watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
09:58:4019/05/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Bao Thanh Thiên – Thất Hiệp Ngũ Nghĩa 26 - 50 - Trang 5
Chỉ mục bài viết
Bao Thanh Thiên – Thất Hiệp Ngũ Nghĩa 26 - 50
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tất cả các trang
Trang 5 trong tổng số 8

Hồi Thứ Ba Mươi Chín

Ba vị anh hùng, đi tìm em bạn,
Năm tay nghĩa sĩ, lừa đoạt vàng dâng.

Tại đảo Hãm Không, khi Bạch Ngọc Đường ra đi tới nay, ngót hai tháng rồi, tin tức vắng bặt, làm cho Tẩn thiên thử Lư Phương ăn nằm chẳng yên. Tuy có ba anh em họ Hàng, họ Từ, họ Tưởng khuyên giải, mà cũng chẳng dứt sầu. Ngày nọ bốn anh em họp nhau tại khách thích, Lư Phương bèn nói rằng: "Từ khi năm anh em ta kết bạn tới nay, một nhà tựu hội vui vẻ, nay vì ngũ đệ nóng nảy, ngang tàng, muốn tìm Ngự miêu để đối địch, thành ra lìa nhau hai tháng, tin nhạn vắng đưa, khiến liệt huynh buồn quá". Tưởng Bình nói: "Phải! Vì ngũ đệ tài cao nên ngạo, lại không chịu nghe lời khuyên răn, nếu tính ấy không chừa, e có điều họa hại". Từ Khánh nói: "Ngũ đệ đi đây, cũng tại Tưởng đệ lẻo mồm lẹ miệng, chọc giận mà ra”. Lư Phương nói: "Thôi, chuyện đó không kể làm gì, bây giờ ý liệt huynh muốn xuống Đông kinh tìm ngũ đệ, các em xem sao?". Hàng Chương, Từ Khánh, Tưởng Bình đồng nói: "Nếu đại ca muốn tìm ngũ đệ, can chi phải nhọc tới quý thể, xin để cho ba em thay cho cũng được". Lư Phương cả mừng nói: "Nếu được vậy thì lại càng tốt, mai này xin mở tiệc tiến hành".
Lời Lư Phương nói vừa dứt, thấy có người vào bẩm, có Liễu viên ngoại xin ra mắt. Lư Phương hỏi các em rằng: "Người ấy thế nào?". Tưởng Bình nói: "Người ấy là học trò của Cửu đầu thái tuế Cam Mậu tên Liễu Thanh hiệu là Bạch diện phán quan, không rõ tới đây có việc gì?". Lư Phương nghe xong bảo ba em núp qua một bên, còn mình bước ra tiếp, thời thấy Liễu Thanh hình cao, vóc ốm, mặt trắng môi son, lộ vẻ khôn ngoan, rất nhiều quỷ kế. Hai người thông tên họ nhau rồi, cùng ngồi xuống uống trà. Lư Phương liền chắp tay đứng dậy hỏi rằng: "Đã lâu rồi, được nghe danh quý khách, muốn được ra mắt mà chưa có dịp, nay may được gót ngọc tới thăm chẳng biết có điều chi dạy bảo chăng?". Liễu Thanh đáp: "Tôi cũng vì luyến mộ lòng nghĩa hiệp của tôn huynh nên tới đây có chút việc riêng. Nhân vì quan Thái thú chỗ tôi ở là Tôn Trân con của quan Binh mã tư Tôn Vinh lại là cháu ngoại của Thái sư Bàng Kiết. Tên ấy làm quan rất tham lam hà khắc, lột da thắng mỡ dân chúng mà giàu. Nay tới ngày khánh chúc của Bàng Kiết, nó giả đi lễ thọ tám chậu cảnh trong ấy chôn ngàn lượng vàng ròng, cố ý xu nịnh cầu vinh. Tôi nghĩ muốn lấy vàng ấy để cứu chẩn cho dân nghèo, chớ chẳng lòng chi tham tiếc, song ngại đơn thân, độc lực khó nổi nên việc tới đây xin tôn huynh giúp đỡ". Lư Phương nói: "Tôi thuở nay lo lắng làm ăn, chưa từng biết đón đường giật của, chuyện ấy xin túc hạ nghĩ kế khác". Nói rồi đứng dậy kiếu lui, Liễu Thanh nghe nói mặt trắng biến hồng, cả thẹn đứng dậy đi ra, bụng bảo dạ rằng: "Nghe đồn Lư Phương là người hào hiệp trượng nghĩa, thế nghĩa hiệp ở đâu? Thật là lầm lắm!”. Liễu Thanh đi ra khỏi cửa ngõ chợt thấy một tên trang đinh đón thưa rằng: "Xin Liễu gia dừng gót, có ba vị Viên ngoại tới rước". Liễu thanh ngó lên thấy Hàng Chương, Từ Khánh, Tưởng Bình đi tới, liền thi Lễ. Tưởng Bình bèn chỉ tên họ từng người, rồi nói với Liễu Thanh rằng: "Việc của tôn huynh tính khi nãy, bọn tôi đều rõ rồi, đại ca tôi vì có sự lo, không hứa giúp, đó là phụ lòng tôn huynh, vậy chúng tôi xin mời lại đại sảnh đàm đạo thêm". Liễu Thanh nghe nói cả mừng, cùng trở lại. Tới đại sảnh, trà nước xong xuôi, Tưởng Bình bèn hỏi tội ác của quan Thái thú Tôn Trân và mưu kế của Liễu Thanh rồi sẽ tính. Liễu Thanh đáp: "Nguyên tôi có vật tổ truyền là Mông Hán dược và Đoạn Hồn hương, đến lúc thi hành sẽ làm vậy... làm vậy... thì tức khắc nên công”. Anh em nghe nói vui mừng, vỗ tay reo cười. Bấy giờ Liễu Thanh nhớ lại khi nãy Tưởng Bình nói rằng Lư Phương có việc phải lo, bèn hỏi, Hàng Chương đem chuyện Bạch Ngọc Đường đi tìm Ngự miêu thuật lại. Liễu Thanh nghe nói cười rằng: "Đã có dịp như vậy thời lại càng tốt, chúng ta vừa đi tìm ngũ gia vừa làm việc nghĩa, nhất cử lưỡng tiện sướng biết bao nhiêu”. Nói xong hẹn hò ít lời, rồi ra về.

