watch sexy videos at nza-vids!
WAPVN.US
06:46:4428/09/2024
Kho tàng truyện > Truyện Dài > DÃ SỮ > Chung Vô Diệm - Trang 18
Chỉ mục bài viết
Chung Vô Diệm
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Trang 11
Trang 12
Trang 13
Trang 14
Trang 15
Trang 16
Trang 17
Trang 18
Trang 19
Trang 20
Trang 21
Trang 22
Trang 23
Trang 24
Trang 25
Trang 26
Tất cả các trang
Trang 18 trong tổng số 26

Hồi thứ Năm Mươi Hai

Trân Châu san, Ngũ Tân vong mạng
Chung gia trại, Vô Diệm hưng binh

Nói về Trang vương nước Sở, đương buổi lâm triều, có quan Huỳnh môn vào tâu rằng:
- Vô Diệm lòng hằng ở bạc, bị ác sang hồn xuối suối vàn, vợ chồng Điền Côn lại phản vua Tề lên ở núi Thương Sơn, nay ai chiếu rải cùng hầu bang, nên các nước thảy đều ai phó (điếu tang), vậy ngu thần phải vào tâu phân tỏ với cửu trùng, muốn cho hai nước khỏi sự mất lòng, xin phải cứ theo trong thường lệ.
Trang vương nghe nói Chung hậu chết rồi thì có ý mừng thầm, nhưng hãy còn lưỡng lự, chưa biết phân xử lẽ nào, xảy thấy Ngũ Tân bước ra tâu rằng:
- Năm trước Kỳ Bàn đại hội, ngu thần với Vô Diệm thề chẳng đội trời chung, lòng quyết một lòng toan báo oán, như nay trời chẳng còn dung nó, thì ngu thần xin đem binh tới đó đào mả mà phân thây, trước là trả đặng thù này, sau nữa lại tóm thâu Tề quốc.
Trang vương nói:
- Vương huynh đừng lật đật, để thủng thẳng sẽ hay, Vô Diệm chết chưa đặng mấy ngày, nếu vương huynh đốc chí ra tay, thì các nước cười trẫm vô nhân vô nghĩa.
Ngũ Tân nghe nói giương mắt lên ngó Trang vương mà tâu rằng:
- Nếu bệ hạ chẳng cho trả oán thì ngu thần cũng liều thác phen này.
Nói rồi thò tay rút cây báu kiếm ra, muốn đâm cổ tự vận, Trang vương vội phán rằng:
- Vương huynh tuổi đã bán bách (năm mươi), đi ra đường chinh chiến thì trẫm chẳng an tâm. Thôi thôi! Trẫm cũng chiều lòng, bây giờ vương huynh muốn dùng bao nhiêu nhân mã?
Ngũ Tân cả mừng tâu rằng:
- Lời tục ngữ có nói: Sánh đấng làm trai nào sợ chết, có thù không trả, chẳng lầm người. Ngu thần tuy tuổi đã năm mươi nhưng mà còn đủ sức cầm thương lên ngựa, trước đền ơn thánh chúa, sau trả đặng thù nhà, binh mã xin dùng một muôn ba, ngày mai sẽ đăng trình thượng lộ.
Trang vương liền truyền nội thị dọn tiệc tiễn hành, ba chung ngự tửu khuyến mời chúc bốn chữ kỳ khai đắc thắng. Mãn tiệc Ngũ Tân tạ ơn lui ra, khiến năm vị vương hầu tới giáo trường kiểm điểm nhân mã. Lúc đó Ngũ Tân trở về vương phủ thì phu nhân là Ngọc Nga đã dọn rượu ngồi chờ, Ngọc Nga mới hỏi:
- Nay triều đình có việc gì mà vương gia về chậm như vậy?
