watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
13:34:2618/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 1 - 11 - Trang 4
Chỉ mục bài viết
Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 1 - 11
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Tất cả các trang
Trang 4 trong tổng số 20

Chương 3

Vì Nghĩa Làm Ơn Không Mong Trả
Lâm Nguy Được Cứu Đáng Đền Ơn

Đấng mày râu, nhân vật anh hùng xưa nay hiếm có. Gặp nguy nan, lòng những thương gái nhỏ. Không hổ thẹn thanh danh hào hiệp nơi gác tía lầu son. Nổi giận mắt trừng gian tà khiếp vía, quỷ quái yêu ma tức thời bị diệt. Hả hê cười nói ra về, lòng can đảm sáng trong như tuyết.
Thư hẹn tòng quân, gươm sắc đeo lưng diệt trừ ác nghiệp. Mật kế không thành, nhà ngục che mờ nhật nguyệt. Cứu vớt gái quê lầu son môi tỏ, đấng mày râu, son phấn. Công lao ghi sử sách, đến nay thiên hạ vẫn lưu truyền.


Hữu Điệu ký "Niệm nô kiều”
Người xưa nói: "Làm ơn không mong đền đáp". Có lẽ người mong báo đền thì lúc nào cũng tính toán, người ấy đền đáp ta cái gì, rồi sau mới làm ơn. Người chịu ơn cũng sẽ tính ngược lại, người ấy đã làm ơn mình cái gì để mà báo đền. Bởi thế mà tình cảm không sâu sắc. Cái đó gọi là quan huyện buôn bán, sau này tất dẫn đến hiềm khích. Muốn được ơn trước rồi sẽ lo trả ơn sau, thì làm sao mà có được? Chỉ có vợ chồng mới khẳng khái cứu vớt nhau lúc khó khăn hoạn nạn, coi đó là bổn phận của mình, không khoe khoang kể lể công lao, tuy không mong báo đền, song người ta lúc nào cũng canh cánh bên lòng, tìm cách báo đền. Cứu người thì người khác cứu mình. Vậy cứu người cũng chính là tự cứu mình.
Thời Vạn Lịch, có một vị công tử hào kiệt, tên là Tăng Anh, tự Chí Viễn, quê Tứ Xuyên. Cha làm phó sứ Hà Nam, sau khi nghỉ việc, thấy Lạc Dương là nơi trung tâm trong thiên hạ, bèn chuyển gia đình tới sống ở đấy. Mới mười ba tuổi, cha mẹ qua đời, ba năm mãn tang, năm mười bảy tuổi thì đỗ tú tài. Tuy công tử theo nho học, song không bị sách vở ràng buộc, nhà giàu có lại có tấm lòng khẳng khái, ai có việc cần cứu giúp anh đều sẵn lòng. Anh lại có sức khỏe kì lạ, hai tay có thể nâng bổng được ngàn cân, thích sống tại một trang trại ở ngoài thành. Vào mùa xuân, mùa hạ thì anh đọc sách; mùa thu, mùa đông thì săn bắn. Là người sống phóng khoáng, nhưng lại thường nức nở khóc than rằng trên đời này không có ai tri kỉ. Đã hai mươi tuổi, anh vẫn chưa có người nâng khăn sửa túi. Tuy cha đã qua đời, song những học trò tiếng tăm của cha vẫn còn, những vị quan to thời ấy, nếu không là bạn đồng khoa, thì cũng là bạn cũ của ông. Là người còn trẻ lại có tài, những nhà giàu có quyền quý đều muốn anh làm con rể. Công tử rất khác người, ai nói tới việc hôn nhân, anh đều cảm ơn, rồi chối từ. Có người hỏi vì sao, công tử cười trả lời rằng:
- Trượng phu phải có chí lớn bốn phương, việc lớn đang bề bộn, sao lại tham lam cuộc sống yên lành. Vả lại người xưa thường nói, ba mươi mới thành lập gia đình, năm nay mới hai mươi, vẫn còn sớm chán.
Bởi thế những người mối lái cũng không đến quấy rầy anh nữa.
Một đêm, công tử chong đèn đọc sách, vào lúc trước canh hai, đang định lên giường ngủ, nghe thấy đằng sau có tiếng hò hét. Tưởng nhà cháy, công tử vội mở cửa phòng chạy ra xem. Người nhà nói rằng:
- Bắt được một tên trộm tại kho phía sau.
- Bắt tới đây cho ta. - Công tử nói.
Thế rồi công tử ra nhà khách, thấy mọi người túa đến như ong vỡ tổ, giải tên trộm đến, quỳ trước mặt công tử. Công tử hỏi:
- Ngươi ở đâu mà dám đến nhà ta ăn trộm?
- Con là người Quý Châu, - người ấy đáp, - tới đây tìm người nhà nhưng không gặp, không còn tiền để về. Đêm qua thấy cửa trang trại bỏ ngỏ, cho nên con đã lẻn vào định ăn trộm ít đồ đạc bán đi để lấy tiền về, nhưng chưa lấy được gì thì bị bắt. Mong ông thương tình tha cho.
- Ngươi đã lấy trộm mấy lần rồi? - Công tử hỏi.
- Đây là lần đầu, - người ấy vừa khóc vừa nói, - thì bị bắt.
- Nếu ta giải lên quan trị tội, - công tử nói, - thì hại cả đời ngươi, ngươi mãi mãi mang tiếng là tên ăn trộm, nên ta tha cho.
- Xin cám ơn ông, - người ấy nói, - sau này dù tôi có chết đói cũng không ăn trộm nữa.
- Chỉ sợ đói không chịu nổi, - công tử nói, - lại đi vào con đường ấy
- Bây giờ thì con phải vừa đi vừa xin ăn để về quê, xin cảm ơn tấm lòng cao thượng của ngài.