Hôm sau, Lư Phương thết tiệc đưa ba em lên đường. Khi tiệc mãn, cùng nhau từ biệt, Lư Phương dặn dò ít lời rồi trở vào. Còn ba anh em Hàng Chương cùng nhau thượng lộ, cứ chỗ hẹn với Liễu Thanh mà tới vì ba người ấy chỉ mong làm thế nào đoạt được vàng của Tôn Trân, nên chưa nóng việc tìm bạn. Bởi vậy Bạch Ngọc Đường mới được thong dong ở Đông kinh, làm nhiều chuyện quỷ thần ngang dọc. Từ khi Ngọc Đường tỷ thí với Triển Chiêu rồi, về nhà trọ nằm nghĩ rằng: "Ta xem người họ Triển này võ nghệ rất giỏi, chẳng phải bậc thường, mà lại nom giông giống gã mình đã gặp ở Miêu Gia tập lúc trước. Nghĩ cũng lạ, cái hiệu Ngư miêu có phải tự ý y đặt ra, hay là Thánh thượng phong tứ. Nếu quả Thánh thượng phong tứ thời ta cũng nên vào hoàng cung náo động ít cuộc chơi. Một là làm cho Thánh thượng biết không phải ở đời chỉ có họ Triển là giỏi, mà lại còn có họ Bạch nữa. Hai là cho rõ tài của bọn ở đảo Hãm Không. Ba là vì việc ấy chắc Thánh thượng sẽ sai Triển ngự miêu dò xét, ta nhân ấy bẫy y vào đảo Hãm Không rồi coi mèo bắt được chuột, hay là bọn chuột ăn mèo. Làm được như vậy cái danh và tấm thân của Ngọc Đường này mới khỏi phí hoài". Ngọc Đường nghĩ xong lại lo rằng: "Nếu ta làm như vậy, mà cứ ra vào nhà trọ, thế nào cho tiện, chi bằng tìm chốn vắng vẻ hẻo lánh, ẩn thân, khiến cho người không thể bắt bóng đạp hình được". Chí đã quyết, liền cứ thế mà làm.
Tại Vạn Thọ Sơn có người Tổng quản tên là Quách An, nguyên cháu gọi Quách Hòe bằng chú. Từ ngày Quách Hòe bị tội, thời căm giận Trần Lâm lắm, lại thấy Trần Lâm được thăng chức Đô Đường thời quyết tìm mưu hại cho được. Một buổi chiều nọ, Quách An đương ngồi, thấy tên thái giám tâm phúc của mình là Hà Thường Hỉ bưng một bình trà đem tới, liền hỏi rằng: "Trà gì mà mi bưng đó vậy?". Hà Thường Hỉ đáp: "Đây là Long Tĩnh, tiểu tử đem dâng cho Tổng quản dùng, kẻo trà hôm qua không được ngon”. Quách An hỏi: "Mi tìm trà này ở đâu?” Hà Thường Hỉ đáp: "Tôi mới vào viện Đô Đường, thấy có trà ngon, mới lắm, nên dâng cho Tổng quản dùng”. Quách An nghe nói tới hai chữ Đô Đường thì nhớ lại thù chú, bèn hỏi: "Mi có biết được Đô Đường là người thế nào không?". Hà Thường Hỉ đáp: "Tôi tuổi đã nhỏ lại không thạo việc, đâu có thể xem được người?". Quách An lại hỏi: "Vậy mi vào viện Đô Đường có thấy điều gì, nói nghe chơi". Hà Thường Hỉ nói: "Không có chuyện gì lạ, duy lúc tôi vào, Đô Đường. có đem khoe một hộp nhân sâm, nói rằng Thánh thượng thấy ngài già cả, khí suy huyết kém, thương cho lúc trước cực nhọc quá nhiều, nên thưởng cho thánh dược để uống, sống lâu thêm tuổi". Quách An nghe nói chau mày nghĩ rằng: "Ta đã quyết lòng trừ lão ấy cho dứt hậu hoạn, thế mà không thể giết ngay được, lòng ta vẫn đương căm tức đây. Thôi đừng mong, đừng mong được sống lâu thêm tuổi mà lầm!".
Thật là:
Vì thương chú, quên phân phải trái,
Bởi ghét người, tính lập mưu sâu.

