watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
16:43:4004/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 1 - 11
Chỉ mục bài viết
Đoán Án Kỳ Quan Tập 2 1 - 11
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Tất cả các trang
Trang 1 trong tổng số 20


Đoán Án Kỳ Quan

Phạm Tú Châu - Nguyễn Văn Thiệu (Dịch và biên soạn)

Tập 2 - Chương 1

Giữ Phép Nước, Trung Thần Trừ Kẻ Ác
Gây Án Oan, Gian Đảng Hại Người Trung


Người ta thường nói: "Trừ cỏ tận gốc", có nghĩa là, trừ ác cũng phải trừ tận gốc. Song thánh nhân lại nói rằng: "Ghét kẻ bất nhân quá đáng sẽ sinh loạn". Quá khích thì sinh biến loạn, bởi thế không thể không đề phòng. Chẳng hạn như thời Gia Tĩnh triều Minh, có một vụ án oan mà khiến cho ai ai cũng phải nghiến răng căm giận. Chỉ vì trị bọn tiểu nhân mà liên quan đến đại thần quốc thích. Vì triều đình bảo vệ quốc thích mà tha cho bọn tiểu nhân, khiến bọn gian manh lọt lưới còn viên quan thẳng thắn thi hành pháp luật thì lại bị cho là hãm hại người vô tội, rồi bị bắt giam vào ngục đền tội. Các quan trong Đài gián, có người đứng ra tranh luận đều bị giết một cách nhục nhã, và trở thành thảm họa trong giới quan lại. Há đây chẳng phải là sự thưởng phạt hết sức vô cớ sao! Song quân tử cũng có chỗ không đúng. Cổ nhân xưa từng nói: "Đánh chuột phải loại trừ đồ vật". Thiết nghĩ, các bậc quân tử phải biết tính toán từ trước, sao lại để đến nỗi phải đắm chìm vào án oan, đến khi quan mới lên thay, công luận mới đề cập tới. Thế mới thấy, ghét kẻ ác đừng ghét quá đáng, và không thể không theo lời dạy của thánh nhân.
Thời Gia Tĩnh triều Minh, huyện Quách Đại Châu, Sơn Tây, có một kẻ gian ác tên là Vương Lương, hắn đã xướng lập ra tà đạo Bạch Liên, phù phép lừa dối những người ngu muội. Những người theo đạo Bạch Liên, dù nam hay nữ đều gọi là "Phật tử", kết bè kết đảng, sống chung chạ với nhau. Vương Lương có ảo thuật mê hoặc người, tất cả những con gái xinh đẹp trong vùng và các ni cô trẻ đều bị hắn làm ô nhục. Ngay đến cả những nhà giàu có cũng đều bị tà đạo lừa dối. Tay chân của hắn có tới hàng vạn tên, đều luyện phép thuật yêu ma quỷ quái chúng ra ngoài mặc sức gian dâm với đàn bà con gái, cướp bóc tài sản, không từ một việc gì.

Có một vị tú tài, vợ anh ta không đẹp lắm. Một hôm vào buổi tối, một cô gái tới nhà xin ngủ trọ, thấy cô đẹp, tú tài muốn dụ cô gian dâm, bèn giữ cô ngủ lại tại buồng của vợ, rồi bàn với vợ rằng, khi cô ta vào phòng thì tắt đèn đi ra, sau đó anh ta vào phòng ngủ với cô. Vào lúc canh hai, chờ cho vợ ra, vị tú tài bèn rón rén tới bên giường, chưa dám hành sự ngay. Nào ngờ người trên giường chờ đợi từ lâu, nghe thấy tiếng bước chân bèn nhổm dậy ôm chầm lấy. Thấy thuận lợi, tú tài nhảy tót lên giường để thỏa dục mây mưa. Nào ngờ, cái của người ấy cất lên, to cứng hơn cả của mình. Tú tài nhảy vọt ra, kêu rầm lên bảo mọi người bắt người ấy trói lại. Hỏi ra thì đó là đồng bọn của Vương Lương. Hắn thường giả làm đàn bà để lừa vợ con người khác. Bất chợt tú tài giận dữ, cắt phăng dương vật của hắn, sợ hắn chết trong nhà bất ổn, bèn đắp thuốc vào vết thương, rồi thả ra. Đó chẳng phải là một chuyện lạ ư?
Lại có một làng, đêm đêm ma quỷ cứ tác oai, tác quái. Vừa chập tối đã thấy có bóng đen đột nhập vào nhà, có khi thì giống lừa ngựa, có khi hình người mặt xanh răng chìa ra như quả chuối mắn, trẻ con sợ khóc thét lên, suốt đêm không lúc nào yên giấc. Biết được bọn tà giáo của Vương Lương có thể trừ tà đuổi quỷ, họ thu gom tiền bạc, xin Vương Lương dùng phép bắt ma. Vương Lương bảo họ, nếu thôn ấy theo đạo của hắn thì quỷ quái không tới quấy nhiễu nữa. Quả nhiên đúng như thế. Từ đó những người xa kẻ gần không ai không sùng bái. Việc tác oai tác quái như thế không phải chỉ một lần mà thôi, ngờ đâu bọn yêu tặc lại còn nhiều lần dùng phù phép trêu người.

