Hồi Thứ Bốn Mươi Mốt
Bắt lầm, hỏi nọn, rõ được vàng chôn,
Xem sắc, chen hoa, bừng lên lửa dục.
Bao Công cũng lên kiệu mà về phủ Khai Phong, về tới nơi, lập tức thăng đường, đem Hà Thường Hỉ ra hỏi, Hà thái giám liền đem mọi việc ra khai rõ cả, chẳng dám giấu điều gì. Bao Công hỏi xong trở vào thư phòng bàn luận việc ấy với Công Tôn Sách và Triển Hùng Phi. Hai người đều nghi cho Bạch Ngọc Đường làm việc ấy.
Rạng ngày Bao Công vào chầu, tâu lại những lời của Hà Thường Hỉ. Vua Nhân Tôn nghe tâu hết sức vui vẻ, khen rằng: "Người ấy tuy làm nhiều điều ám muội, song có ý giúp phải trừ tà, khanh không cần phải phòng ngừa cho lắm, chỉ làm thế nào mời được người ấy cho trẫm xem". Bao Công vâng chỉ, trở về truyền lại cho các viên chức trong phủ. Ai ai cũng muốn lập công. Triệu Hổ nhớ lại chuyện giả ăn mày lúc xưa thời khoái chí lắm, quyết phen này giở miếng cũ, bèn thay hình đổi dạng làm đứa ăn mày, song không giữ kín ra nơi vắng vẻ như trước mà cứ đường đột trong phủ đi ra, khiến cho ai nấy thấy cũng tức cười, kẻ đi đường và con nít kéo theo cả lũ, chỉ trỏ cười ngạo um sùm.
Thật là:
Quyết săn cọp dữ, phải có thợ nghề,
Muốn chọc người tài, phải dùng thế ấy.
Triệu Hổ giả dạng ăn mày, ra khỏi phủ thấy dân chúng theo coi đông lắm, thời tức mình đi lẹ như bay được vài dặm đường, nhìn lại bốn bề vắng vẻ, cảnh tượng đìu hiu, mặt trời đã lặn, lại thêm gió bấc thổi lạnh lẽo rút ruột. Bấy giờ Triệu Hổ không muốn đi nữa, tính kiếm chỗ nằm núp gió, may sao bên cạnh đường có cái miếu hỏng cửa xiêu vách đổ, chỉ trơ trọi cái khung, và những chân tường lồi lõm rong rêu. Triệu Hổ vào nằm ở đó, bỗng thấy có một người ăn mặc lam lũ không khác gì mình, hai tay ôm một mớ cỏ khô, đi xăm xăm lại bên gốc liễu, quăng mớ cỏ vào bộng cây, rồi nhảy lên nằm. Một lát cũng có một người ăn mặc như người trước, cũng ôm cỏ lại bộng cây liễu, quăng vào, té ra ở trong đã có người nằm rồi, vừa muốn đi chỗ khác, thời người ở trong mời vào nằm chung, sẽ có chuyện đàm đạo. Người vào trước nói: "Một mình tôi ở đây thời ngủ sớm, có anh lại, ngồi dậy nói chuyện chơi".