Hồi Thứ Bốn Mươi

Quách An bị giết, miếu Trung Liệt hiện thơ,
Triệu Hổ giả hình, phủ Khai Phong vâng chỉ.

Quách An nghĩ rồi nói với Hà Thường Hỉ rằng: "Trần Đô Đường cùng ta thật như nước lửa khó dung, tới nay ông ta lại được Thánh thượng sủng ái thời thật khổ cho ta lắm đó". Hà Thường Hỉ hỏi: "Trần Đô Đường thường thường ở với ai cũng rất tử tế, sao Tổng quản lại oán hận làm chi?". Quách An nói: "Sách có chữ: thù của cha mẹ làm con phải trả. Cái thù của chú ta, ta cũng phải trả mới yên. Trần Lâm kia được ban thưởng nhân sâm, đây là cơ hội cho ta báo thù đó". Hà Thường Hỉ hỏi rằng: "Uống được nhân sâm thời sống lâu thêm tuổi, sao Tổng quản lại gọi là có dịp báo thù?". Quách An nói: "Việc ấy ta chưa thể nói ngay được, trước hết mi phải tỏ rằng mi có thể giúp ta việc ấy hay không? May ra mà việc nên, ta sẽ hết sức giúp đỡ người cực kỳ tử tế”. Hà Thưởng Hỉ nói: "Quản gia với tôi tình nghĩa như cha con có lẽ nào tôi lại không giúp được hay sao! Tôi xin thề rằng sẽ đem hết tính mạng để giao cho quản gia sai khiến". Quách An thấy nó rất thành thật bèn nói rằng: "Việc này nên giữ cẩn thận chớ nên tiết lộ cùng ai. Nguyên ta có một thứ thuốc độ tán của thúc thúc*, khi trước đã từng bàn bạc với Vưu nại nại, nhưng chưa đem ra dùng. Thuốc ấy rất kỵ với nhân sâm, nếu uống lẫn thời trong bảy ngày phải chết. Bây giờ ta muốn để thuốc ấy vào rượu, mời Trần Lâm qua chơi, cho y uống ít nhiều, lúc trở về uống phải nhân sâm, thời mưu kia linh nghiệm, thù nọ trả xong, lại không dấu tích gì cả". Hà Thường Hỉ hỏi: "Tính như vậy hay lắm, song rượu đựng hai bì e lộn xộn và bị hồ nghi". Quách An nói: "Ta còn có một cái bình rượu hai lòng, một bên đổ rượu thường, một bên đổ rượu độc, đè ngón tay trỏ lên nắp mạnh thời rót rượu độc ra, không đè thời rót rượu thường mãi mãi". Nói dứt lời lấy bình ấy ra dạy Hà Thường Hỉ cách rót, và dặn dò cẩn thận lắm.
* Thúc thúc: người anh em với cha.
Bàn tính mưu mẹo xong rồi, Quách An mới viết một bức thư mời Trần Lâm chiều mai là ngày rằm, tới viện Tổng quản thưởng nguyệt xem hoa. Viết xong giao cho Hà Thường Hỉ lĩnh mệnh, vừa ra tới bờ hồ Thái Thạch, bỗng đâu có người nhảy tới giơ gươm trước mặt mà rằng: "Nếu la một tiếng là mất đầu ngay”. Hà Thường Hỉ kinh hoàng làm thinh. Người ấy nói nho nhỏ rằng: "Mi chịu nhọc nằm dưới gốc liễu một đêm, nếu mai viện Tư pháp có tới hỏi, thời cứ thật mà khai ngay, bằng gian giấu ta sẽ tới lấy thủ cấp, Hà Thường Hỉ dạ dạ vâng lời. Người ấy liền trói hai tay lại, xách để qua một bên, rồi cắp kiếm ra đi.