Tên cấp phó của chúng là Lý Phúc Đạt, dũng mãnh có thừa và cũng vô cùng giảo hoạt, hắn đã dùng thủ đoạn mê hoặc ngu dân như Vương Lương. Về sau, quan phủ biết được, bắt mấy kẻ đồng đảng của chúng trị tới cùng. Lý Phúc Đạt bèn liên kết với Vương Lương ngang nhiên chống lại. Hắn tụ tập hàng ngàn người giết hại dân thường, đốt nhà cướp của rất hung hãn. Phủ quan đem quân đánh vào sào huyệt, song bị chúng giết không còn đường thoát.
Vương Lương lại có thuật cấm binh khí, đao gậy, cung tên đều không chạm vào người được. Do đó thế giặc ngày càng mạnh, quan quân triều đình không sao chống nổi. Phủ quan hỏi mọi người về cách chống giặc. Có một tướng quân nói:
- Phép thuật vặt ấy phá chẳng khó khăn gì. Hãy bảo quân lính mỗi người cầm một chiếc gậy tùy thân, gặp giặc dùng gậy đánh, không dùng dao chém, thì bọn chúng không sao chống cự nổi.

Phủ quan làm theo kế ấy. Bọn giặc cứ dựa thế binh khí sẽ không chạm vào người được, bởi thế mà chúng cứ ung dung không hề phòng bị. Nào ngờ quan quân bất thần ập tới, dùng gậy đánh. Một người thắng, tất cả ồ ạt xông lên. Trận ấy bọn yêu đảng chết không sao kể xiết. Thấy yếu thế, đội quân ô hợp hè nhau chạy tán loạn. Tên đầu sỏ Vương Lương bị bắt, cùng với hơn hai mươi tên đồng đảng, tất cả bọn chúng đều bị trảm thủ bêu đầu. Chỉ còn Lý Phúc Đạt là một tên giảo hoạt, thấy Vương Lương thất thế bèn hoảng hốt cải trang chạy trốn.
Quân tướng nhà Minh rất chủ quan, tìm không thấy hắn, cho thế là xong việc. Nào ngờ Lý Phúc Đạt trốn tới huyện Từ Câu phủ Thái Nguyên, đổi tên là Trương Dần. Khi hắn chạy trốn, mang theo nhiều vàng bạc châu báu. Huyện ấy có một người họ Trương, là người vừa giàu lại vừa có thế lực. Trương Dần lân la kết giao, nhận là người trong nhà, ghi vào gia phả để che mắt mọi người. Con mắt người đời rất thiển cận, thấy hắn có tiền của, có thế lực, cũng chẳng để ý gì đến, chỉ biết hắn là Trương Dần, chứ hoàn toàn không hiểu được trước đây hắn là Lý Phúc Đạt. Sau này thấy việc truy bắt đã buông lơi, hắn bèn đem tiền của đến kinh đô kết giao với những người quyền quý để làm bùa hộ mệnh. Thời ấy quốc thích Vũ Định hầu - Quách Huân - ngang nhiên nhận hối lộ, hắn là kẻ tiểu nhân tham lam vô liêm sỉ, ai có tiền cũng có thể mua chuộc được. Trương Dần dùng lễ vật hậu đút lót, chui vào làm thợ. Những ngày lễ tiết quanh năm đều mang lễ hậu đến dâng tặng. Thăm dò, biết được Vũ Định hầu là người mê gái, Trương Dần bỏ ra một ngàn lạng vàng mua một mỹ nữ, vờ làm con đẻ của mình dâng hiến, khiến Vũ Định hầu vô cùng sung sướng, ngay cả tính mệnh của mình cũng muốn hi sinh cho Trương Dần.

Trương Dần giả, dựa vào thanh thế của Quách Huân, kết giao với các quan trong triều thân thiết như anh em ruột thịt. Vừa lúc triều đình mở ra một lệ mới, Lý Phúc Đạt theo lệ ấy, bỏ ra một ngàn thạch thóc, được bổ nhiệm làm Chỉ huy vệ Thái Nguyên Sơn Tây. Một tên hung đồ trốn chạy, lại làm quan theo lệnh của triều đình, thật đáng nực cười!
Phúc Đạt có hai con trai, con trưởng là Đại Nhân, con thứ là Đại Nghĩa, đều làm thợ cho Quách Huân, sống tại kinh đô. Đây là nơi đầu mối giao thông quan trọng, đúng là con thỏ giảo quyệt đã tìm được ba cái hang để lánh mình? Có được chỗ dựa vững chắc như Thái Sơn, quả là hắn đã phủ nhung lụa, gấm vóc lên tội ác của hắn, có tài thánh cũng không nhận ra được hắn là ai.
Đại Châu có một người tên là Tiết Lương, chơi thân với Phúc Đạt từ khi còn bé. Nghe nói Phúc Đạt phạm tội chạy trốn, quân triều đình không truy lùng ra, lại nghĩ hắn ẩn nấp ở nơi xa, nhất định sẽ phải bỏ xương nơi đất khách quê người. Ngẫu nhiên đến Thái Nguyên thăm người thân, đang đi lang thang trên đường, thì thấy một quan võ cưỡi ngựa, quát thét dạt đường, đằng sau là bốn năm người lính hầu áo mũ oai vệ, khí thế ngang tàng, trông rất hách dịch. Tiết Lương đứng dẹp vào vệ đường để cho họ đi qua. Khi ngựa Trương Dần tới nơi, Tiết Lương chợt nhận ra người ấy là Lý Phúc Đạt. Tiết Lương giật thót mình, nghĩ rằng: "Sao người ấy lại được thế này?". Rồi lại thấy một người tới nói chuyện với ông ta, Tiết Lương lắng nghe tiếng nói, thì quả không sai. Song cũng không dám tin: "Có thể là người giống nhau, chứ chưa chắc đã đúng". Trong lòng Tiết Lương thắc thỏm không yên, nửa tin nửa ngờ. Chờ cho đoàn người đi qua, Tiết Lương đến một nhà trước mặt phố lễ phép hỏi:
- Thưa ông, người cưỡi ngựa đi trước là quan gì vậy?
- Đấy là ngài Trương, Chỉ huy vệ Thái Nguyên, tên là Dần. - Người hàng phố nói.