Công tử bảo người nhà cởi trói, rồi lấy ra mười lạng bạc, nói:
- Ta nghĩ, ngươi là người nơi khác, ta cho ngươi mười lạng bạc để lấy tiền ăn đường. Từ nay về sau hãy học làm người tốt nhất định không đi theo con đường này nữa.
Người ấy phủ phục xuống đất lạy tạ công tử. Công tử nói:
- Đừng làm thế, ta chỉ mong ngươi trở thành người tốt, thôi hãy đi đi.
Rồi sau đó bảo người nhà dẫn anh ta ra lối cửa sau. Người ấy lại định cúi đầu tạ ơn, thì công tử đã đi vào nhà trong.
Mọi người hỏi công tử rằng:
- Bắt được trộm, sao công tử không giải lên quan trừng trị mà lại tha cho họ, rồi còn cho tiền họ nữa?
- Ta thấy anh ta rách rưới, xanh xao gầy gò, - công tử nói, - đúng là anh ta cùng túng quá phải làm liều, chứ không phải chuyên trộm cắp, cho anh ta một ít lộ phí để anh ta về quê hương, trở lại làm người lương thiện, sao lại bảo là không lợi? Người xưa nói: "Cứu người phải cứu đến cùng". Chính là như thế đó. Cần phải biết rằng người ấy lần đầu tiên ăn trộm bị các người bắt được. Nếu gặp kẻ trộm nhà nghề, nó cuỗm đi một mẻ to, thì cũng đến báo quan truy nã mà thôi. Còn người này lần đầu phạm pháp, nếu giải lên quan, thì sẽ lộ rõ tung tích, dù anh ta có hối cải thì hằng ngày cũng bị họ truy lùng theo dõi, nhất định sẽ dồn anh ta đến đường cùng. Anh ta suốt đời làm trộm cướp, chẳng hóa ra ta bảo anh ta cứ đi ăn trộm ư? Thôi thì đáng tha thì tha, để cho anh ta trở thành người tốt chẳng hóa hơn sao.
Nói một hồi lâu, mọi người mới gật đầu cho như thế là phải rồi đi ra.
Tới hôm sau, nhân ngày sinh nhật của Thái thú Quy Đức, công tử muốn đi mừng thọ, dặn lại người nhà rằng:
- Lần này ta phải đi quanh quẩn tới mấy ngày, các người ở nhà cần hết sức chú ý, đừng để xảy ra việc gì.

Dặn dò người nhà xong, công tử cùng mấy gia nhân đi theo gánh lễ vật lên đường.
Ở thôn Tích Thiên, huyện Linh Lăng, phủ Quy Đức, có một người dân thường tên là Lục Tất Đại, vợ là Trương thị. Hai vợ chồng chỉ sinh được một người con gái. Nhà có mấy chục mẫu ruộng, đều tự trồng cấy lấy, lúc nông nhàn thì buôn bán chêm pha, cuộc sống cũng tạm gọi là khá giả. Con gái họ là Kim Thư, tuy là dân thường, nhưng tính nết dịu dàng, giỏi may vá thêu thùa. Trương thị thấy con xinh xắn, bèn bó chân cho con. Đến năm mười bảy tuổi, cô xinh đẹp hẳn lên. Hằng ngày cô chăm chỉ đỡ đần cha mẹ, chưa từng bao giờ xa nhà.
Một hôm, có cô gái láng giềng đi dâng hương về, tới nhà họ Lục hớn hở nói:
- Cách đây chừng một dặm, có một am ni cô là nơi rất vắng vẻ tĩnh mịch, ni cô khá đông, họ đều hòa nhã. Trong am có nhiều cảnh đẹp, như động tiên. Đấy là nơi du ngoạn tuyệt vời, bà và cô sao không tới mà xem.
Nói xong cô ra về. Kim Thư còn tính trẻ con, nói với mẹ rằng:
- Con nghĩ, nơi ấy người ta đi được thì mẹ con mình cũng đi được. Mẹ nói với cha nhà mình đi một chuyến cũng hay.
- Mẹ cũng đã nghe quanh đây có một vài am ni cô, Phật Bồ Tát rất thiêng. Hôm nào tốt ngày ta mua hương nến tới đó lễ. Xưa nay con chưa đi đâu bao giờ, lần này cũng nên đi vãng cảnh.
Một lát sau, Lục Tất Đại trở về, người vợ bèn xin chồng đến am lễ Phật. Tất Đại nói:
- Dâng hương là việc bình thường, hai mẹ con bà đi thì đi.
Tất Đại không muốn trái ý vợ, lại thấy con gái rất thích thú, nên không nỡ ngăn cản họ. Ai ngờ lần đi này lại gây ra tai vạ.
Am có bốn ni cô, họ đều không giữ phép tu hành, chuyên tới các nhà giàu có kết thân với những thí chủ là quan to, suốt ngày họ quần là áo lượt, bài trí phòng ở cực kì sang trọng. Trong am thường có một lớp đồ đệ du đãng trẻ tuổi, biến nơi tu hành thành nơi trêu hoa ghẹo nguyệt, cho nên không cầu xin bố thí mà người ta vẫn mang đến, tuyệt nhiên không phải đi đâu khuyên giáo. Sư nữ trụ trì am, pháp danh là Tĩnh Tu, trạc dưới ba mươi tuổi, nói năng hoạt bát, thái độ nhã nhặn, đối nhân xử thế, tiếp đãi khách khứa tới thăm hết sức lịch thiệp và tỏ ra hiểu biết. Tĩnh Tu sống thân thiết với Cố Khắc Xương, một gã nhà giàu có trong thành. Cố Khắc Xương là tên dâm đãng và hiếu sắc, trong nhà có cả thê lẫn thiếp mà hắn vẫn chưa thỏa mãn. Hắn thường ra ngoài hái hoa bẻ liễu. Thấy Tĩnh Tu lẳng lơ phóng đãng, hắn kết bạn chơi bời. Một tháng có tới mười lăm ngày hắn ngủ qua đêm tại đây. Khắc Xương lại cậy có của, kết giao với bọn hào bá, ra vào cửa quan, khinh rẻ, áp bức người lương thiện. Bởi thế hắn đi lại trong am rất tự do, không hề một ai dám làm phiền. Tĩnh Tu cũng biết mình là người không đoan chính, nên dùng quà cáp kết thân với những người láng giềng quanh am. Những người nhà quê thường tham chút lợi nhỏ, cho nên ai cũng khen, không dám chê Tĩnh Tu.