Từ khi Quách An sai Hà Thường Hỉ đi rồi, bụng vừa lo vừa sợ, lo không biết mưu có thành hay không, sợ việc vỡ lở thời mang họa lớn. Bóng đèn lu tỏ, gió thoảng lạnh mình, thế mà Quách An cứ ngồi chờ. Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng động, vội vàng hỏi rằng: "Phải mi về đó không, Hà thái giám?". Hỏi dứt nghe có tiếng đáp: "Phải!". Vừa cất đầu ngó lên, thấy một người xách kiếm đi tới, mới la một tiếng lớn đầu đã lìa mình.
Thái giám và tuần canh nghe tiếng kêu, bươn bả chạy lại, không thấy ai, chỉ thấy Quách An chết, máu chảy lênh láng. Lật đật chạy báo cho Trần Đô Đường, đi ra tới bờ hồ Thái Thạch thấy Hà Thường Hỉ bị trói ở đó, liền cởi trói móc bông trong miệng ra, xúm nhau lại hỏi nguyên cớ làm sao. Hà Thường Hỉ không chịu nói, chờ tới Tam pháp ti hay là phủ Khai Phong mới nói. Chúng không biết làm sao, phải báo ngay Đô Đường hay. Đô Đường phái người canh giữ thi hài đợi sáng sẽ tâu lên Thiên tử. Khi Nhân Tôn nghe Trần Đô Đường tâu thời lấy làm lạ lắm, nghĩ rằng nơi vườn ngự uyển lẽ nào có kẻ lớn mật hành hung, liền hạ chỉ cho phủ Khai Phong tra xét việc ấy, và truyền cho quan giữ đền Trung Liệt ngày nay là ngày vọng phải dọn dẹp chỉnh tề, hầu ngự giá thiêu hương.
Viên thái giám tại đền Trung Liệt được lệnh, xếp đặt hẳn hoi, chờ Long xa như mỗi ngày vọng khác. Vua Nhân Tôn vào đền làm lễ niệm hương rất thành kính, khi niệm xong, nhìn lên góc tường, thấy có chữ viết, nét mực còn ướt, bèn bước lại gần xem. Trần Lâm thấy vậy, lấy làm lạ lắm, không hiểu ai lại lớn gan to mật vào đây viết chữ đề thơ như vậy, liền theo vua lại xem. Thơ ấy như sau: "Thờ chúa rất trung liệt, nên thác dưới cây hòe, danh thơm thật chẳng mục, đổi nên hương hắc hiêu”. Thơ ấy từ ngữ rất thô tục song nét bút rất tung hoành. Vua Nhân Tôn bèn hỏi Trần Lâm rằng: "Thơ ấy ai đề vậy?". Trần Lâm tâu rằng: "Xin Thánh thượng cho hạ thần hỏi lại viên thái giám ở đây đã". Tâu rồi đòi viên thái giám giữ đền tới hỏi. Thái giám thưa rằng: "Lệ thường ngày sóc ngày vọng nào Thiên tử đều tới thiêu hương, nên chúng tôi đều lo quét dọn trước một ngày cả. Hôm nay chúng tôi không thấy có thơ mà nay lại hiện ra như vậy?".
Vua Nhân Tôn nghe lời viên thái giám, rồi xem lại chỗ đề thơ, gật đầu mà rằng: "Phải rồi, người giết Tổng quản Quách An với người đề thơ đây là một. Kìa xem, tường cao vọi vọi, nếu không tinh thông võ nghệ và có bản lĩnh thời làm sao vào cho được. Các khanh mau truyền Bao Thừa tướng tới chầu trẫm bây giờ!". Một lát Bao Công tới chầu. Vua Nhân Tôn đem chuyện Quách An bị giết, Hà Thường Hỉ bị trói, và chỉ bài thơ, thuật chuyện lại cho Bao Công nghe. Bao công nghe rõ đầu đuôi liền tra xét cùng đền không thấy dấu tích gì, bèn tâu với vua rằng: "Chuyện này rất nhiều lẽ huyền bí, xin Thánh thượng dung cho hạ thần tra xét tìm kiếm ít lâu, có lẽ sẽ lộ được manh mối". Nhân Tôn ưng thuận, trở về cung.

Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt

Bắt lầm, hỏi nọn, rõ được vàng chôn,
Xem sắc, chen hoa, bừng lên lửa dục.

Bao Công cũng lên kiệu mà về phủ Khai Phong, về tới nơi, lập tức thăng đường, đem Hà Thường Hỉ ra hỏi, Hà thái giám liền đem mọi việc ra khai rõ cả, chẳng dám giấu điều gì. Bao Công hỏi xong trở vào thư phòng bàn luận việc ấy với Công Tôn Sách và Triển Hùng Phi. Hai người đều nghi cho Bạch Ngọc Đường làm việc ấy.
Rạng ngày Bao Công vào chầu, tâu lại những lời của Hà Thường Hỉ. Vua Nhân Tôn nghe tâu hết sức vui vẻ, khen rằng: "Người ấy tuy làm nhiều điều ám muội, song có ý giúp phải trừ tà, khanh không cần phải phòng ngừa cho lắm, chỉ làm thế nào mời được người ấy cho trẫm xem". Bao Công vâng chỉ, trở về truyền lại cho các viên chức trong phủ. Ai ai cũng muốn lập công. Triệu Hổ nhớ lại chuyện giả ăn mày lúc xưa thời khoái chí lắm, quyết phen này giở miếng cũ, bèn thay hình đổi dạng làm đứa ăn mày, song không giữ kín ra nơi vắng vẻ như trước mà cứ đường đột trong phủ đi ra, khiến cho ai nấy thấy cũng tức cười, kẻ đi đường và con nít kéo theo cả lũ, chỉ trỏ cười ngạo um sùm.
Thật là:
Quyết săn cọp dữ, phải có thợ nghề,
Muốn chọc người tài, phải dùng thế ấy.