Người vào sau đáp: "Nghĩ con người ở đời giàu có mà chi, ngàn gian nhà rộng, chẳng qua ngủ một chỗ mà thôi, sao hơn được chúng ta nghèo khổ mà được chỗ ấm áp như vầy, dẫu cho kẻ quản bảo trong phủ, dầm sương giãi gió thời có hơn gì?". Triệu Hổ nghe chúng nó nói xóc mình tức lắm, muốn chạy lại nằm chung một ổ chơi. Vừa đi tới gốc liễu thời nghe hai người nói với nhau rằng: "Cho đến đường đường một vị thừa tướng cũng chưa ắt ở tại phủ Khai Phong nhắm mắt ngủ cho yên, nữa là người ấy”. Người kia bèn hỏi rằng: "Tại sao mà tướng gia lại ngủ không yên giấc?". Người nọ đáp: "A, anh không biết hay sao, mới đây trong cung có xảy ra việc Tổng quản bị giết và đề thơ ở đền Trung Liệt nên Thánh thượng giao cho phủ Khai Phong tra xét, như vậy làm sao tướng gia ngủ yên được?". Người kia nói: "Ối! Chuyện đó tôi biết lắm, song không dám lên phủ để bày tỏ “. Người nọ lật đật hỏi: "Anh sợ cái gì, anh cứ thuật cho tôi nghe tôi sẽ giúp anh”. Người nọ đáp: "Không, mà chưa biết đúng hay không. Anh có nhớ ở đường Cổ Lầu có nhà trọ tên là Kiết Thăng điếm, có một người khách tới ở, hình dung tuấn tú, tuổi tác trẻ con, cỡi ngựa mây, tùy tùng đông, mướn một căn nhà rất rộng, cùng nhau ở trọ. Nghe nói người ấy họ Tôn, có mối mang gì ở trong cung, không rõ phải chuyện ấy không?".
Triệu Hổ nghe nói mừng rỡ lắm, không còn biết lạnh nữa, lén lén ra khỏi miếu, chạy vội về phủ Khai Phong đem những lời đã nghe thưa lại với Bao Công, và xin cho sai dịch đi tra xét. Bao Công nhận lời, phái Mã Hán, Trương Long đi với Triệu Hổ tới điếm Kiết Thăng. Tới nơi Triệu Hổ phân phó sai dịch bao vây bốn phía rồi kêu tiểu nhị mở cửa. Cửa mở, chúng đã kéo ùn ùn vào, bắt tiểu nhị dẫn lại phòng của họ Tôn trói người khách ấy lại. Khách vừa thiu thiu ngủ, thấy bị trói, thời thất kinh, sau nghe nói đó là lính ở phủ Khai Phong thời mặt mày tái ngắt.
Triệu Hổ đã bắt được người rồi, bèn sai lục soát các nơi song không thấy vật gì. Chỉ có hai phong thư mà thôi. Bấy giờ Mã Hán và Trương Long ở dưới lầu đi lên, thấy vậy biết là bắt lầm bèn cầm hai phong thư lại đèn coi, thời một mặt đề là: "Bình an gia bảo", một mặt đề là: "Phụng Lương phủ thụ mật phong“. Trương Long biết chuyện đã lỡ rồi không làm sao được cực chẳng đã phải giải người ấy về phủ luôn cả hai phong thư, và bẩm lại cho Tướng gia rõ.
Bao Công vội vã thăng đường hỏi người ấy rằng: "Mi tên họ là gì?". Người ấy đáp: "Tôi tên là Tòng Phước, gia nhân của quan thái thú Phụng Dương Tôn Trân vâng lệnh chủ nhân đem thọ lễ cho Bàng Thái sư. Bao Công hỏi: "Thọ lễ những món gì ở đâu?". Tòng Phước đáp: "Chỉ có tám chậu tùng cảnh, người bạn tôi là Tòng Thọ còn đem theo sau, tôi chỉ có dâng thơ mà thôi, nay tới trước phải ở tại điếm Kiết Thăng mà chờ”. Bao Công nghe xong biết là bắt lầm, song nghĩ chưa ra kế để giải phóng. Triệu Hổ thấy tướng gia vừa suy nghĩ, vừa cầm hai phong thư lật qua trở lại xem bèn hỏi Tòng Phước rằng: "Bọn mi còn có đem gì với tùng cảnh ấy nữa không?". Tòng Phước nghe hỏi ngơ ngẩn không trả lời được. Bao Công thấy bộ tịch nó phát nghi, bèn vỗ án hỏi rằng:” "Gã kia còn điều gian giấu. Tả hữu đâu mau tra nó cho ta?". Tòng Phước kinh hoảng cúi đầu thưa rằng: "Xin lão gia bớt giận, tôi cứ thật khai ngay, trừ tám chậu cảnh ấy ra còn có ngàn lượng vàng ròng nữa, song e lúc đi đường chúng biết mà đoạt đi, nên chôn vào đáy chậu hoa để che mắt thịt. Ai dè lão gia mắt thánh tài thần, tôi không dám giấu, nếu không tin, xin coi trong thư thời rõ". Bao Công bèn hỏi: "Hai bức thư này gửi cho ai?". Tòng Phước đáp: "Một bức gửi cho Bàng Thái sư là ông ngoại của chủ tôi, còn một bức là nang thơ cho tôi”. Bao Công nghe khai, gật đầu sai lưu Tòng Phước lại trong phủ, rồi bãi hầu trở vào thư phòng báo Công Tôn Sách viết sớ, sáng ngày đem luôn hai phong thư vào tâu Thiên tử. Vua Nhân Tôn xem xong, nghĩ chuyện này Bao Công tố giác nên không giao cho phủ Khai Phong được, phải phú cho Đại lý ti tra xét.