Lục Tất Đại, tuy cách đó không xa, nhưng sống yên phận, không quan tâm đến những việc đâu đâu, nên không biết họ xấu xa thế nào.
Hôm ấy, hai mẹ con dậy sớm trang điểm rồi đi dâng hương. Vừa tới cửa am, ni cô ân cần tiếp đón. Sau khi lễ Bồ Tát xong, hai mẹ con được các sư cô mời dùng trà, và dẫn đi thưởng ngoạn cảnh trí trong am. Quả nhiên thấy hành lang thăm thẳm, phòng ốc quanh co, trong sạch thanh nhã, đồ vật trong phòng sang trọng bày biện ngăn nắp chỉnh tề, khác hẳn với nhà mình. Mẹ con hết lời thán phục.

Ai ngờ, đêm qua Khắc Xương cũng ngủ tại đây, hoa nguyệt suốt đêm, vừa mới dậy, nghe thấy có khách đến hành hương, bèn ra nhìn trộm. Hắn thấy một người phụ nữ trung tuổi, dáng vẻ nông thôn, theo sau là một cô gái mười sáu, mười bảy tuổi, dung nhan xinh đẹp, dáng người thùy mị, phút chốc hồn vía chơi vơi, hắn rạo rực khát khao thèm muốn. Sợ rằng cô gặp phải đàn ông, nên hắn lén lút nấp vào một phòng kín nhìn trộm qua khe hở. Ni cô biết ý, dẫn cô ngồi vào ghế giữa, rồi bày đồ điểm tâm. Mẹ con nhà họ Lục thích nơi đây vắng vẻ tĩnh mịch, còn những ni cô thì cứ một điều bà, hai điều cô, luôn mồm tâng bốc, khiến hai mẹ con càng thích thú, cười nói vui vẻ thân mật. Kim Thư vui mừng hớn hở, khiến cô càng trở nên xinh đẹp. Trong phòng nhòm ra, Khắc Xương thèm khát, người hắn bừng bừng rậm rật. Người xưa nói: "Tình nhân trước mắt giống Tây Thi". Hơn nữa Kim Thư là người nhan sắc tuyệt vời thì sao mà Khắc Xương không chết mê chết mệt. Hai mẹ con ngồi một lúc lâu, biếu lễ vật rồi xin phép ra về. Tĩnh Tu giữ lại dùng cơm chay. Trương thị nói:
- Ở nhà không có người trông nom, xin để hôm khác lại tới vãn cảnh. Những ni cô tiễn chân ra khỏi am rồi từ biệt.
Khắc Xương gặp Tĩnh Tu, oán trách rằng:
- Sao không giữ họ lại chơi, mà để họ về!
- Nhìn trộm mãi, - Tĩnh Tu nói, - vẫn chưa chán hay sao? Cô ta chẳng qua cũng là người chứ có phải báu vật Tây Dương đâu mà nhìn không chán!
- Đúng là báu vật, - Khắc Xương cười nói, - chỉ nhìn suông mà người cứ rạo rực cả lên. Tôi phải lấy cô ta làm thiếp, cô bảo nhà nó có chịu gả không?
Tĩnh Tu vỗ vai Khắc Xương nói:
- Cô ta là con gái Lục Tất Đại ở Tiền Thôn, nhà cũng khá giả đầy đủ, họ chẳng chịu bán con gái đi làm vợ bé đâu. Còn chúng em đây tha hồ mà chơi bời.
- Cô không ghen đấy chứ, - Khắc Xương nói, - thư thả rồi tôi sẽ bàn với cô. Nếu như cô ta không chịu làm thiếp, thì lấy về làm vợ và mỗi người ở một nơi, như thế có được không?
- Đúng là "mèo thấy mỡ", không biết anh có may mắn được hưởng thụ không!
Rồi họ nhìn nhau cười.
Khắc Xương cơm trưa xong, nói là có việc rồi về thành. Dọc đường hắn nghĩ miên man: “Vớ được con ấy cũng không uổng phí một đời". Dò được Lục Tất Đại có một người bạn trong thành, hắn bèn nhờ anh ta làm mối, tình nguyện làm người ở rể, sẽ phụng dưỡng bố mẹ vợ suốt đời. Người ấy đi rồi quay về nói:
- Tôi đã thăm dò, ông ta cần một người con rể tương xứng về tuổi tác và có tài năng, nếu chỉ là nhà giàu thôi thì ông cũng không muốn gả. Xem ra có nói cũng bằng thừa.
Khắc Xương nghĩ rằng: "Hắn cậy có cơm ăn cho nên không gả con gái cho ta, trừ phi phải làm hắn nghèo khổ, thì buộc hắn phải bán con gái làm thiếp. Nhưng làm thế nào để hắn nghèo khổ”. Khắc Xương chau mày, trong óc hắn chợt lóe ra một ý nghĩ: "Quan phủ đang thu tiền thuế, nhất định phải chọn những nhà giàu có làm thủ quỹ, nếu thiếu hụt bắt thủ quỹ bồi thường. Những người làm việc này thường là cửa mất nhà tan. Nay đang lúc thu thuế, phải làm thế nào khoác cho hắn việc này, thì nhất định hắn phải mắc câu”.