Tiết Lương vẫn không sao cả quyết được, nghĩ: "Nếu là ông ta thì sao lại vinh hiển đến thế? Nếu không phải là ông ta thì sao nụ cười, tiếng nói, nét mặt lại đúng là ông ta?". Nghĩ đi nghĩ lại mãi, rồi Tiết Lương tự nói thầm với mình: "Đúng rồi, ông ta sợ nên đổi tên là Trương Dần, rồi tìm cách làm quan ở đây. Thôi thì cứ mặc ông ta, ngày mai mình tới thăm ông ta xem sao, chưa biết chừng mình không những được dối xử tốt, mà lại còn mua chuộc, mình đừng lộ ra, và biết đâu lại được một món tiền to!”.
Nghĩ thế, Tiết Lương yên tâm ngủ. Sáng sớm hôm sau, cơm nước xong Tiết Lương tìm đến dinh quan Phúc Đạt. Tới cửa ông ta chắp tay nói với người gác cổng:
- Ông lớn các ông có nhà không?
- Đang ở nhà. - Người ấy đáp.
- Xin phiền ông nói với ngài rằng có người bạn cũ đến thăm. - Tiết Lương nói.
Người gác cổng hỏi họ tên, Tiết Lương nói:
- Ông không cần phải hỏi, lát nữa gặp ông chủ khắc biết.
Người gác cửa vào bẩm. Phúc Đạt thấy nói là người bạn cũ không đoán được là ai, nói:
- Hãy mời ông ấy vào?
Người ấy vừa vào, Trương Dần biết ngay là Tiết Lương, mặt bỗng tái đi, nhưng vẫn tỏ vẻ tươi cười bước xuống thềm chắp tay nói:
- Từ ngày xa nhau đến giờ bạn vẫn bình an chứ?
Tiết Lương chắp tay nói:
- Nghe thấy cố nhân ở đây, tôi nhã ý tới thăm.
Thế rồi Phúc Đạt mời Tiết Lương vào thư phòng.
Tiết Lương thấy xung quanh không có ai mới hỏi:
- Trước đây ông lâm sự, sao đến được đây làm quan, vinh hiển tới mức này?
Phúc Đạt xua tay nói:
- Việc trước ông đừng nhắc tới nữa. Sao ông lại biết tôi ở đây?
- Hôm qua thấy ông trên đường, vì tùy tùng đông tôi không tiện hỏi, nay nhã ý đến thăm ông. Chỉ mình tôi lưu lạc tới đây, vốn liếng hết sạch, nhờ ông giúp cho chút ít, không biết ý ông thế nào.
- Điều này không cần phải nói. - Phúc Đạt nói. - Nhưng ông đã đến đây cũng phải lưu lại chơi mấy ngày, chờ tôi thu xếp lúc đó tôi sẽ tiễn chân ông về phủ, ông thấy thế nào?
Tiết Lương thấy ông ta có lòng tốt, hết lời cảm tạ. Rồi Phúc Đạt cho dọn cơm rượu ra, hai người cùng ăn uống rất vui vẻ. Cơm nước xong, Phúc Đạt dặn dò bọn tay chân rằng:
- Hãy sắp xếp giường chiếu cho ông nghỉ tại thư phòng.
Chuyện trò hồi lâu, cuối cùng Phúc Đạt nói:
- Ông cứ yên tâm nghỉ tại đây.
Rồi Phúc Đạt vào nhà trong, nghĩ thầm: "Chẳng ai biết được tông tích của ta, nay hắn biết được, nếu hắn ra ngoài nói cho người khác biết thì nguy to! Thôi thì ta ra tay giết hắn trước để trừ hậu họa". Ngấm ngầm tính toán xong, hắn gọi hai tên tâm phúc đến thì thào dặn rằng:
- Lão đến hôm nay là kẻ thù truyền kiếp của ta, ta đã giữ hắn ở lại thư phòng. Ta nhờ vào lưỡi dao sắc của ngươi để giết hắn. Vào canh ba đêm nay hãy kết liễu đời hắn, rồi vứt xác hắn ra ngoài đồng hoang. Phải làm cho thật mau lẹ gọn gàng, xong việc ta sẽ thưởng cho các ngươi hai mươi lạng bạc, và sau này ta sẽ cất nhắc các ngươi. Các ngươi có muốn làm việc này không?
Hai tên đầy tớ vui vẻ đáp:
- Xin ngài cứ ngủ ngon. Việc khác chúng con không làm được chứ việc này là việc vặt, có đáng gì. Xin hứa với ngài sẽ làm êm ru.
Phúc Đạt rất mừng. Hai người cũng hớn hở bước ra, định nửa đêm hành sự.
Tiết Lương ăn cơm tối xong, ngồi một lúc lâu mới đóng cửa thư phòng, lên giường nằm nghỉ. Tự nhiên Tiết Lương thấy đau bụng, định tìm chỗ vắng đại tiện, bèn ra khỏi thư phòng. Đêm ấy ánh trăng lờ mờ, thấy mé nhà có một lối đi nhỏ, Tiết Lương lẻn ra xem chuồng ngựa chỗ nào, nhưng đây là một khu đất trống. Định ra đó thì bỗng nghe thấy bên kia tường có tiếng thì thào. Một người nói:
- Vì sao ông lớn lại định giết người ở thư phòng?
- Anh không nghe ông lớn nói, - người kia nói, - người ấy là kẻ thù của ông lớn ư?
Tiết Lương nghe thấy rụng rời chân tay, ngay đi đồng cũng không kịp, nghĩ: “Không ngờ tên giặc ấy lại lòng lang dạ sói như thế! Nếu chậm chút nữa thì tính mạng mình sẽ đi đời, phải chạy trốn ngay mới là thượng sách". Tiết Lương rón rén bước qua chuồng ngựa, thấy có bức tường đất, tìm chỗ thấp leo qua. Rất may bên ngoài lại là đường cái thông đi các ngã. Tiết Lương chạy thục mạng, không biết đã bao xa.
Đúng lúc ấy Tri phủ Thái Nguyên đi dự tiệc trở về, Tiết Lương nhìn thấy, cắm cổ chạy thẳng vào đường ông lớn đang đi bị quân lính tóm được, hỏi anh là ai. Tiết Lương nghĩ rằng, phải tố cáo Lý Phúc Đạt, nhưng chưa nghĩ ra cách nào, nay lại thấy Tri phủ Thái Nguyên, Tiết Lương xông vào, ra sức kêu oan. Ông lớn quát hỏi:
- Ngươi có việc gì oan khuất mà đêm hôm kêu gào?
- Con gặp nạn phải chạy trốn, có sự việc tày trời muốn cáo giác nhưng người đông không dám nói, xin ngài cho về tư dinh con sẽ mật báo.
Tri phủ cho dẫn anh ta về dinh. Vừa vào cửa, đã cho gọi Tiết Lương vào nhà riêng hỏi tố cáo việc gì. Tiết Lương bẩm rằng:
- Con là người Đại Châu, tên giặc Lý Phúc Đạt là người đồng hương quen biết. Trước đây con nghe hắn trốn đi biệt xứ, hôm qua con gặp Trương Dần, Chỉ huy vệ Thái Nguyên, nhìn kĩ mới nhận ra hắn chính là Lý Phúc Đạt. Vì con đến thăm, Phúc Đạt dặn con không được nói ra, giữ con lại qua đêm. Con tưởng hắn tốt, nào ngờ hắn định giết con để bịt đầu mối. Con bỗng nhiên đau bụng ra ngoài tìm chỗ đại tiện, song nghe thấy bên kia đường hai người mưu giết con nói chuyện với nhau. Con đã vượt tường chạy trốn và đến cáo giác với ngài.
Quan Tri phủ nói.
- Tên quan chỉ huy Trương Dần có đúng là Phúc Đạt đổi tên không? Ngươi không được cáo giác bừa.
- Nếu con nhận không đúng thì làm sao con dám tố cáo. - Tiết Lương trả lời.