Quan đứng đầu ti Đại lý là Văn Ngạn Bác đem Tòng Phước ra tra, nó khai y như lời đã nói với Bao Công khi trước. Ngạn Bác liền sai sai dịch đón đường thu các lễ vật của Thái thú Phụng Dương, không cho lọt vào tay kẻ khác.
Khi đem tám chậu cảnh vào đại đường thời rõ là cành tùng uốn rất khéo léo, kết nhành đấu lá thành tám chữ "Phước như đông hải, Thọ tỉ nam sơn". Ai vô ý dòm thoáng qua không biết là cây cảnh mà nhận là chữ kết chẳng sai. Ngạn Bác truyền chúng đem chậu chữ Phước, moi ra xem không thấy vàng đâu cả. Moi hết tám chậu đều không có vàng, duy trong chậu chữ Sơn có một cái thẻ ngà, bề mặt đề chữ: "Của vô nghĩa”. Bề trái đề chữ: "Biết ý nên lấy “. Ai nấy thấy vậy đều lấy làm lạ, không hiểu ý gì. Ngạn Bác liền đem Tòng Thọ ra tra. Tòng Thọ khai rằng: "Vàng ấy quả thật có, nhưng mất đi đâu không biết được. Duy lúc đi đường có gặp bốn người, dắt theo rất nhiều tùy tùng, nói rằng mình làm chức hiệu úy tại phủ Khai Phong họ Vương, Mã, Trương, Triệu. Bốn người ấy ở chung với chúng tôi, cùng ăn uống một bàn. Không rõ cớ nào, chúng tôi ăn uống xong, say mê man rồi bọn ấy đi mất, bây giờ vàng cũng hết, e bọn ấy lấy đi“.
Ngạn Bác nghe khai không biết làm sao, bèn đem luôn thẻ ngà ấy, vào tâu lại mọi lẽ cho Thiên tử nghe. Vua Nhân Tôn day lại hỏi Bao Công, Bao Công tâu rằng: "Muôn tâu Thiên tử, . bốn người thường thường ở hầu tại bản phủ không khi nào đi xa, nay có việc này, chắc là có kẻ mượn tên giả mạo". Vua Nhân Tôn liền phú việc cho phủ Khai Phong tra và xuống chỉ triệu Tôn Trân về triều, còn Tòng Phước và Tòng Thọ được tha bổng.