Tính toán xong, hắn bèn giắt đi mười lạng bạc, tới nhà người bạn quen biết là Lý Thư Biện. Chào hỏi xong, nói mấy câu thăm sức khỏe, Khắc Xương hỏi:
- Anh Lý, năm nay đã chọn ai làm thủ quỹ chưa?
- Vẫn chưa định ai. - Lý Thư Biện nói.
- Việc này cần những người giàu có làm. - Khắc Xương nói. - Tôi đến đây tiến cử cho anh một người, anh thấy thế nào?
- Chỉ cần có máu mặt, - Lý Thư Biện nói, - là tốt lắm rồi.
- Lục Tất Đại làng Tích Thiện, - Khắc Xương nói, - người này giàu có, tôi và hắn có mối hiềm khích. Tôi muốn hắn làm việc này để buộc hắn phải tốn phí một ít tiền cho hả dạ. Ông có thể đứng giữa kiếm lời. Nếu ông anh hết sức vì em, thì em xin đưa trước cho ông anh mười lạng bạc.
Thế rồi Khắc Xương lấy bạc ra đặt trên bàn. Thấy bạc, Lý Thư Biện như mèo thấy mỡ, mặt tươi hớn hở, vội chắp tay nói:
- Việc đó có gì đâu chỉ cần chú em dẻo mồm một chút nói với quan là xong, cần gì phải phiền đến anh cho nhọc lòng?
- Nếu anh không nhận, - Khắc Xương nói, - thì chẳng hóa ra anh coi em như người ngoài à.
- Đã nói như thế thì anh đành phải nhận thôi. - Thư Biện nói. - Nội trong ba ngày tôi sẽ báo lại.
Thế rồi hai bên chắp tay từ biệt nhau.
Một hôm, Lục Tất Đại đang ở nhà, bỗng thấy hai lính lệ vào nhà, hỏi:
- Thưa ông, ông có phải là Lục Tất Đại không?
- Đúng ạ? - Lục Tất Đại trả lời.
Lính lệ lập tức lấy ra một tờ trát giấy đỏ, đưa cho ông
xem. Thấy tờ trát chọn ông làm thủ quỹ, bèn kinh ngạc nói:
- Tôi nhà nghèo, làm việc này sao được!
- Chúng tôi chỉ là người thừa lệnh quan. - Lính lệ nói. - Xưa nay từng nói: "Thiên lôi chỉ đâu đánh đấy". Nếu ông muốn nói thì mời ông lên quan mà nói.
Tất Đại vội giữ họ lại ăn cơm, trước khi đi còn biếu ít quà, hẹn ngày mai gặp nhau ở huyện. Lính lệ đi rồi, Tất Đại vào nói với vợ:
- Họ chọn tôi làm thủ quỹ. Nếu thiếu hụt thì lấy tiền đâu mà đền. Bây giờ làm thế nào?
Vợ Tất Đại nghe được tin ấy vô cùng lo lắng, suốt đêm khóc lóc không sao chợp mắt được.
Sáng hôm sau Tất Đại đành liều lên huyện. Đúng lúc tri huyện đang làm việc tại công đường, lính hầu vào bẩm rồi dẫn Tất Đại vào gặp quan. Tri huyện nói:
- Quan huyện chọn ngươi làm thủ quỹ, việc đó cũng chẳng có gì khó lắm đâu, chỉ cần làm việc cẩn thận là được.
- Con là người quê mùa ngu đần, chẳng biết tính toán ghi chép, - Tất Đại nói, - sợ rằng làm hỏng việc công. Mong ngài chọn người khác.
Tri huyện đập bàn quát:
- Người nào cũng thoái thác như ngươi thì lấy ai làm thủ quỹ! Những việc trong huyện đều nhờ Lý Thư Biện lo liệu, người mà anh ta đã cử chắc không sai.
Thế rồi quan nói với người giúp việc rằng:
- Phải ép anh ta viết ngay đơn xin nhận việc. Nếu trái lệnh sẽ phạt nặng.
Tất Đại sợ xanh mắt không nói sao được nữa, để khỏi bị phạt Tất Đại đành phải viết đơn xin nhận việc. Người giúp việc trình đơn lên quan, rồi sau đó nói với Tất Đại rằng:
- Anh phải chuẩn bị tinh thần, ba hôm nữa bắt đầu thu.
Phải ở ngay tại thành mới làm việc được.
- Vâng ạ! - Tất Đại nhận lời.
Tất Đại trở về nhà, lấy chăn chiếu và mang theo ít tiền, trọ tại hàng cơm trước cửa huyện.
Phải biết rằng, thủ quỹ là việc rất khó, ngay người biết việc còn bị người ta lừa, huống hồ Tất Đại, một người nhà quê thật thà chẳng biết gì về chất lượng bạc và cân tiểu li, tiền bạc thu vào xuất ra cứ bị họ đánh lừa, đến lúc kết toán, hút mất hơn tám trăm lạng, quan bắt anh phải đền. Tất cả vốn liếng, ruộng đất, nhà cửa của Tất Đại chưa đầy ngàn lạng, vậy lấy bạc đâu mà bù vào. Tất Đại đành phải bán ruộng vườn và tất cả đồ đạc trong nhà, vắt kiệt sức mà vẫn còn thiếu một trăm lạng. Quan hẹn đúng kì phải giao nộp đủ, nhưng đã quá hạn mấy lần Tất Đại vẫn chưa giao đủ số bạc thiếu hụt, quan huyện buộc phải bắt giam để truy hoàn. Tất Đại đành gửi thư về cho vợ bảo phải bán nhà. Vì bán đột xuất nên không ai mua. Mẹ con ở nhà ôm nhau khóc lóc. Đáng thương thay, một nhà đang no ấm, bị kẻ gian ngấm ngầm mưu hại, làm cho tan cửa nát nhà.

