Nhâm Tuất (1862). Tuy nhiên, lợi dụng thời gian Aubaret chưa đến Sài Gòn, La Grandière đã thực hiện những cơ sở cần thiết cho bước đầu thực hiện chính sách thuộc địa của người Pháp trên đất nước Đại Nam. Trong khi đó thì phái đoàn sứ Phan Thanh Giản từ Tây Ban Nha đáp tàu Lepanto, đến cảng Alexandrie (Ai Cập) Trung Đông vào ngày 23 tháng 1 dl năm 1864, một tuần lễ sau đó vào kênh đào Suez ngày 30 tháng 1 dl năm 1864, đáp tàu Japon để về Sài Gòn -0.0015576323987539. Phái đoàn về đến Sài Gòn ngày 18 tháng 3 dl năm 1864. Đi theo phái đoàn về Sài Gòn còn có phó hạm trưởng Boresse của Pháp được cử làm thanh tra sự vụ người bản xứ. Tất cả đều được thống đốc La Grandière và các người Pháp ở Sài Gòn tiếp đón trọng thể và dù có bất mãn lo âu nhưng họ đã có thái độ kính trọng và khâm phục một cách đặc biệt đối với ông Phan Thanh Giản vì cung cách dấn thân phục vụ của ông cho đất nước Đại Nam. Tờ báo Le Courier de Saigon (số ra ngày 22 tháng 3 dl năm 1864) đã viết nhiều đề mục ca tụng phái đoàn sứ Đại Nam và mô tả lại những buổi tiệc khoản đãi, những cuộc du ngoạn thăm viếng của phái đoàn quanh vùng Sài Gòn-Chợ Lớn đang đổi mới. Tờ báo có đoạn viết: «Le lendemain (20 tháng 3 dl năm 1864) , ils sont allés à Cholon : ils ont visité les ponts, les travaux considérables entrepris pour la rectification des quais et des rues de ce vaste quartier. «Ils étaient tous trois à pied, accompagnés de deux officiers français ; ils n’avaient pas le moindre parasol (comme insigne de leur dignité), et quand ils se sont trouvés au soleil, ils ont daigné s’abriter sous un modeste parapluie ! Une foule nombreuse s’était assemblée autour d’eux et n’a point paru scandalisée de cette dérogation à l’ancienne étiquette . . . » -0.0015576323987539. tạmdịch< và khi đi ngoài trời họ không ngần ngại trú nắng dưới những cái dù che bình thường đơn sơ. Một đám đông dân chúng bao quanh phái đoàn nhưng không có ai tỏ dấu hiệu la chộ vì hình ảnh giảm cấp quyền uy nầy.) Ngày 24 tháng 3 dl năm 1864, đoàn sứ Phan Thanh Giản đáp tàu Écho trở về và đến Huế vào ngày 28 tháng 3 dl năm 1864. 2. Hoạt động của lãnh sự Aubaret Aubaret đến Sài Gòn vào ngày 21 tháng 5 dl năm 1864 nhưng chỉ được tiếp đón một cách một cách lạnh nhạt do đó ông ta đã vội vàng lên tàu D Entrecasteaux để đi và tới cảng Thuận An vào ngày 14 tháng 6 dl năm 1864, được Phan Thanh Giản đón tiếp theo nghi lễ ngoại giao và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến vào ngày 16 tháng 1 dl năm 1864 (theo BAVH đã dẫn. Tuy nhiên theo tác giả A. Schreiner ghi trong sách Abrégé de l Histoire d Annam thì Aubaret tới Huế ngày 16 tháng 1 dl năm 1864 và được hoàng đế Tự Đức tiếp kiến ngày 22 tháng 1 dl năm 1864). Aubaret được Tự Đức đối đãi rất trân trọng và thân thiện. Sau đó là cuộc bàn thảo và thương lượng giữa Aubaret và Phan Thanh Giản. Hoà ước mới được Aubaret cùng với phái đoàn Phan Thanh Giản ký kết và trao đổi vào ngày 15 tháng 7 dl 1864 nhưng hội đồng nội các chính phủ Pháp ở Paris đã không chuẩn phê hòa ước nầy. Ngày 29 tháng 1 dl năm 1865, thống đốc La Grandière được chính phủ Pháp thông báo dứt khoát không chấp nhận để triều đình Đại Nam chuộc lại 3 tỉnh đã mất. La Grandière cho triều đình Huế biết quyết định không phê chuẩn của chính phủ Pháp. Như thế có nghĩa là hoà ước Nhâm Tuất (1862) vẫn còn tồn tại và có hiệu lực chấp hành.
Rõ ràng là Tự Đức và các triều thần thủ cựu, chậm tiến, ù lì ở Huế đã làm đình trệ việc lấy lại các vùng lãnh thổ ở Nam Kỳ đã bị quân xâm lược Pháp đánh chiếm. Trọng tâm của Tự Đức là chuộc lại 3 tỉnh bằng bất cứ giá nào không phải vì các vùng đó có những nguồn lợi phong túc quý báu cho nhân dân miền Nam nhưng vì các vùng đó có những mối ràng buộc tình cảm riêng tư với hoàng tộc nhà Nguyễn (mẹ sinh của Tự Đức là người Gia Định). Khi gởi phái đoàn Phan Thanh Giản sang Paris, công tác chính của Tự Đức giao cho phái đoàn là tìm mọi cách để chuộc lại 3 tỉnh bị mất nhưng lại tiếc tiền bồi thường chiến tranh, tiền từ kho bạc của nhà vua dù là tiền bạc tích lũy được bằng cách thu tóm từ mồ hôi và công lao của dân chúng. Thái độ thiếu hiểu biết được đàng đầu nắm đàng cán, được voi đòi tiên của Tự Đức khiến cho người Pháp bực bội chán nản. Aubaret có lúc đã đề nghị chấm dứt cuộc thương thuyết. Người Pháp đã hớn hở vui mừng cho rằng chính những trò cãi bướng cố lì kéo dài thời gian của triều đình Huế để chờ sự chán nản buông trôi của người Pháp đã giúp cho chính sách thuộc địa non trẻ của họ tại Nam kỳ tiếp tục tồn tại. Tác giả A.Delvaux trong bài viết L Ambassade de Phan Thanh Giản en 1863 d après les documents français đã không ngần ngại mà viết ra rằng tác giả thành khẩn ca ngợi những nhà đại ái quốc đã biết cách bảo tồn và phát triển nền đế quốc thuộc địa của nước Pháp tại Viễn Đông: "En terminant ce modeste travail, je ne puis m empêcher de rendre mes humbles hommages aux grands patriotes qui ont su maintenir et faire prospérer notre jeune empire français d Extrême-Orient." -0.0015576323987539.