Triệu Hổ giả dạng ăn mày, ra khỏi phủ thấy dân chúng theo coi đông lắm, thời tức mình đi lẹ như bay được vài dặm đường, nhìn lại bốn bề vắng vẻ, cảnh tượng đìu hiu, mặt trời đã lặn, lại thêm gió bấc thổi lạnh lẽo rút ruột. Bấy giờ Triệu Hổ không muốn đi nữa, tính kiếm chỗ nằm núp gió, may sao bên cạnh đường có cái miếu hỏng cửa xiêu vách đổ, chỉ trơ trọi cái khung, và những chân tường lồi lõm rong rêu. Triệu Hổ vào nằm ở đó, bỗng thấy có một người ăn mặc lam lũ không khác gì mình, hai tay ôm một mớ cỏ khô, đi xăm xăm lại bên gốc liễu, quăng mớ cỏ vào bộng cây, rồi nhảy lên nằm. Một lát cũng có một người ăn mặc như người trước, cũng ôm cỏ lại bộng cây liễu, quăng vào, té ra ở trong đã có người nằm rồi, vừa muốn đi chỗ khác, thời người ở trong mời vào nằm chung, sẽ có chuyện đàm đạo. Người vào trước nói: "Một mình tôi ở đây thời ngủ sớm, có anh lại, ngồi dậy nói chuyện chơi".
Người vào sau đáp: "Nghĩ con người ở đời giàu có mà chi, ngàn gian nhà rộng, chẳng qua ngủ một chỗ mà thôi, sao hơn được chúng ta nghèo khổ mà được chỗ ấm áp như vầy, dẫu cho kẻ quản bảo trong phủ, dầm sương giãi gió thời có hơn gì?". Triệu Hổ nghe chúng nó nói xóc mình tức lắm, muốn chạy lại nằm chung một ổ chơi. Vừa đi tới gốc liễu thời nghe hai người nói với nhau rằng: "Cho đến đường đường một vị thừa tướng cũng chưa ắt ở tại phủ Khai Phong nhắm mắt ngủ cho yên, nữa là người ấy”. Người kia bèn hỏi rằng: "Tại sao mà tướng gia lại ngủ không yên giấc?". Người nọ đáp: "A, anh không biết hay sao, mới đây trong cung có xảy ra việc Tổng quản bị giết và đề thơ ở đền Trung Liệt nên Thánh thượng giao cho phủ Khai Phong tra xét, như vậy làm sao tướng gia ngủ yên được?". Người kia nói: "Ối! Chuyện đó tôi biết lắm, song không dám lên phủ để bày tỏ “. Người nọ lật đật hỏi: "Anh sợ cái gì, anh cứ thuật cho tôi nghe tôi sẽ giúp anh”. Người nọ đáp: "Không, mà chưa biết đúng hay không. Anh có nhớ ở đường Cổ Lầu có nhà trọ tên là Kiết Thăng điếm, có một người khách tới ở, hình dung tuấn tú, tuổi tác trẻ con, cỡi ngựa mây, tùy tùng đông, mướn một căn nhà rất rộng, cùng nhau ở trọ. Nghe nói người ấy họ Tôn, có mối mang gì ở trong cung, không rõ phải chuyện ấy không?".
Triệu Hổ nghe nói mừng rỡ lắm, không còn biết lạnh nữa, lén lén ra khỏi miếu, chạy vội về phủ Khai Phong đem những lời đã nghe thưa lại với Bao Công, và xin cho sai dịch đi tra xét. Bao Công nhận lời, phái Mã Hán, Trương Long đi với Triệu Hổ tới điếm Kiết Thăng. Tới nơi Triệu Hổ phân phó sai dịch bao vây bốn phía rồi kêu tiểu nhị mở cửa. Cửa mở, chúng đã kéo ùn ùn vào, bắt tiểu nhị dẫn lại phòng của họ Tôn trói người khách ấy lại. Khách vừa thiu thiu ngủ, thấy bị trói, thời thất kinh, sau nghe nói đó là lính ở phủ Khai Phong thời mặt mày tái ngắt.

Triệu Hổ đã bắt được người rồi, bèn sai lục soát các nơi song không thấy vật gì. Chỉ có hai phong thư mà thôi. Bấy giờ Mã Hán và Trương Long ở dưới lầu đi lên, thấy vậy biết là bắt lầm bèn cầm hai phong thư lại đèn coi, thời một mặt đề là: "Bình an gia bảo", một mặt đề là: "Phụng Lương phủ thụ mật phong“. Trương Long biết chuyện đã lỡ rồi không làm sao được cực chẳng đã phải giải người ấy về phủ luôn cả hai phong thư, và bẩm lại cho Tướng gia rõ.
Bao Công vội vã thăng đường hỏi người ấy rằng: "Mi tên họ là gì?". Người ấy đáp: "Tôi tên là Tòng Phước, gia nhân của quan thái thú Phụng Dương Tôn Trân vâng lệnh chủ nhân đem thọ lễ cho Bàng Thái sư. Bao Công hỏi: "Thọ lễ những món gì ở đâu?". Tòng Phước đáp: "Chỉ có tám chậu tùng cảnh, người bạn tôi là Tòng Thọ còn đem theo sau, tôi chỉ có dâng thơ mà thôi, nay tới trước phải ở tại điếm Kiết Thăng mà chờ”. Bao Công nghe xong biết là bắt lầm, song nghĩ chưa ra kế để giải phóng. Triệu Hổ thấy tướng gia vừa suy nghĩ, vừa cầm hai phong thư lật qua trở lại xem bèn hỏi Tòng Phước rằng: "Bọn mi còn có đem gì với tùng cảnh ấy nữa không?". Tòng Phước nghe hỏi ngơ ngẩn không trả lời được. Bao Công thấy bộ tịch nó phát nghi, bèn vỗ án hỏi rằng:” "Gã kia còn điều gian giấu. Tả hữu đâu mau tra nó cho ta?". Tòng Phước kinh hoảng cúi đầu thưa rằng: "Xin lão gia bớt giận, tôi cứ thật khai ngay, trừ tám chậu cảnh ấy ra còn có ngàn lượng vàng ròng nữa, song e lúc đi đường chúng biết mà đoạt đi, nên chôn vào đáy chậu hoa để che mắt thịt. Ai dè lão gia mắt thánh tài thần, tôi không dám giấu, nếu không tin, xin coi trong thư thời rõ". Bao Công bèn hỏi: "Hai bức thư này gửi cho ai?". Tòng Phước đáp: "Một bức gửi cho Bàng Thái sư là ông ngoại của chủ tôi, còn một bức là nang thơ cho tôi”. Bao Công nghe khai, gật đầu sai lưu Tòng Phước lại trong phủ, rồi bãi hầu trở vào thư phòng báo Công Tôn Sách viết sớ, sáng ngày đem luôn hai phong thư vào tâu Thiên tử. Vua Nhân Tôn xem xong, nghĩ chuyện này Bao Công tố giác nên không giao cho phủ Khai Phong được, phải phú cho Đại lý ti tra xét.