Chương 3 (B)

Một hôm, hai mẹ con đang lo lắng đau buồn, thì thấy ni cô Tĩnh Tu vào nhà, Trương thị đứng dậy đón tiếp. Tĩnh tu nói:
- Tôi từ thành về, nghe thấy quan đang truy hoàn khoản tiền thiếu hụt, tôi không yên lòng, nên tới đây thăm bà và cô.
- Xin cám ơn bà! - Trương thị nói.
Sau đó kể lại chuyện chồng mình làm thủ quỹ, thiếu hụt nên phải đền khống, chưa trả hết nên bị bắt để truy hoàn. Nay phải bán nhà, song vẫn không có ai mua. Nói xong nước mắt bà giàn giụa. Tĩnh Tu nói:
- Bà không cần phải lo lắng, Phật Quan âm Bồ Tát trong am của tôi là đấng cứu khổ cứu nạn. Ngày mai bà cùng với cô tới thành tâm kính cẩn cầu khẩn trước Phật đài. Phật sẽ phù hộ cho ông nhà bình an vô sự. À! Nếu bà bán nhà, thì trong thành có vị quan lớn người thôn quê muốn mua nhà ở đó để làm chỗ thu tô, tôi sẽ báo tin giúp, có thế nào ngày mai tôi trả lời thẳng phải là nhất cử lưỡng tiện sao.
- Nếu thế thì ngày mai mẹ con tôi sẽ tới. - Trương thị nói. Song xin sư cô đừng bày vẻ tốn kém.
- Chúng tôi tu hành, có gì mà tốn kém, chỉ cần bà không coi tôi như người dưng nước lã là được rồi.
Nói xong Tĩnh Tu giả vờ than vắn thở dài rồi ra về.
Trương thị tin lời ni cô, sáng sớm hôm sau dậy trang điểm, mua hương nến, khóa cửa cùng với Kim Thư đến am. Ni cô ra đón mẹ con Trương thị. Đầu tiên họ đưa mẹ con bà tới Phật đường thắp hương nến, hai mẹ con quỳ trên tấm thảm bằng cỏ hương bồ lầm rầm khấn khứa, cầu Phật phù hộ độ trì. Lễ xong, Tĩnh Tu mời vào nhà khách, rồi nói với Trương thị rằng:
- Việc bán nhà, sáng sớm nay tôi đã cho người vào thành nói rồi, trưa nay nhất định có người tới. Người này vốn là thí chủ lớn, thường rất tin tôi, tôi nói thêm vào thì nhất định việc sẽ xong. Xin bà hãy yên tâm nán lại chút nữa.
Trương thị thấy nhà sư nói có thí chủ cứu được chồng mình, nỗi buồn bỗng vơi đi một nửa. Khi ni cô bưng cơm ra, mẹ con không dám chối từ. Ăn cơm sáng xong, lại bưng tới một khay trà thơm. Tĩnh Tu nói với một ni cô trẻ rằng:
- Ta ở đây tiếp chuyện bà, ngươi hãy dẫn cô nhà đi dạo quanh am cho đỡ buồn.
- Đến phòng tôi chơi một chút được không? - Ni cô trẻ nói với Kim Thư.
Hai người dắt tay nhau. Đi qua hai dãy phòng, ni cô trẻ mở cửa ngách bước vào, thì đó là một gian phòng tuyệt đẹp. Trên treo một bức tranh cổ, lò hương trên ghế đốt loại hương trầm thơm ngát, hoa cắm trong bình còn tươi nguyên, ở giữa đặt một chiếc bàn vuông và bốn chiếc ghế bành; bên trái kê một chiếc giường, trên giường có đệm gấm, gối tựa, tất cả đều tinh xảo trang nhã; trước sân trồng các loại hoa cỏ. Kim Thư thấy thế nói:
- Nơi đây tôi chưa từng đến bao giờ, quả là cảnh thần tiên.
- Cô cứ ngồi tạm đây, - ni cô trẻ tuổi, - tôi đi lấy trà mời cô dùng.

Ni cô đi ra, gài trái cửa. Kim Thư hoàn toàn không để ý, bước tới giường ngồi. Chỉ nghe thấy bên phải có tiếng kẹt cửa, rồi sau đó một người đàn ông đẩy cánh cửa nhỏ lẻn vào. Kim Thư hốt hoảng sợ hãi định trốn. Người đàn ông ấy cười hi hí, chắp tay chào:
- Tôi nghe thấy cha cô thiếu hụt tiền thuế, hiện đang bị giam trong ngục, tôi đã mang bạc đến đây. Chỉ cần cô bằng lòng lấy tôi thì tôi sẽ cứu cha cô khỏi giam cầm.
Chẳng cần Kim Thư đồng ý hay không, hắn đã xộc đến. Thấy thế cô sợ hãi kêu khóc toáng lên:
- Mẹ ơi, tới đây mau!
Dù cô gào khản cổ cũng chẳng ai nghe thấy. - Người ấy nói. - Hôm nay chúng ta gặp nhau, quả là duyên trời định. Cô hãy nghe theo tôi.
Hắn ôm chầm lấy cô. Kim Thư dùng hai tay đẩy hắn ra, gào to hơn:
- Cứu! Cứu tôi với!
Trương thị đang ngồi trò chuyện với Tĩnh Tu, bỗng nghe tiếng khóc văng vẳng đâu đây, bèn hỏi:
- Có tiếng khóc ở đâu đó?
Đấy là tiếng cô gái nào khóc ở bên ngoài, bà chẳng cần phải để ý tới làm gì.
Lắng tai nghe, bà thấy hình như là tiếng con gái mình, nói:
- Quái lạ thật.
Rồi chạy thẳng vào trong. Thấy đám ni cô ngăn lại, Tĩnh Tu nói:
- Tôi nói nhỏ với bà là không nên vào nữa.
Trương thị càng sinh nghi, vội vã chạy đi. Bọn ni cô kéo bà lại, bất chợt bà cuống lên, gào thét.