Ngũ Tân mới thuật các việc cho phu nhân nghe, Ngọc Nga nghe chồng nói thì đã biết mạng trời đã định, chết sống chẳng lầm, vợ chồng như muốn gặp mặt nhau chỉ có giác chiêm bao mới thấy, nhưng vậy cũng ráng lấy hết nghề tướng thuật mà khuyên cản Ngũ Tân rằng:
- Thiếp xem mặt vương phu, nơi ấn đường có như hắc hãm, vả lại hôm trước thiếp nằm chiêm bao thấy trong hồ nước cạn, cặp oan ương phân lạc đôi nơi, tuy là mưu sự tại người, mà điểm bất tường cũng bởi nơi thiên định. Lời hiền xưa có nói: Cây vì cao lớn nên bị gió gãy, người vì danh vọng nên mới hư mình, vương gia như muốn đông chinh, rủi có việc chi sai chạy, thì vợ con biết phương nào toan liệu?
Ngụ Tân nói:
- cuộc thế sự có cơn bỉ thái, đấng trượng phu nào nại tử sanh, thù năm xưa còn nhớ rành rành, quyết tới đó đào mả phanh thây Vô Diệm.
Ngọc Nga thấy chồng quyết ý, đôi hàng lụy chứa chan lai láng thưa rằng:
- Hôm nay vợ chồng sum vầy một tiệc, ngày mai bắc nam phânrẽ đôi phương, việc đời đoạn thảm tình thương, chi cho bằng sanh ly tử biệt, tuy vương phủ là người oanh liệt, nhưng Vô Diệm hay dùng chước quỷ mưu thần, vậy chớ vương phủ không nhớ hay sao? Hồi năm xưa hỏa hóa lãnh cung, nó tả hỏa độn về nhà ẩn tích, tôi tưởng nó bây giờ cũng làm cách trá tử mà gạt phỉnh người ta, xin vương phủ trước phải đề phòng, kẻo mà lầm mưu độc.
Vợ chồng trò chuyện với nhau mãn tiệc thì trời đã tối, Ngũ Tân bèn truyền quân dọn dẹp nghĩ ngơi, đợi sáng ngày đại hưng binh mã.
Rạng ngày đầu canh năm, Ngũ Tân thức dậy sửa soạn nai nịt, từ biệt phu nhân , cầm thương lên ngựa, thẳng tới giáo trường, chúng tướng đều tới bái yết, sắp đặt đội ngũ, đâu đó chỉnh tề, phát ba tiếng pháo, kéo binh đi ra khỏi thành Hoài Nam, ba quân reo ó vang trời, muôn đội trống chiêng dậy đất. Ngày đi đêm nghỉ, chẳng bao lâu tới Trân Châu sơn, quân thám tử trở lại báo rằng:
- Đây đã tới điạ phận nước Tề, trước mặt đó là chỗ lăng phần của Chung hậu.
Ngũ Tân cả mừng, bèn truyền chúng tướng chia ra mỗi một toán là ba ngàn người, vây núi Trân Châu đủ hướng đông, tây, nam, bắc, phát pháo hạ trại an dinh. Quân Tề nghe tiếng súng nổ hoảng kinh, lật đật về phi báo.
Nói về Tuyên vương từ khi an táng Chung hậu xong, về trào lo việc chánh nước, cứ thường bữa thương nhớ nội trợ chánh cung, lại thường lên thăm viếng mộ phần, coi công bộ trùng tu lăng tẩm. Đang lúc Tuyên vương ngồi buồn rầu suy nghĩ, bỗng thấy quân sĩ báo rằng:
- Chẳng biết nước nào đại hưng binh mã bao vây lương lăng bốn phía đông đầy, lời thật tôi xin tấu bày, xin thánh hoàng định đoạt.
Tuyên vương nghe nói cả kinh, bèn kêu Yến Anh, Điền Năng và mấy vị ngự điệt tới bảo rằng:
- Phân binh bốn phía và đặt những đồ hỏa lôi hỏa pháo, đặng gìn giữ cổng thành.
Sắp đặt xong, vua tôi đêm đó năm không an giấc. Qua ngày sau Ngũ Tân sai Long hổ vương Tiêu Khôi tới dưới chân núi khiêu chiến, quân vào tâu cho Tuyên vương hay, Tuyên vương hỏi:
- Trong các tướng có ai dám ra cự với tướng giặc không?