Bàng Thái sư và rể là Tôn Vinh nghe việc ấy lập tức viết sớ xin tội, vua Nhân Tôn có đức khoan hồng nên dung xá cho. Duy có Bao Công cứ việc tra xét, nên tới ngày sinh nhật, Bàng Kiết giao cả các việc cho con rể lo liệu, mình không tiếp khách, nằm lỳ tại thư phòng, căm giận Bao Công vô hạn, lập kế này mưu nọ, hại cho được mới yên lòng. Đương lúc Bàng Thái sư nghĩ mưu định kế, chợt có tiểu đồng lên thưa rằng: "Bẩm lão gia có hai bà tới chúc thọ". Bàng Kiết nghe bẩm mặt tươi như hoa, mừng như trẻ được kẹo, ngồi nhổm dậy đi ra lan can nhìn xuống thấy Trạc Tử và Yến Hồng đi lững thững dưới đường, xiêm vàng, quần đỏ, áo lục, khăn xanh, xen với cúc sứ, hạnh, lài, thật đẹp đà chóa mắt. Bàng Kiết mê mệt với cái bóng sắc của hai nàng hầu, còn đứng dựa lan can mê mẩn, hai nàng đã dắt thị tì tới nơi.
Trạc Tử, Yến Hồng bước vào thư phòng ra mắt Thái sư và chúc mừng vạn thọ. Bàng Kiết nói: "Nay hai ái thiếp tới đây, để cùng ta chia mừng, thật là lương tiêu hi hữu vậy”. Yến Hồng đáp: "Nay là ngày sinh thời của Thái sư chúng tôi xin tới đây bái lễ". Bàng Kiết nói: "Hai ái thiếp tới đây cũng đủ vui rồi, cần gì phải bái lễ". Trạc Tử, Yến Hồng cứ việc sai liễu hoàn trải nệm lông chiên rồi hai nàng làm lễ. Lễ xong chia nhau một nàng một bên hầu chuyện với Bàng Kiết, cả hai đem hết tài ra để chiều chuộng Thái sư. Lạ gì! Đêm xuân, sắc ngọc, hoa đẹp, trăng trong, dầu cho sắt đá cũng còn mềm, hà huống lửa tình ai chẳng nóng. Bây giờ Bàng Kiết đã muốn hồn hóa bướm vào chơi vườn uyển trăm hoa, nên cái vẻ âu yếm có phần lả lơi. Chưa mấy lúc mà màn loan rủ bức, trướng gấm tuôn đều.
Đương lúc cùng nhau hoan hội, dưới lầu tiểu đồng chạy rầm lên.
Thật là:
Cuộc vui chưa thỏa chí ông Bàng,
Tin khách đã giục chân chú Tiểu.
Hồi Thứ Bốn Mươi Hai
Giả đùa bỡn, Thái sư giết lầm ái thiếp,
Nghe lời phỉnh, Bàng Kiết mưu hại Bao Công.
Tiểu đồng thấy mười hai vị tiên sinh ở Bàng phủ tới, liền chạy rầm lên nói cho đứa tớ gái hay. Đứa tớ gái thưa lại với Thái sư. Bàng Kiết liền cho hai nàng hầu lui về. Hai nàng nhân tiện mời Bàng Kiết tối đến lầu Thủy Tinh cùng dự tiệc chúc thọ.
Bàng Kiết nhận lời, đưa hai nàng xuống lầu, rồi cho tiểu đồng thỉnh mười hai vị tiên sinh lên. Bọn ấy vào ra mắt Thái sư rồi làm lễ chúc thọ, kẻ dâng đối, kẻ tặng trướng, người phẩm vật, kẻ bạc tiền, ai cũng có lễ vật cả.
Các vị tiên sinh dâng lễ vật lên rồi cùng ngồi lại chuyện trò, câu chuyện chẳng qua cũng là chúc sống vui mừng, mạnh giỏi mà thôi. Bàng Kiết cũng sai phủ quan bày tiệc thết đãi. Chén qua chén lại, chén chúc chén dâng, ăn uống vui cười, trống điểm canh hai, ai nấy đều nặng đầu say mèm cả. Bấy giờ các vị tiên sinh mới kiếu lui về.