Dù cho phòng ốc sâu hun hút, song lẽ nào xung quanh không ai nghe thấy. Cũng cần biết rằng những nhà gần am, hàng ngày Tĩnh Tu đã mua chuộc để bịt miệng họ rồi, chẳng ai quan tâm đến những việc không đâu trong am, bởi thế mà Khắc Xương mặc sức làm liều, mưu toan cưỡng hiếp, chẳng biết sợ hãi là gì. Đáng thương thay hai mẹ con nhà họ Trương, gọi trời không thấu, mà chui xuống đất cũng chẳng có đường! Chính lúc đang phải bó tay, không biết làm sao thì đất bằng bỗng như sét đánh ngang tai. Một người ở cửa am đi vào, thét lên một tiếng. Bạn có biết người đó là ai không? Đó chính là Tăng công tử đi mừng thọ ở Quy Đức trở về qua đây. Ngồi trên mình ngựa, khát nước, thấy chiếc am thấp thoáng bên đường, công tử nói với tùy tùng rằng:
- Trời vẫn còn sớm, chúng ta vào am xin chén nước.
Thế rồi họ cho ngựa men theo đường tắt, đi vào. Đến trước am, nghe thấy trong am có tiếng con gái khóc, và kêu cứu ầm ĩ. Biết bên trong có việc quái lạ, công tử vội xuống ngựa, đẩy cổng không được, công tử lấy sức đạp mạnh, hai cánh cửa đổ sập xuống, kêu đánh ầm một tiếng như sét đánh.
Công tử bước vào Phật đường, thấy bọn ni cô đang giữ chặt một người đàn bà, người đàn bà ấy giãy giụa kêu gào, bèn quát to:
- Vì sao các người lại làm thế?
Thấy một người khăn áo chỉnh tề bước vào, theo sau là bốn năm người, bọn ni cô hoảng hốt buông tay bỏ đi. Người đàn bà ấy quỳ xuống nói:
- Còn có đứa con gái bị nhốt ở phía sau, xin ông cứu mạng.
Công tử lắng nghe, quả nhiên đằng sau có tiếng khóc, đi thẳng tới thấy cửa khóa trái, công tử đập tung khóa, đạp cửa bước vào, thấy một người con gái đầu tóc rối bù, nằm vật dưới đất khóc đứng bên cạnh là người đàn ông. Thấy có người hùng hổ bước vào, hắn sợ quá đứng sững sờ, không sao trốn kịp. Công tử xông tới tóm chặt lấy hắn. Sau đó Trương thị bước vào ôm chầm lấy con, khóc ầm lên. Người ấy quỳ xuống xin tha. Công tử quát:
- Ngươi là ai mà giữa ban ngày ban mặt dám làm điều phi pháp.
- Tôi là Cố Khắc Xương, - người ấy nói, - nhà họ Lục hẹn tôi tới đây để mua nhà, tự dưng cao hứng nói đùa cô ấy mấy câu thế là cô khóc, chứ hoàn toàn không làm gì cả, xin ông tha cho.
Công tử bảo tùy tùng trói Khắc Xương lại. Biết được cô gái chưa bị làm nhục, công tử nói với Trương thị rằng:
- Mẹ con bà đừng đau buồn nữa, hãy nói cho ta biết họ đã lừa dối mẹ con bà đến đây như thế nào?
- Chồng tôi là Lục Tất Đại, vì tiền thuế thu bị thiếu hụt, chưa trả hết, muốn bán nhà để nộp cho đủ. Ni cô nói rằng đã có người mua, rồi lừa mẹ con tới đây. Nào ngờ họ đã nấp ở đó, rồi cưỡng dâm con gái tôi.
Nghe xong công tử vô cùng giận dữ, nói:
- Hãy đi báo quan ngay, tôi sẽ đi minh oan cho bà.
Thế rồi họ ra khỏi Phật đường.
Lúc đầu những người lân cận không để ý tới những việc lăng nhăng, về sau thấy to chuyện, họ túa đến nghe ngóng. Thấy họ, công tử hỏi:
- Các vị có biết nhà Lục Tất Đại không?
- Biết - Có người nói.
- Xin phiền ông gọi giúp người nhà Lục Tất Đại tới đây.

Sau đó bảo gia nhân trói hết bọn ni cô lại. Lát sau thì thấy người làng Tích Thiện tới. Nghe thấy việc này họ đều phẫn nộ, chửi Khắc Xương và bọn ni cô hết sức thậm tệ. Công tử nói:
- Có ai là người địa phương này không?
- Con chính là người làng này. - Một người trong đám đông nói.
- Nếu là người địa phương, tôi giao bọn phạm nhân này cho ông giải ngay lên huyện.
Công tử lại nói với Trương thị:
- Mẹ con bà cũng tới huyện ngay bây giờ, tôi sẽ tố cáo với quan huyện, nói với ngài xét xử vụ này.
Sau đó công tử lên ngựa đi trước, để một gia nhân ở lại áp giải. Mọi người hỏi gia nhân rằng:
- Chủ ông là người như thế nào?
- Chủ tôi là công tử Tường Phủ Tăng, là cháu của người bạn đồng khoa với ông lớn phủ Quy Đúc. Ông vừa đi mừng thọ ông lớn về, nghe thấy tiếng kêu khóc cho nên tới cứu. Công tử chúng tôi chuyên dẹp những nỗi bất bình, ra sức cứu giúp người. Các ông đừng lơi lỏng bọn phạm nhân mà chuốc vạ vào thân.
Trong số đó có người biết tiếng công tử, bèn vỗ tay nói:
- Hay, hay lắm! Lần này vị hào kiệt quyết không tha bọn ni cô dâm đãng và bọn côn đồ!