Quan đứng đầu ti Đại lý là Văn Ngạn Bác đem Tòng Phước ra tra, nó khai y như lời đã nói với Bao Công khi trước. Ngạn Bác liền sai sai dịch đón đường thu các lễ vật của Thái thú Phụng Dương, không cho lọt vào tay kẻ khác.
Khi đem tám chậu cảnh vào đại đường thời rõ là cành tùng uốn rất khéo léo, kết nhành đấu lá thành tám chữ "Phước như đông hải, Thọ tỉ nam sơn". Ai vô ý dòm thoáng qua không biết là cây cảnh mà nhận là chữ kết chẳng sai. Ngạn Bác truyền chúng đem chậu chữ Phước, moi ra xem không thấy vàng đâu cả. Moi hết tám chậu đều không có vàng, duy trong chậu chữ Sơn có một cái thẻ ngà, bề mặt đề chữ: "Của vô nghĩa”. Bề trái đề chữ: "Biết ý nên lấy “. Ai nấy thấy vậy đều lấy làm lạ, không hiểu ý gì. Ngạn Bác liền đem Tòng Thọ ra tra. Tòng Thọ khai rằng: "Vàng ấy quả thật có, nhưng mất đi đâu không biết được. Duy lúc đi đường có gặp bốn người, dắt theo rất nhiều tùy tùng, nói rằng mình làm chức hiệu úy tại phủ Khai Phong họ Vương, Mã, Trương, Triệu. Bốn người ấy ở chung với chúng tôi, cùng ăn uống một bàn. Không rõ cớ nào, chúng tôi ăn uống xong, say mê man rồi bọn ấy đi mất, bây giờ vàng cũng hết, e bọn ấy lấy đi“.
Ngạn Bác nghe khai không biết làm sao, bèn đem luôn thẻ ngà ấy, vào tâu lại mọi lẽ cho Thiên tử nghe. Vua Nhân Tôn day lại hỏi Bao Công, Bao Công tâu rằng: "Muôn tâu Thiên tử, . bốn người thường thường ở hầu tại bản phủ không khi nào đi xa, nay có việc này, chắc là có kẻ mượn tên giả mạo". Vua Nhân Tôn liền phú việc cho phủ Khai Phong tra và xuống chỉ triệu Tôn Trân về triều, còn Tòng Phước và Tòng Thọ được tha bổng.
Bàng Thái sư và rể là Tôn Vinh nghe việc ấy lập tức viết sớ xin tội, vua Nhân Tôn có đức khoan hồng nên dung xá cho. Duy có Bao Công cứ việc tra xét, nên tới ngày sinh nhật, Bàng Kiết giao cả các việc cho con rể lo liệu, mình không tiếp khách, nằm lỳ tại thư phòng, căm giận Bao Công vô hạn, lập kế này mưu nọ, hại cho được mới yên lòng. Đương lúc Bàng Thái sư nghĩ mưu định kế, chợt có tiểu đồng lên thưa rằng: "Bẩm lão gia có hai bà tới chúc thọ". Bàng Kiết nghe bẩm mặt tươi như hoa, mừng như trẻ được kẹo, ngồi nhổm dậy đi ra lan can nhìn xuống thấy Trạc Tử và Yến Hồng đi lững thững dưới đường, xiêm vàng, quần đỏ, áo lục, khăn xanh, xen với cúc sứ, hạnh, lài, thật đẹp đà chóa mắt. Bàng Kiết mê mệt với cái bóng sắc của hai nàng hầu, còn đứng dựa lan can mê mẩn, hai nàng đã dắt thị tì tới nơi.
Trạc Tử, Yến Hồng bước vào thư phòng ra mắt Thái sư và chúc mừng vạn thọ. Bàng Kiết nói: "Nay hai ái thiếp tới đây, để cùng ta chia mừng, thật là lương tiêu hi hữu vậy”. Yến Hồng đáp: "Nay là ngày sinh thời của Thái sư chúng tôi xin tới đây bái lễ". Bàng Kiết nói: "Hai ái thiếp tới đây cũng đủ vui rồi, cần gì phải bái lễ". Trạc Tử, Yến Hồng cứ việc sai liễu hoàn trải nệm lông chiên rồi hai nàng làm lễ. Lễ xong chia nhau một nàng một bên hầu chuyện với Bàng Kiết, cả hai đem hết tài ra để chiều chuộng Thái sư. Lạ gì! Đêm xuân, sắc ngọc, hoa đẹp, trăng trong, dầu cho sắt đá cũng còn mềm, hà huống lửa tình ai chẳng nóng. Bây giờ Bàng Kiết đã muốn hồn hóa bướm vào chơi vườn uyển trăm hoa, nên cái vẻ âu yếm có phần lả lơi. Chưa mấy lúc mà màn loan rủ bức, trướng gấm tuôn đều.
Đương lúc cùng nhau hoan hội, dưới lầu tiểu đồng chạy rầm lên.
Thật là:
Cuộc vui chưa thỏa chí ông Bàng,
Tin khách đã giục chân chú Tiểu.