Hỏi dứt lời có một tiếng người bước ra tâu rằng:
- Mạt tướng bất tài, xin đi lập đầu công.
Tuyên vương coi lại người ấy tên là Lưu Phụng, làm chức tổng binh, vua bèn truyền lịnh cho đi. Lưu Phụng liền cầm thương lên ngựa dẫn theo năm trăm binh ròng mạnh mẽ, kéo xuống đối địch với binh Ngũ Tân. Lúc ấy Tiêu Khôi đương mắng nhiếc om sòm, xảy thấy 1 tướng Tề xông ra mình mặt ngân giáp, đầu đội ngân khôi, tay cầm ngân thương, cưỡi con ngựa bạch, bèn hỏi:
- Tướng Tề kia, tên họ là gì? Mau nói ra rồi chịu chết.
Lưu Phụng thấy tướng Sở sát khí đằng đằng, oai phong lẫm lẫm, mình mặt thiết giáp đầu đội kim khôi, cỡi con ngựa thanh tòng, tay cầm thiết côn mình cao hai trượng mặt tợ hung thần, bèn đáp rằng:
- Ta tên là Lưu Phụng, làm chức đô 1y tổng binh, vậy chớ mày tên họ là gì, nói đi rồi sẽ đánh?
Long Hổ vương đáp:
- Vương gia là Tiêu Khôi, bốn bể đều nghe tiếng, ở Lưỡng Quảng giao binh trăm trận, anh hùng đều phải khiếp oai, đất Hoài Nam có một không hai, thảy đều biết ta lợi hại, mày hãy trở về tâu lại, nói với Tuyên vương mau đem thây Chung Vô Diệm ra đây, nếu như mày chẳng nghe lời, thời ta đập một cây thiết côn này bể óc.
Lưu Phụng nổi giận, hươi thương đâm tới, Tiêu Khôi cũng đưa côn ra đỡ, đánh được ba chục hiệp, Lưu Phụng liệu kế đánh không nổi, bèn quất ngựa tháo lui, bị Tiêu Khôi lẹ tay đánh trúng một côn bên hông tức thì nhào lăn xuống ngựa, quân Tề ào ra cướp xác, thì Lưu Phụng hồn đã về trời. Tiêu Khôi thừa thế rượt nà, quân Tề lật đật chạy về phi báo rằng:
- Nay tổng binh thất trận, Tiêu Khôi còn đánh đuổi rượt theo, nên chúng tôi phải về tâu lại.
Tuyên vương nghe báo đau lòng rơi lệ, thương Lưu Phụng là tôi trung thần, Tuyên vương còn đang thơ thẩn chưa quyết định sai ai, xảy thấy Điền Văn bước ra lãnh mạng đi báo cừu. Tuyên vương dặn rằng:
- Ngự điệt có đi phải đề phòng cho cẩn thận, nếu có điều chi thất thố, thời quả nhân ngồi chẳng an lòng.
Điền Văn cúi đầu vâng mạng lui ra, sửa sang nai nịt, cầm thương lên ngựa, phát ba tiếng pháo dẫn theo tám viên thiên tướng và một ngàn dũng sĩ lướt xông ra trận, chẳng thèm xưng hỏi, cứ lầm lũi hươ thương đâm đùa, Tiêu Khôi cũng đưa côn rước đánh, một rồng một cọp, kẻ lại người qua, đánh hơn một trăm hiệp dư, sức cũng cầm đồng, Tiêu Khôi bèn sanh ra một kế dùng thế cử hỏa thiêu thiên, quày ngựa giang ra ít bước, Điền Văn vừa muốn giục ngựa đuổi theo thì đã bị Tiêu Khôi ngoái lại lại trúng một côn bể đầu chết tốt. Tám viên thiên tướng và một ngàn quân sĩ ào ra cướp thây đặng đem về, Tuyên vương thấy vậy khóc ngất một hồi, mới hỏi rằng:
- Có ai dám ra trận mà báo thù cho cháu của trẫm chăng?