Bàng Kiết tuy say, song không quên lời hứa với Trạc Tử và Yến Hồng, bèn bảo hai tên tiểu đồng nâng đỡ mình tới lầu Thủy Tinh. Tới nơi, Bàng Kiết vừa bước vào cửa nghe có tiếng thầm thì như một người đàn ông và một người đàn bà nói với nhau vậy. Trong bụng ông ta sinh nghi bèn đứng lại lắng nghe. Người đàn ông nói rằng: "Nếu không có cơ hội như hôm nay làm sao chúng ta được toại ý". Người đàn bà nói: "Bây giờ còn chờ cho lão tới lâu quá, vậy hai ta lên lầu một chặp, há chẳng vui sao?". Nói rồi cười khúc khích, dẫn nhau lên lầu. Bàng Kiết nghe mấy lời ấy, máu giận nổi đùng đùng, sai tiểu đồng đi kêu Bàng Phúc, bảo nó đem lính tráng tùy tùng tới bắt kẻ gian. Còn mình khẽ tay xô nhẹ cánh cửa, lẻn vào trong rồi thẳng lên lầu thấy trên bàn ê hề nem, chả, gỏi thịt, trong ly còn có rượu cặn. Bước thẳng tới tư trướng thấy màn trong còn vén, một gã trai ôm chặt một người con gái đương nằm quay mặt vào trong. Bàng Kiết nổi điên lên, máu ghen sùng sục, thấy bên vách có treo một lưỡi gươm bèn với tay lấy, ráng hết sức mạnh chém xuống, đầu gã trai nọ văng xuống ván lầu, Yến Hồng hoảng hốt ngồi dậy chưa kịp nói gì, cũng bị Bàng Kiết cho một gươm, hồn về chín suối. Ôi! Rồi đời hai người sắc đẹp! Vô cớ chịu thác oan!
Cái đầu của gã trai kia rớt xuống ván lầu, khăn bịt tơi ra, xem kỹ lại thật chẳng ai đâu lạ, rõ là người con gái rất đẹp, đó là nàng Trạc Tử. Bàng Kiết biết lỡ tay, la hoảng một tiếng buông gươm xuống đứng sửng sốt như hình gỗ.
Bây giờ Bàng Phúc đã đem nhiều người tới nơi thấy Thái sư đã giết hại vị ái thiếp thì kinh hãi vô hạn.
Nguyên hai nàng chờ Bàng Kiết mãi mà không thấy tới, đêm khuya mệt mỏi mới giả giọng trai gái đùa bỡn nhau nằm nghỉ, ai dè mới đặt lưng xuống là ngủ mê đi. Lại lúc Trạc Tử giả dạng làm trai, thấy trên vách có cái khăn của Bàng Kiết liền lấy bịt lên đầu khiến cho người ghen lóa mắt, gái đẹp bay hồn vậy Bàng Kiết thương tiếc hai nàng hầu lắm, khóc ngất một hồi, sai Bàng Phúc lo việc tẩm liệm thi hài hai nàng rồi cho mời đứa học trò ruột là quan Ngự sử Lục Thiên Thành tới. Bàng Kiết đem chuyện giết lầm thuật lại cho Thiên Thành nghe. Lục Thiên Thành vốn là kẻ hay nịnh nọt, nên nghe Thái sư nói dứt liền kiếm cớ phỉnh phờ, nói với Bàng Kiết rằng: "Việc ấy, nếu cứ như ý tệ đồ nghĩ chắc là tại phủ Khai Phong bày biện ra. Vì chúng nó cùng Thái sư có ý kình chống. Phủ Khai Phong rất đông người giỏi, nên chúng dò dẫm được, thấy hai bà rượu xoàng mê ngủ, chúng mới giả dạng trai gái chuyện vãn làm cho máu giận Thái sư nổi lên, đến nỗi giết lầm hai bà. Đó rõ là cái kế rất sâu độc".