Quan phủ nghĩ: "Lý Phúc Đạt là tên tội phạm nguy hiểm, hiện các nơi đang truy nã nghiêm ngặt mà vẫn chưa bắt được. Nay hắn thay tên đổi họ, chạy đến đây làm quan. Đã có người tố giác thì nhất định đúng hắn rồi!”. Ngay đêm ấy dẫn người đi báo với Đô viện. Đô viện được tin bèn truyền lệnh cho trung quân đem tiêu binh hiệp đồng với Tri phủ, Tri huyện bắt gian đảng.

Chương 1 (B)

Hai tên tay chân của Lý Phúc Đạt, vào khoảng canh ba tới thư phòng, không thấy Tiết Lương, vội vàng báo với chủ. Biết được Tiết Lương đã bỏ đi, Phúc Đạt sợ xanh mặt. Thấy nguy cấp, suốt đêm không sao ngủ được, lại nghe thấy bên ngoài có tiếng người ngựa, rồi sau đó thấy tiếng đập cửa thình thình. Mở cửa ra, thấy đèn đuốc sáng rực ập vào, đi sau là hai vị phủ quan, quan thấy Phúc Đạt liền quát thét:
- Bắt ngay!
Phúc Đạt phân trần mình vô tội.
- Ngươi là Lý Phúc Đạt, - quan lớn quát, - hiện có Tiết Lương đang tố cáo, còn biện bạch gì nữa!