Hồi Thứ Bốn Mươi Hai

Giả đùa bỡn, Thái sư giết lầm ái thiếp,
Nghe lời phỉnh, Bàng Kiết mưu hại Bao Công.


Tiểu đồng thấy mười hai vị tiên sinh ở Bàng phủ tới, liền chạy rầm lên nói cho đứa tớ gái hay. Đứa tớ gái thưa lại với Thái sư. Bàng Kiết liền cho hai nàng hầu lui về. Hai nàng nhân tiện mời Bàng Kiết tối đến lầu Thủy Tinh cùng dự tiệc chúc thọ.
Bàng Kiết nhận lời, đưa hai nàng xuống lầu, rồi cho tiểu đồng thỉnh mười hai vị tiên sinh lên. Bọn ấy vào ra mắt Thái sư rồi làm lễ chúc thọ, kẻ dâng đối, kẻ tặng trướng, người phẩm vật, kẻ bạc tiền, ai cũng có lễ vật cả.
Các vị tiên sinh dâng lễ vật lên rồi cùng ngồi lại chuyện trò, câu chuyện chẳng qua cũng là chúc sống vui mừng, mạnh giỏi mà thôi. Bàng Kiết cũng sai phủ quan bày tiệc thết đãi. Chén qua chén lại, chén chúc chén dâng, ăn uống vui cười, trống điểm canh hai, ai nấy đều nặng đầu say mèm cả. Bấy giờ các vị tiên sinh mới kiếu lui về.
Bàng Kiết tuy say, song không quên lời hứa với Trạc Tử và Yến Hồng, bèn bảo hai tên tiểu đồng nâng đỡ mình tới lầu Thủy Tinh. Tới nơi, Bàng Kiết vừa bước vào cửa nghe có tiếng thầm thì như một người đàn ông và một người đàn bà nói với nhau vậy. Trong bụng ông ta sinh nghi bèn đứng lại lắng nghe. Người đàn ông nói rằng: "Nếu không có cơ hội như hôm nay làm sao chúng ta được toại ý". Người đàn bà nói: "Bây giờ còn chờ cho lão tới lâu quá, vậy hai ta lên lầu một chặp, há chẳng vui sao?". Nói rồi cười khúc khích, dẫn nhau lên lầu. Bàng Kiết nghe mấy lời ấy, máu giận nổi đùng đùng, sai tiểu đồng đi kêu Bàng Phúc, bảo nó đem lính tráng tùy tùng tới bắt kẻ gian. Còn mình khẽ tay xô nhẹ cánh cửa, lẻn vào trong rồi thẳng lên lầu thấy trên bàn ê hề nem, chả, gỏi thịt, trong ly còn có rượu cặn. Bước thẳng tới tư trướng thấy màn trong còn vén, một gã trai ôm chặt một người con gái đương nằm quay mặt vào trong. Bàng Kiết nổi điên lên, máu ghen sùng sục, thấy bên vách có treo một lưỡi gươm bèn với tay lấy, ráng hết sức mạnh chém xuống, đầu gã trai nọ văng xuống ván lầu, Yến Hồng hoảng hốt ngồi dậy chưa kịp nói gì, cũng bị Bàng Kiết cho một gươm, hồn về chín suối. Ôi! Rồi đời hai người sắc đẹp! Vô cớ chịu thác oan!