Hỏi dứt lời thì có một viên đại tướng tên là Quản Hổ xin đi. Quản Hổ ra trận, đánh chưa đặng mười hiệp, đã tuông nhằm một côn của Tiêu Khôi, nhào lăn xuống ngựa. Kế đó ra luôn bốn tướng nữa cũng bị bỏ mình, tính lại trận thứ nhất là: Lưu Phụng, trận thứ hai là Điền Văn, trận thứ ba là Quản Hổ, trận thứ tư là Trần Tổng Nhung, trận thứ năm là Bào Cao, trận thứ sáu là Vương Hiển, trận thứ bảy là Hồ Đô Năng, hết thảy là bảy người đều bị một tay Tiêu Khôi sát tử.
Tuyên vương thấy vậy bèn thẳng tới trước mả Chung hậu khóc mà nói rằng:
- Năm trước Hoài Nam phó hội, thiên binh vạn tướng bên Sở, ngự thê chẳng có sợ chút nào, bây giờ có một mình thằng quỷ sứ Tiêu Khôi giết hết bên Tề bảy tướng, nay ngự thê mới chết, thằng Điền Côn cũng phản rồi, trẫm biết tính làm sao mà lui đặng Ngũ Tân cho sớm? Nó lại đòi phá mộ phần của ngự thê biểu đem dâng thi hài cho nó nữa.
Tuyên vương vừa khóc vừa nói. Yến Anh thấy vậy cũng động lòng, bá quan thảy đều thương cảm. Còn Tiêu Khôi thắng luôn bảy trận, thì trời đã tối, liền thâu binh trở lại dinh, Ngũ Tân bày tiệc rượu hạ công, uống tới canh hai mới mãn. Rạng ngày sau, Ngũ Tân thăng trướng, nhóm chúng tướng lại hỏi rằng:
- Nay tướng nào đem binh ra trận đặng biểu vua Tề phải đem thây Chung Vô Diệm ra cho mau?
Nguyên soái là Huỳnh Kỳ lãnh mạng, Ngũ Tân cho đi, Huỳnh Kỳ cầm đao lên ngựa, thẳng tới dưới triều núi Trân châu biểu quân Tề vào tâu với Tuyên vương, đem thây Chung Vô Diệm ra thì sẽ rút binh về nước. Quan chánh ty vào tâu lại, Tuyên vương cả kinh chết giấc một hồi, Yến Anh kêu cứu khuyên rằng:
- Chúa thượng chớ lo, hãy viết miễn chiến bài nói: Xin hẹn một tháng sẽ đem thấy quốc mẫu ra, đặng gạt cho binh Sở lui về dinh, chừng đó sẽ có người tới cứu.
Tuyên vương túng thế phải nghe lời, truyền quân chánh ty làm ngay như vậy, rồi đem treo ở dưới chân núi, Huỳnh Kỳ xem thấy bèn  lui binh về trại thuật lại cho Ngũ Tân nghe, Ngũ Tân cũng y hạn cho vua Tề và dốc binh đêm ngày canh tuần nghiêm nhạt. Từ đó binh Sở không tới khiêu chiến nữa,, vừa được một tuần, Tuyên vương cứ thường đem đốt hương vái van cùng Chung hậu, xin cho thần thông quảng đại mà cứu vua tôi cho đặng khỏi chết phen này. Oán khí ấy thấu tới từng mây, nên động giết các vì tinh tú.
Nói về Chung hậu từ khi về nhà đến nay đã được ba tháng, thường ngày chị em tập luyện đao mã, đang khi ngồi chơi hoa viên, xảy có một trận gió thổi tới trong bụng cảm thấy xống xang, liền đánh tay toán quẻ biết rõ sự việc, bèn vào nhà từ biệt cha mẹ, và thuật hết sự thiên tử đi coi tu bổ vương lăng mà bị Ngụ Tân phủ vây khổn hãm. Vợ chồng Chung viên ngoại nói liền hối Chung hậu mau mau đi cứu giá kẻo phạm tội với triều đình. Chung hậu vâng mạng liền sửa sang khôi giáp, lên ngựa cầm đao, đi cả đêm cả ngày, cho mau đến Trân Châu sơn cứu giá.