Thấy sự việc bại lộ, Phúc Đạt bèn cúi đầu chịu trói. Quan phủ khóa tất cả bọn người nhà giải đi. Kiểm tra toàn bộ tài sản, niêm phong cửa, một mặt báo cho địa phương trông coi, mặt khác giải phạm nhân về dinh quan tra hỏi. Tiết Lương được gọi ra cùng đối chất với Phúc Đạt. Tiết Lương nói rất rạch ròi, Phúc Đạt tuy giảo hoạt, nhưng sự thực rành rành, không thể che giấu nổi, đành phải thừa nhận.
Quan phủ thấy hắn cung khai, cũng không tra tấn, giam hắn vào ngục, rồi bẩm lên cấp trên xin chiếu chỉ định đoạt. Rồi lập tức gửi văn bản về kinh đô bắt hai đứa con. Thời ấy phủ Thái Nguyên đều có báo tin tức, người ta túm năm tụm ba truyền tin đi khắp mọi nơi rằng: "Đời nay có tiền thì kẻ cướp cũng được làm quan". Tuy Phúc Đạt bị giam, song vẫn liên hệ thông suốt với kinh đô. Ngay đêm ấy đã báo tin cho hai đứa con, bảo chúng trốn chạy đến phủ Vũ Định hầu, nhờ ông ta cứu giúp, nhất định sẽ hậu tạ. Quách Huân biết tin gửi thư cho Tất Chiêu là quan Tuần phủ Sơn Tây, nhờ ông ta phóng thích. Là một kẻ muốn đề cao quyền lục, thấy Quách Huân có thư nhờ cậy, Tất Chiêu ghép luôn Tiết Lương vào tội vu cáo. Các quan thẩm phán ra sức tranh cãi, song vẫn không thể bác bỏ, cuối cùng vụ trọng án thật lại dần dần trở thành mơ hồ.
Đúng lúc ấy quan Ngự sử tiếng tăm lừng lẫy tên là Mã Lục được lệnh tuần du Sơn Tây. Vốn là người thanh liêm, chính trực chưa tới nhiệm sở, Mã Lục đã nghe thấy vụ án này tuần phủ không chịu chấp hành pháp luật, lại trì hoãn lâu ngày không giải quyết, lập tức ông đưa vụ án Lý Phúc Đạt ra phúc thẩm. Ông cho người tới huyện Quách Đại Châu bắt những người hàng xóm Lý Phúc Đạt đến nhận mặt, lại đưa giấy đến huyện Từ Câu kiểm tra nơi ở của hắn. Kết quả phúc thẩm: "Phúc Đạt không phải là người ở đây, hắn đã tới đây từ năm bị truy lùng, hắn đã mạo nhận là họ Trương, đổi tên là Trương Dần". Đâu đâu cũng thấy chứng cứ, sau đó Mã Lục lại bắt Phúc Đạt lấy khẩu cung, thì quả nhiên hắn cung khai đúng như thế.

Vụ án đã kết luận, đang định tấu lên Chính pháp, bỗng một hôm quan Tuần bổ bẩm rằng:
- Vũ Định hầu sai người đưa thư tới.
Theo quy định của nha môn, tất cả những thư đã dán kín không được bỏ vào hòm thư. Thư của Vũ Định hầu gửi tới tất có sự nhờ vả về vụ án, phải đệ trình ngay lên quan. Sai nhân bước tới trước bàn dâng thư, quan Ngự sử họ Mã bóc ra xem, cười ha hả nói:
- Thật là một đại thần quốc thích! Đã nói giúp cho một tên đại tặc, lẽ nào ông không hiểu được phép vua!
Sai nhân cậy mình là người của phủ Hầu, nói:
- Thưa ông lớn, phép vua vốn cần thiết, song e rằng tình riêng cũng rất cần.
Tuần án quát:
- Đánh đánh rồi hãy nói sau!
Tay chân đồng thanh quát, lôi tuột ra đánh. Bị đánh hai mươi gậy, sai nhân đau quá không chịu nổi, van xin tha tội:
- Con tự biết đã xúc phạm, xin ngài nể mặt ông lớn nhà con.
- Nể mặt chủ mày, đánh thêm hai mươi gậy nữa! - Tuần án đáp.
Mã Lục trừng phạt hắn bốn mươi gậy, rồi bảo hắn chống nạng mà về. Sai nhân ôm đầu lủi ra.

Tuần án lập văn bản, gửi kèm theo cả bức thư của Quách Huân. Gia Tĩnh đế xem văn bản chuẩn y ngay, lại giáng chỉ, quở trách Quách Huân. Đúng là án đã quyết thì phép trời cũng không thể lập được.
Nếu như gián quan không tham gia hạch tội, thì việc ấy đã kết thúc. Tiếc rằng phong khí thời Minh, gián quan rất thích tranh luận để tỏ rõ năng lực của mình. Bản thứ nhất không phê lại đệ lên bản thứ hai, bản thứ hai cũng không phê chuẩn, thế là cứ tiếp tục dâng bản tấu lên, triều đình cứ rối như canh hẹ. Bởi thế vương thân quốc thích có đôi chút sai sót cũng đều sợ ông. Lúc đầu họ bàn luận về đúng sai, tiếp đó họ lại đề cao chí khí, cốt yếu là thể hiện tài hùng biện của họ. Triều đình chán ngán để lại, không nhắc đến nữa. Nay thấy Mã Tuần án tấu trình lên, Vũ Định hầu che chở cho kẻ phản nghịch, viết thư riêng nhờ vả, các quan đều đùng đùng nổi giận. Có người nói:
- Phúc Đạt giết hàng vạn người, trốn biệt tăm tích, nay tội đã rõ ràng, khép hắn vào tội cực hình vẫn còn chưa xứng. Vũ Định hầu lại quanh co xin cho hắn cũng đáng phải trị tội.
- Liên hệ với kẻ giặc phản nghịch, - có người nói, - rõ ràng là kẻ nhận hối lộ của Phúc Đạt, phải chu diệt. Quách Huân cũng khó mà tha được .