Cái đầu của gã trai kia rớt xuống ván lầu, khăn bịt tơi ra, xem kỹ lại thật chẳng ai đâu lạ, rõ là người con gái rất đẹp, đó là nàng Trạc Tử. Bàng Kiết biết lỡ tay, la hoảng một tiếng buông gươm xuống đứng sửng sốt như hình gỗ.
Bây giờ Bàng Phúc đã đem nhiều người tới nơi thấy Thái sư đã giết hại vị ái thiếp thì kinh hãi vô hạn.
Nguyên hai nàng chờ Bàng Kiết mãi mà không thấy tới, đêm khuya mệt mỏi mới giả giọng trai gái đùa bỡn nhau nằm nghỉ, ai dè mới đặt lưng xuống là ngủ mê đi. Lại lúc Trạc Tử giả dạng làm trai, thấy trên vách có cái khăn của Bàng Kiết liền lấy bịt lên đầu khiến cho người ghen lóa mắt, gái đẹp bay hồn vậy Bàng Kiết thương tiếc hai nàng hầu lắm, khóc ngất một hồi, sai Bàng Phúc lo việc tẩm liệm thi hài hai nàng rồi cho mời đứa học trò ruột là quan Ngự sử Lục Thiên Thành tới. Bàng Kiết đem chuyện giết lầm thuật lại cho Thiên Thành nghe. Lục Thiên Thành vốn là kẻ hay nịnh nọt, nên nghe Thái sư nói dứt liền kiếm cớ phỉnh phờ, nói với Bàng Kiết rằng: "Việc ấy, nếu cứ như ý tệ đồ nghĩ chắc là tại phủ Khai Phong bày biện ra. Vì chúng nó cùng Thái sư có ý kình chống. Phủ Khai Phong rất đông người giỏi, nên chúng dò dẫm được, thấy hai bà rượu xoàng mê ngủ, chúng mới giả dạng trai gái chuyện vãn làm cho máu giận Thái sư nổi lên, đến nỗi giết lầm hai bà. Đó rõ là cái kế rất sâu độc".
Bàng Kiết nghe nói lửa giận bừng bừng, trợn mắt nghiến răng, cái thù xưa giết con chưa dễ bằng hại thiếp, bèn hỏi Thiên Thành rằng: "Bây giờ phải làm sao trả thù đó?". Thiên Thành đáp: "Cứ việc viết sớ tâu lên Thiên tử rằng Bao Chửng sai người tới giết hại vị ái thiếp của Thái sư, thì làm thế nào y thoát khỏi lụy hại". Bàng Kiết nghe nói khoái chí lắm, nắm tay Thiên Thành dắt lại thư phòng, cậy tả tấu văn. Lục Thiên Thành mài mực chấm bút, thảo xong tờ tấu đưa cho Bàng Kiết xem. Bàng Kiết khen ngợi lắm, Thiên Thành thấy Thái sư vừa ý, liền vuốt giấy sao kỹ lại một bản rất tinh, phong lại cẩn thận, đợi sáng dâng lên Thiên tử.

Bàng Kiết thấy sớ đã xong, liền sai tiểu đồng đi hâm trà, tiểu đồng vâng lệnh, vừa ra tới cửa Nguyệt Lượng hớt hải chạy trở lại, mặt mất máu, nói lập cập rằng: "Có trộm! Có trộm!" Thiên Thành hỏi: "Trộm ở đâu?, Tiểu đồng đáp: "Nó cắp đao, ngồi rình ở cửa Nguyệt Lượng”. Bàng Kiết nghe nói lật đật đắt Thiên Thành và ít tên quân hầu tới xem, Bàng Phúc hay tin cũng đem ít người chạy theo.
Đến cửa Nguyệt Lượng, tiểu đồng chỉ vào cụm trúc nói: "Khi nãy kẻ trộm núp ở đây". Ai nấy nghe theo lời, xô nhau vào kiếm, thấy một người ở đó, song không phải cắp đao ngồi rình, mà là bị trói khòm xuống, trước mặt lại dựng một cái dao to, ai vô ý xem qua như người ngồi vác dao rình rập vậy. Chúng bèn mở trói và móc giẻ trám miệng ra, coi kỹ lại là tên đầu bếp trong phủ tên gọi Lưu Tam. Hỏi nói rằng: "Vì sao mà bị trói ở đó?". Lưu Tam đáp: "Tiểu nhân đương ngủ ngon tại nhà bếp, bỗng nghe một tiếng động, mở mắt thấy một người tuổi độ hai mươi, hình dung tuấn tú, ăn mặc đẹp đẽ, cầm gươm tới giơ trước mặt tiểu nhân bảo rằng: Nếu mi la thời đứt đầu. Người ấy nói dứt tiếng lấy giẻ trám họng, rồi trói tiểu nhân lại, xách bỏ tại đây. Trước khi đi, lại cắm thêm con dao to ở trước mặt nữa, không rõ cớ gì".
Lục Thiên Thành nghe xong, lật đật xin Bàng Kiết trở lại thư phòng cho mau. Bàng Kiết không rõ ý gì, cứ việc theo. Vào tới bàn viết, Thiên Thành lấy tờ sớ ra xem. Xem xong vỗ tay cười rằng: "May lắm, may lắm! Tấu trát chưa bị chúng đoạt hay phá hoại đi!". Bàng kiết bây giờ hiểu ý, khen Thiên Thành khôn ngoan cẩn thận ít ai bì.
Hai thầy trò cứ ngồi chuyện vãn, cho tới canh năm cùng đem sớ vào triều dâng lên Thiên tử.
Vua Nhân Tôn vẫn biết họ Bàng và họ Bao thường không hòa, nay lại có cớ vạch chuyện Bao Công nữa, thời chẳng vui, song cực chẳng đã phải xem. Xem thấy Bàng Kiết tâu dối cho Bao Công sai người giết hai nàng hầu của mình, vua lấy làm lạ lắm. Bụng nghĩ vẩn vơ, cầm tờ tấu day qua trở lại mãi, bỗng đâu một góc giấy nhỏ trong ấy lọt ra, vua lật đật cầm lên xem.

HOMECHAT
1 | 1 | 155
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com