Bàng Kiết nghe nói lửa giận bừng bừng, trợn mắt nghiến răng, cái thù xưa giết con chưa dễ bằng hại thiếp, bèn hỏi Thiên Thành rằng: "Bây giờ phải làm sao trả thù đó?". Thiên Thành đáp: "Cứ việc viết sớ tâu lên Thiên tử rằng Bao Chửng sai người tới giết hại vị ái thiếp của Thái sư, thì làm thế nào y thoát khỏi lụy hại". Bàng Kiết nghe nói khoái chí lắm, nắm tay Thiên Thành dắt lại thư phòng, cậy tả tấu văn. Lục Thiên Thành mài mực chấm bút, thảo xong tờ tấu đưa cho Bàng Kiết xem. Bàng Kiết khen ngợi lắm, Thiên Thành thấy Thái sư vừa ý, liền vuốt giấy sao kỹ lại một bản rất tinh, phong lại cẩn thận, đợi sáng dâng lên Thiên tử.
Bàng Kiết thấy sớ đã xong, liền sai tiểu đồng đi hâm trà, tiểu đồng vâng lệnh, vừa ra tới cửa Nguyệt Lượng hớt hải chạy trở lại, mặt mất máu, nói lập cập rằng: "Có trộm! Có trộm!" Thiên Thành hỏi: "Trộm ở đâu?, Tiểu đồng đáp: "Nó cắp đao, ngồi rình ở cửa Nguyệt Lượng”. Bàng Kiết nghe nói lật đật đắt Thiên Thành và ít tên quân hầu tới xem, Bàng Phúc hay tin cũng đem ít người chạy theo.
Đến cửa Nguyệt Lượng, tiểu đồng chỉ vào cụm trúc nói: "Khi nãy kẻ trộm núp ở đây". Ai nấy nghe theo lời, xô nhau vào kiếm, thấy một người ở đó, song không phải cắp đao ngồi rình, mà là bị trói khòm xuống, trước mặt lại dựng một cái dao to, ai vô ý xem qua như người ngồi vác dao rình rập vậy. Chúng bèn mở trói và móc giẻ trám miệng ra, coi kỹ lại là tên đầu bếp trong phủ tên gọi Lưu Tam. Hỏi nói rằng: "Vì sao mà bị trói ở đó?". Lưu Tam đáp: "Tiểu nhân đương ngủ ngon tại nhà bếp, bỗng nghe một tiếng động, mở mắt thấy một người tuổi độ hai mươi, hình dung tuấn tú, ăn mặc đẹp đẽ, cầm gươm tới giơ trước mặt tiểu nhân bảo rằng: Nếu mi la thời đứt đầu. Người ấy nói dứt tiếng lấy giẻ trám họng, rồi trói tiểu nhân lại, xách bỏ tại đây. Trước khi đi, lại cắm thêm con dao to ở trước mặt nữa, không rõ cớ gì".
Lục Thiên Thành nghe xong, lật đật xin Bàng Kiết trở lại thư phòng cho mau. Bàng Kiết không rõ ý gì, cứ việc theo. Vào tới bàn viết, Thiên Thành lấy tờ sớ ra xem. Xem xong vỗ tay cười rằng: "May lắm, may lắm! Tấu trát chưa bị chúng đoạt hay phá hoại đi!". Bàng kiết bây giờ hiểu ý, khen Thiên Thành khôn ngoan cẩn thận ít ai bì.
Hai thầy trò cứ ngồi chuyện vãn, cho tới canh năm cùng đem sớ vào triều dâng lên Thiên tử.
Vua Nhân Tôn vẫn biết họ Bàng và họ Bao thường không hòa, nay lại có cớ vạch chuyện Bao Công nữa, thời chẳng vui, song cực chẳng đã phải xem. Xem thấy Bàng Kiết tâu dối cho Bao Công sai người giết hai nàng hầu của mình, vua lấy làm lạ lắm. Bụng nghĩ vẩn vơ, cầm tờ tấu day qua trở lại mãi, bỗng đâu một góc giấy nhỏ trong ấy lọt ra, vua lật đật cầm lên xem.