Những bản vạch tội hắn càng về sau càng ghê gớm. Họ nói về kẻ che chở cho bọn phản nghịch, bụng dạ khó lường, phải ghép vào tội mưu phản, phải diệt cả họ mới đáng. Quách Huân sao có thể chống cự nổi, bèn đi van xin Trương Thông, Quế Ngạc, những sủng thần tâm phúc của triều đình, cầu mong họ che chở.
Vì sao Trương Thông, Quế Ngạc lại được triều đình sủng ái? Thời ấy hoàng đế Chính Đức băng hà, không có con nối dõi, di chiếu để lại là lập Hậu Thông - con cả Hưng Hiếu vương, thuộc cháu ruột Hiếu Tông - lên thừa kế. Quần thần bèn tôn ông lên làm hoàng đế, đó là Gia Tĩnh đế. Gia Tĩnh tức vị, tôn cha đẻ của mình làm Hưng Hiếu hoàng đế, gọi Hiếu Tông hoàng đế là Bá. Đó là tình riêng, chứ thực ra không thuận lẽ trời, lòng người. Chẳng hạn như dân thường không có con lập người thừa tự, giao hết tài sản cho người thừa kế, tự tiếp nhận việc thờ cúng, thì cha mẹ sinh ra mình phải kém một vai. Nếu chỉ coi trọng người sinh ra mình, coi cha mẹ mà mình thừa kế như chú bác, thì việc thừa tự có ích gì? Thiên tử và thứ dân cũng thế thôi. Bởi thế mà quần thần làm căn cứ vào kinh điển, đều nói không nên xưng Hưng Hiếu là Khảo. Gia Tĩnh bị công luận ngăn trở, đành phải nín nhịn.
Thời ấy Trương Thông vừa đỗ tiến sĩ, những việc lớn trong triều chẳng thấy ông mở miệng bao giờ. Một hôm Trương Thông gặp một người thầy tướng, người ấy nói:
- Xem tướng thì thấy trong hai năm nữa ngài sẽ làm tới chức tể tướng.
- Ta mới đỗ tiến sĩ, - Trương Thông nói, - làm sao hai năm nữa, bỗng chốc leo lên hàng tể tướng được?
- Tướng ngài sinh ra như thế, - thầy tướng nói, - ngay đến tôi cũng không sao biết được.

Đúng lúc cuộc bàn luận về đại lễ xảy ra, Thông thấy triều đình muốn tôn sùng người đẻ, song bởi hội nghị triều đình ngăn trở, nên không toại nguyện. Ông ta bèn nghĩ rằng: "Nếu ta sáng lập ra một cuộc bàn luận khác, bác bỏ những lời bàn của quần thần, thì hoàng đế nhất định vui lòng, và phú quý sẽ đến tay". Thế là ông ta dâng sớ tâu rằng:
- Hoàng thượng được thừa trị đại tông, tôn Hiếu Tông là Hoàng Khảo, tôn Hưng Hiếu vương là Hoàng Thúc Phụ, các triều thần trong triều đình quá câu nệ vào chuyện cũ, Hán Ai đế Tống Anh được lập làm thái tử dự bị, nuôi trong cung. Rõ ràng từ sớm đã coi như con, còn như hoàng thượng kế vị là vì sau khi vua băng hà, quần thần theo di chiếu tôn làm vua, khác hẳn với thái tử dự bị được nuôi dưỡng trong cung. Về lý thì nên tôn Hưng Hiếu làm Hoàng Khảo để làm trọn đạo con. Nếu theo thiên hạ mà làm con thừa kế của người thì e rằng đã làm mất điều nghĩa đối với cha mẹ.
Ông ta nói rất khẩn thiết, hoàn toàn trái hẳn với những lời bàn của triều thần.
Thấy vậy Gia Tĩnh rất vui mừng, truyền dụ cho triều thần rằng:
"Lời bàn ấy tuân theo di huấn của tổ tiên, hợp với lễ xưa, các người sao lại hiểu sai trẫm là bất hiếu”.
Tiếp đó Quế Ngạc lại dâng sớ tán đồng với ý kiến của Tương Thông. Vua thấy thế hả dạ. Lúc ấy quần thần thấy hai người này dâng sớ, đều cho đó là tà thuyết, ghét họ như kẻ thù, những người gác cửa hoàng cung đều muốn cho hắn một trận, tống hắn ra khỏi cửa. Thấy mọi người phẫn nộ, không làm gì được họ, hai người này đến nhà Vũ Định hầu cầu viện. Vũ Định hầu nói với Gia Tĩnh, rồi sau đó có ngay chiếu chỉ, lệnh cho hai người làm Hàn lâm học sĩ, đại lễ bắt đầu từ lời đề nghị ấy. Tất cả những điều không hợp đều bãi bỏ hết.
Chưa đầy hai năm, quả nhiên Trương Thông trở thành tướng, kết bè kết đảng với Quách Huân. Nay Quách Huân đến cầu cứu sao Trương Thông không ra sức giúp đỡ. Hơn nữa hai người này đều là tay chân của triều đình, lời nói của họ dễ lọt tai hoàng đế, bởi thế họ thừa cơ dâng sớ tâu rằng:
"Vì Quách Huân bàn đến lễ khiến cho quần thần tức giận, cả triều đình đều coi là kẻ thù, nên đã nhao nhao hạch tội. Chúng thần xét thấy chỉ huy Trương Dần không phải là do Phúc Đạt đổi tên. Vì chư thần muốn hại Quách Huân, nên vu cho Trương Dần là phản nghịch. Xin hoàng thượng đừng nghe lời quần thần mà gây ra oan ức".
Phải hiểu rằng Gia Tĩnh đế không phải là ông vua ngu tối song khi bàn về đại lễ đã bị các đại thần làm cho khó chịu. Nay thấy hai người này nói, đã động chạm đến nỗi oán hận của ông, ông tin là thật, bèn ban một chỉ dụ chuyển vụ án của Phúc Đạt về kinh, đồng thời bắt Tuần án Mã Lục về xét hỏi. Quần thần vẫn như mê ngủ, không hiểu triều đình đã nghe theo bọn Trương Thông. Khi đưa xét hỏi Mã Lục, Tam pháp ty vẫn lấy khẩu cung dâng tấu sớ như cũ. Gia Tĩnh nổi giận trách mắng việc quan xét hỏi không đúng sự thực, lệnh cho Trương Thông kiêm Đô sát viện, Quế Ngạc kiêm Hình bố cùng xem xét vụ án này. Tới lúc ấy, quần thần mới biết triều đình đã nghe lời xiểm nịnh, tình thế thay đổi hẳn.