Trương thị, Kim Thư thuê một chiếc xe nhỏ, cùng với những người địa phương áp giải Khắc Xương và bọn ni cô lên huyện. Công tử tới trước đưa danh thiếp rồi vào huyện. Quan huyện đã gặp công tử tại buổi tiệc mừng thọ quan phủ, vừa thấy danh thiếp vội sai người ra mời vào. Chủ khách ngồi xong, công tử kể lại việc Khắc Xương, bọn ni cô đánh lừa và việc mình đến cứu như thế nào cho quan huyện nghe. Quan huyện đùng đùng nổi giận nói:
- Bọn ni cô và bọn côn đồ gian ác, coi thường pháp luật, đệ sẽ xử tội nặng là được rồi.
Công tử bái từ ra về.
Tiếp đó quan huyện gọi Trương thị và các phạm nhân vào xét hỏi. Tin ấy làm náo động cả huyện Ninh Lăng. Nhân dân cả huyện đều đổ tới xem đông nghịt.
Quan huyện ngồi tại công đường, tất cả bọn phạm nhân quỳ bên dưới. Trước tiên quan huyện gọi Trương thị tới hỏi. Trương thị kể lại việc chồng bị giam trong ngục, muốn bán nhà để bồi thường công quỹ. Ni cô Tĩnh Tu đã lừa dối tới am, tìm cách giữ bà lại và lừa đưa con gái bà tới một phòng đã có người nấp sẵn trong đó, rồi cưỡng dâm con bà. Thấy con gái kêu, bà chạy tới cứu, song bọn ni cô giữ lại. Sau đó rất may được công tử cứu thoát. Tiếp đó quan huyện lấy khẩu cung Tĩnh Tu. Tĩnh Tu cứ quanh co không khai thực. Quan huyện nổi giận quát:
- Kẹp nó cho ta.
Lính hầu đem kẹp tới kẹp chặt. Tĩnh Tu quen ăn trắng mặc trơn, chịu đau sao được, thị kêu như lợn chọc tiết, mồ hôi trên chiếc đầu trọc túa ra như mưa, đái cả ra quần, buộc phải kêu lên:
- Con xin khai!
Thế rồi Tĩnh Tu khai hết, từ việc Khắc Xương muốn lấy Kim Thư, nghĩ kế thế nào, rồi việc sai Tĩnh Tu lừa dối, và hắn đã đóng cửa hành dâm ra sao... Quan huyện hỏi:
- Bọn ni cô các người có gian dâm với Khắc Xương không?
- Không ạ! - Tĩnh Tu đáp.
Quan huyện bảo người kẹp tiếp. Tĩnh Tu cuống lên, vội nói:
- Có ạ! Có ạ! Quả thực chúng con quan hệ với nhau từ lâu rồi.
Thấy bọn ni cô đã cung khai, quan huyện bảo thôi không kẹp nữa. Sau đó gọi Cố Khắc Xương lên hỏi, quan huyện giận dữ quát:
- Ngươi là đứa đáng chết, đất nước thanh bình mà lại dám hoành hành ngang ngược, quả là ngươi đã coi trời bằng vung. Nay bản huyện sẽ tặng ngươi chiếc kẹp.
Rồi ông bảo với lính hầu:
- Kẹp hắn lại cho ta!
Hằng ngày bọn lính hầu thường thân thiết với Khắc Xương, thấy quan huyện nổi giận, bọn họ không dám nương nhẹ, đành phải lôi hắn ngã sấp, ngã dụi rồi lấy kẹp kẹp. Quan huyện ngồi trên quát:
- Phải kẹp thật đau!
Khắc Xương vốn là một tên quen thói ăn chơi, chưa từng nếm mùi đau đớn, nay bị cực hình, hắn hồn xiêu phách lạc, ngất lịm đi. Lính lệ hắt nước lạnh hắn mới tỉnh dậy. Tri huyện hỏi:
- Ngươi đã bày mưu cưỡng dâm, còn biện bạch gì nữa.
- Con không dám biện bạch. Song con chỉ trót dại chòng ghẹo thôi, quả thực con chưa hại cô ấy, xin ngài tha tội!
- Tuy chưa hành dâm, nhưng sự thực là đã cưỡng ép cô ấy. - Quan huyện nói.

Rồi ông lệnh giam Khắc Xương vào nhà ngục, sẽ định tội. Còn bọn ni cô bị đưa ra ngoài, đánh mỗi đứa bốn mươi gậy, bắt hoàn tục.
Khi ấy người đến xem đông nghịt, tắc đường nghẽn lối. Kim Thư quỳ đằng sau mẹ, nhưng quan huyện không hỏi đến, chỉ bảo Trương thị dẫn cô về. Trương thị xin tha cho chồng, rồi sẽ bán nhà bồi hoàn. Quan huyện nói:
- Không được! Phải hoàn trả tiền xong mới được tha.
Trương thị đành ra về. Theo lệ địa phương, quan huyện bắt Khắc Xương phải sung vào quân lính vùng biên ải.
Mẹ con Trương thị tới nhà giam thăm Tất Đại, kể hết chuyện đã xảy ra, rồi nhìn nhau khóc lóc. Tất Đại nói:
- Tính mạng của mẹ con bà hoàn toàn do Tăng công tử cứu vớt. Ta không thể tới cảm ơn công tử được, mẹ con bà phải đến cảm ơn mới đúng.
Mẹ con Trương thị lập tức ra khỏi ngục, nhờ người láng giềng thân thiết dẫn đến chỗ công tử. Công tử thấy thế bèn hỏi:
- Chồng bà đã ra khỏi trại giam chưa?
Trương thị nước mắt lưng tròng nói:
- Thưa công tử, quan huyện nói rằng: "Phải chờ giao nộp xong tiền mới tha".
Công tử than rằng: "Làm cho người ta khánh kiệt gia tài, mà còn cố chấp như thế". Rồi hỏi:
- Còn thiếu bao nhiêu?
- Còn thiếu hơn một trăm lạng nữa. - Trương thị nói.