Hai người tuân theo chiếu chỉ, chỉ làm vừa lòng vua, chẳng kể gì đến chân lí, lương tâm. Khi xét hỏi tuyệt nhiên không xét hỏi Phúc Đạt, chỉ trách Tuần án Mã Lục không tôn trọng pháp luật mà xét xử theo tình riêng, hãm hại người vô tội. Tuần án Mã ra sức tranh biện, song hai người này không nghe, ra lệnh dùng cực hình tra tấn Mã Tuần án hết sức dã man. Thương thay, một viên quan Ngự sử chính trực bị tra tấn đến chết đi sống lại? Mã Lục thấy rằng nếu không nhận bừa, thì sẽ chịu khổ mãi, nên đành nhận tội, vì riêng tư mà ghép tội cho người. Tiết Lương cũng bị khép vào tội vu cáo. Hai người này lấy xong khẩu cung, cho rằng đã tìm ra sự thực, không bị quần thần lừa dối, nào có biết đâu kỉ cương triều đình trắng đen đã bị quyền thần làm đảo lộn! Tuyên bố chỉ dụ rằng: "Tha Phúc Đạt, Tiết Lương phải tử hình, Tuần án Mã Lục và các quan trong Đài gián đều do Cẩm y vệ đánh một trăm trượng tại triều đình, trị tội theo từng loại".
Loại pháp luật đánh chết tại triều đình xưa nay không có, chỉ triều Minh mới có lệ này. Từ khi đặt ra phép này không biết đã giết chết bao nhiêu trung thần? Thế mới biết chế độ đình trượng ghê gớm biết chừng nào? Phàm là quan phủ phạm tội, chỉ lệnh cho Cẩm y vệ tra hỏi, theo lệ, phạm quan phải dùng kẹp kẹp năm mươi cái, dùng cặp cặp năm mươi chiếc, đánh ba mươi gậy gọi là "một bộ". Đây là phép tra khảo của Cẩm y vệ. Người nào đã chịu cực hình thì chỉ có chết mà thôi. Nếu theo chiếu chỉ đánh tại triều đình thì sai nội thần giám sát các quan lớn nhỏ đều mặc áo đỏ đứng xếp hàng dưới thềm phía ngoài Ngọ môn. Trung sứ ngồi bên trái, Cẩm y vệ ngồi bên phải, mỗi bộ phận đều có ba mươi người, bên dưới có một trăm người. Kỳ hiệu đều mặc quần áo có nếp gấp, tay cầm gậy gỗ xếp hàng ngay ngắn. Tuyên đọc chiếu chỉ xong, một người mang bao gai trùm từ vai xuống lưng phạm nhân, bó chặt lấy hai tay, không được chuyển động sang phải, sang trái. Một người trói hai chân, quấn chặt xung quanh chỉ để lộ hai đùi cho gậy đập vào. Đầu mặt tiếp giáp xuống mặt đất, đất cát thộc vào đầy mồm, đến kêu la cũng không được. Cứ đánh một gậy thì bên trên lại hô “Đánh mạnh vào!”. Đánh hết một trăm cái gậy phải gẫy đến mấy chiếc. Quần thần lấm lét nhìn nín thở, cảnh tượng hết sức nghiêm ngặt như thiên la địa võng, những viên kỳ hiệu đã luyện thành một nghệ thuật đánh, đánh cho hai đùi sưng lên như hai cái vò, bên trong máu thịt nát như tương nhưng da không hề rách. Phép chữa trị là dùng dao cắt da ra, vét hết thịt nát bên trong, lấy một con cừu sống cắt thịt đùi nhét đầy chỗ trống, làm cho máu thịt gắn liền với nhau thành một khối, sau đó có thể hoạt động được. Cho nên thời Minh có những "tiên sinh mông cừu” mà mọi người rất kính nể. Có một vị tri huyện đi ra khỏi huyện đường, bắt một người xông qua đường thét bảo lính hầu phải phạt nặng. Lột quần người ấy ra thì thấy mông đít là thịt cừu, biết người ấy đã từng chịu đánh tại triều đình, tri huyện vội vàng xuống kiệu xin nhận tội và luôn mồm xin lỗi. Người ấy cười ha hả rồi bỏ đi, khiến cho quan huyện sợ toát mồ hôi. Vì những người đã từng bị đánh tại triều đình, nếu vua nghĩ lại thì lập tức được trọng dụng. Bởi thế nếu người bị đánh may mà không chết thì sẽ trở thành tiên sinh mông cừu, chẳng may mất mạng thì cũng được tiếng là người trung trực! Thương thay những vị quan vì căm giận bọn gian tặc, đến nay phải chịu cực hình!
Mã Tuần án bị đánh tại triều đình, rồi bị đày ra biên ải, bổ sung vào quân lính. Bốn mươi người còn lại bị tù tội, hoặc bị chết. Vì thế mà Đài gián chẳng còn ai. Kẻ phản nghịch Lý Phúc Đạt vẫn là chỉ huy, hai đứa con vẫn là tượng dịch, nghiễm nhiên giữ chức quan võ. Há đây chẳng phải là trời nghiêng đất ngả sao!
Vì sợ lòng người không phục, sau này sẽ sinh sự biến, Trương Thông, Quế Ngạc bèn biên soạn Khâm mệnh đại ngục lục, xin vua ban chiếu chỉ khắp thiên hạ, khiến cho những quan lại bị oan đời đời không ngóc đầu lên được. Nào ngờ kẻ xảo trá muốn như thế, song lòng trời lại không thế.
Tứ Xuyên có một tên gian ác, trước đây là đồng bọn của Phúc Đạt tên là Thái Bá Quý. Vì việc Sơn Tây bại lộ, hắn chạy trốn đến Tứ Xuyên, tụ tập bọn vô lại, đặt ra tên riêng, vẫn theo bọn tà đạo Bạch Liên mưu phản, bị quan quân bắt được, lục soát thấy thư từ qua lại của Phúc Đạt. Trong đó có bức thư viết rằng: "Đổi tên là Trương Dần, hiện làm chỉ huy, cứ yên tâm không lo sợ gì". Tuần án Tứ Xuyên theo sự thực dâng sớ lên.

Thời ấy Gia Tĩnh băng hà, Long Khánh lên ngôi, thấy bản tấu dâng lên, ông đùng đùng nổi giận, lập tức bắt cả nhà Lý Phúc Đạt chém đầu, bọn dư đảng đều khép vào tội phản nghịch. Vụ án ấy mới sáng tỏ. Đô Ngự sử Bàng Thượng Bằng dâng sớ tâu rằng:
"Vũ Định hầu cùng với đại thần Trương Thông, Quế Ngạc bao che cho Phúc Đạt, vụ án đã giết hại hơn bốn mươi viên quan, nỗi hiểm họa ấy của quan lại không vụ nào lớn hơn vụ này. Nay ba vị quan tuy đã chết, cần phải khôi phục lại chức tước để làm gương cho đời sau. Những vị quan đã bị giết oan, nên đặc cách khen thưởng để biểu dương chí khí các bậc trung thần".
Triều đình hoàn toàn nghe theo lời tấu trình trên đây, cho triệu hồi Mã Lục về kinh, khôi phục lại chức Ngự sử, số còn lại thăng quan, ban tặng tước vị. Tới nay trên sử sách nhà Minh vẫn còn ghi lại tiếng thơm, còn bọn gian thần để lại tiếng xấu cho muôn đời. Đây chẳng phải là do trời báo ứng sao! Mọi người đều sung sướng hả hê. Người đời sau bàn về việc này, đểu cho rằng lúc đầu Quách Huân quan hệ với Phúc Đạt, chỉ vì tham của hối lộ, vốn chỉ biết là Trương Dần chứ không biết hắn là Phúc Đạt. Đến khi sự việc đã bại lộ mà còn đi nói cho hắn thì Quách Huân đáng phải chịu tội. Chỉ nói về thư riêng của Quách Huân xin cho hắn cũng đủ để khép tội rồi. Song mọi người muốn ghép hắn vào tội phản nghịch, đã xử phạt nặng dẫn đến gây ra đại họa, trên thì làm tổn hại đến nguyên khí quốc gia, dưới thì làm nhục thân thế của cha mẹ để lại, các bậc quân tử cũng không thể không nhận thấy sai sót của mình. Kẻ bàn luận này cũng không phải cho rằng người đời a dua, bợ đỡ người khác, không theo con đường ngay thẳng. Tóm lại, hỏi tội kẻ sai phạm cũng phải có lòng khoan thứ, không hẳn cứ khăng khăng theo ý mình mà đây người ta vào chỗ chết, đó là đạo lí minh triết bảo thân, các bậc sĩ đại phu không thể không xem xét tới.

HOMECHAT
1 | 1 | 483
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com