Công tử lập tức bảo gia nhân lấy ba gói bạc đưa cho Trương Thị, rồi nói:
- Mỗi gói là năm mươi lạng, cả thảy là một trăm năm mươi lạng, hãy cầm lấy số bạc này để trả nợ, còn bao nhiêu cứ để lại mà dùng.
- Chồng tôi bảo tôi đến cảm ơn công tử, chứ có dám đến xin ngài gia ân đâu ạ!
- Thôi đừng từ chối nữa, - công tử nói, - hãy về lo liệu công việc đi.
Lúc ấy Trương thị như người bị rơi xuống vục được lôi lên, bà vội quỳ xuống khấu đầu lia lịa tạ ơn công tử. Nhưng công tử đã bỏ đi ngay.
Vì sao công tử không về trang trại ngay? Bởi việc của Tất Đại thưa xong, công tử không yên tâm, nên đã nán lại trong thành chờ xem sao. Khi hai mẹ con Trương thị đi rồi, công tử lập tức trở về trang trại. Trương thị đã có bạc, tới ngay giao cho huyện, Lục Tất Đại lập tức được tha. Thời ấy, cả huyện ai ai cũng khen ngợi công tử là người nghĩa khí. Ra khỏi trại giam, Lục Tất Đại đến ngay chỗ công tử tạ ơn, song công tử đã đi từ Lâu. Tất Đại đành khóc trở về.
Công tử về tới nhà, tuyệt nhiên không hề nhắc tới việc này, nếu không đọc sách làm thơ, thì công tử cưỡi ngựa bắn cung, luôn luôn mong muốn có cơ hội sẽ làm nên sự nghiệp. Bỗng một hôm, có một quân nhân đến nhà, hỏi người gác cổng rằng:
- Đây có phải tư dinh của công tử không?
- Thưa ngài đúng ạ! - Người gác cổng nói.
- Tôi là người giúp việc của ngài Vương Đại Tuần phủ Quý Châu, ngài gửi thư tới muốn gặp công tử.
Người gác cổng vào bẩm, công tử lập tức mời người ấy vào. Vào sảnh đường, thấy công tử người ấy vội quỳ xuống. Công tử đỡ dậy nói: "Người được Bác Vương sai tới sao lại quá kính cẩn như thế. Xin mời ông ngồi uống nước, rồi hãy nói".
Người ấy ngần ngừ mãi, sau mới dám ngồi, rồi vội lấy thư trình lên. Công tử bóc ra xem, nói với người ấy rằng:
- Đến mai bàn bạc, rồi cùng đi một thể.
Vì sao quan Tuần phủ lại mời công tử? Vương Công tên là Tam Thiên, vừa là anh em kết nghĩa của cha công tử, vừa là bạn đồng khoa, thân nhau như ruột thịt. Ông luôn luôn nghĩ tới và mến mộ tài năng văn võ của công tử, nghĩ rằng công tử sau này sẽ có ích cho đất nước. Nay vì Quý Châu loạn lạc, triều đình giao cho ông làm tuần phủ, đúng lúc cần dùng người, cho nên đã sai người tới mời. Một là giúp mình, hai là muốn cho công tử hiến dâng tài năng làm nên sự nghiệp. Lá thư ấy rất hợp với tâm sự của công tử. Đến hôm sau, công tử giao lại toàn bộ việc nhà cho một gia nhân tâm phúc cai quản, còn mình mang theo một ít bạc cùng bốn gia nhân và người đem thư lên đường.
Đi hơn bốn mươi ngày mới đến thành Quý Châu. Thấy công tử đến, Vương Tuần phủ vội ra đón ngay vào thư phòng dự tiệc tẩy trần. Ban đêm công tử cũng nghỉ tại đây để tiện bàn việc cơ mật. Vương Tam Thiên thấy công tử có tài năng và rất thận trọng chu đáo, bởi thế tất cả những nhiệm vụ quan trọng về quân sự và mọi kế hoạch, công tử đều được tham dự bàn bạc, và đã đưa ra những ý kiến rất xác đáng.
Một hôm hội thao quân lính, Vương Tuần phủ lệnh cho công tử tới bãi tập thao diễn trước quân sĩ, rồi ông cười hỏi Tăng công tử rằng:
- Võ nghệ của cháu chắc là phải cao cường lắm?
- Cháu cũng biết đôi chút, xin mong bác dạy bảo.
- Chính ta đang cần thỉnh giáo. - Vương Tuần phủ đáp.
Công tử nhảy phóc lên lưng ngựa, phi quanh bãi tập, bắn trăm phát trúng cả trăm. Sau đó công tử ngồi trên mình ngựa múa đại đao, ngựa phi vòng quanh, rẽ phải rẽ trái, người xem hai bên chỉ thấy một vầng ánh sáng che kín người ngựa, khiến mọi người hoa cả mắt, ai ai cũng phải trầm trồ thán phục. Vương Tuần phủ rất mừng, cùng công tử trở về nha môn, hỏi công tử rằng:
- Cháu thấy quân sĩ thế nào?
- Dàn trận tuy tề chỉnh, nhưng quân luyện chưa thuần thục. - Công tử nói. - Người xưa có nói: "Quân không cần nhiều, mà cần tinh". Thà rằng hãy tuyển chọn người tinh nhuệ thành lập riêng ra một đội, ngày đêm luyện tập, trọng thưởng quân sĩ cùng chia ngọt sẻ bùi, thì khi lâm trận họ sẽ anh dũng xông lên. Một địch mười, thì trăm trận trăm thắng.
Vương Tuần phủ thấy công tử bàn rất chí lí, bèn nói:
- Muốn nhờ công tử làm chức giám kỉ, hiện có tờ trát lưu không, điền họ tên công tử vào, lúc đó công tử có thể ra lệnh cho ba quân.
- Xin tuân lệnh tuần phủ, - công tử đáp, - cháu xin hết sức cố gắng.

HOMECHAT
1 | 1 | 182
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com