Đây nói về Điền Côn, từ khi ra ở núi Thường Sơn vợ chồng đốc sức quân sĩ lo làm rẫy bái mà chi độ tháng nggày, còn giữa dinh thời để linh vị Chung nương nương, thường bữa hôm mai cúng tế, lòng thê thảm não theo nước mắt, lúc đứng ngồi như thể ở cạnh tường, biết bao nhiêu đoạn thảm tình thương, hay đâu nỗi mưa gió bất thường, nên Điền Côn sanh ra căn bệnh. Liêm thị lật đật rước thầy về thang thuốc, một ngày một thêm hôn mê chữa không lại. Than ôi! Thời mạng bất tề, nên khiến những người trung mắc nạn, nhưng sách có chữ: Hoàng thiên bất phụ hảo....ngày kia cá cũng hóa rồng, mới phỉ chí anh hùng cái thế.
Còn Chung hậu lúc này cũng vừa tới núi Thường Sơn, bèn dừng ngựa lại xem một hồi, thấy người qua lại dinh trại lăng xăng, thì đã biết Điền Côn nghe theo lời mình ra ở đó, bèn kêu sắp quân tuần dinh bảo rằng:
- Mau vào báo với trại chủ bay, nói có Chung quốc mẫu tới đây, mau ra nghênh tiếp.
Quân tuần dinh nghe nói thấy làm lạ, nhưng phải vào bẩm lại cho vợ chồng Điền côn hay. Lúc đó Điền Côn đương cơn bịnh trượng nghe những lời bán tín bán nghi, hay là quốc mẫu hóa thân trá tử? Nghĩ rồi vợ chồng dắt tay nhau xuống núi, đặng coi chân giả thế nào, vừa đi một đỗi xa. Thoại Hoa thấy Chung hậu mười phần tỏ rõ, bèn la lớn lên rằng:
- Ôi mẹ ôi! Mẹ có anh linh hiển hách, xin đừng tới nhát dâu con làm chi tội nghiệp.
Nói vừa dứt lời thì té ra chết giấc, tám vị tổng binh  xúm lại cứu tỉnh đem về dinh, còn Điền Côn là một đấng anh hùng chẳng có sợ gì ma quỉ, vả lại bấy lâu cứ đem lòng hoài vọng, trông sao cho mẹ con đặng gặp mặt nhau, dầu sống chết thế nào cũng chẳng quản. Thấy vậy bèn giục ngựa tới hoài, gặp tận mắt. Điền Côn xuống ngựa quì lạy và mừng rỡ vô hồi, rước thẳng về thảo dinh mà phân trần sau trước. Khi tới nơi quân vào báo lại cho Liêm thị hay, Thoại Hoa lật đật bước ra, rõ ràng đủ mặt một nhà, nhưng còn ngờ giấc chiêm bao đâu đó, mới buông lời thưa rằng:
- Muôn tâu vương mẫu, xin tha tội cho con, bấy lâu nay chưa rõ sự mất còn, nên con thất lê viễn nghênh quốc mẫu.
Chung hậu nói:
- Số là vương nhi và vương tức chưa rõ để mẹ phân lại cho nghe: Ấy gọi là kế điệu hổ ly sơn, mà gạt vua tôi nước Sở, nếu trừ được Ngũ Tân rồi thì mới yên mối họa lớn, vì vậy nên mẹ giả chết mà dụ nó hưng binh, trong cẩm nang mẹ dặn đã rành rành, ngày nay mau phải toan mưu cứu giá. Bây giờ đây thìn tử ở núi Trân châu đương bị khốn, còn tường Tề đã chết hết bảy người, vua tôi đều cam chịu bó tay  lúc này mẹ phải đi suốt đêm ngày tới trước, còn vợ chồng con hãy tóm thâu binh mã theo sau mà thâu phục Sở thần.
Nói rồi cầm đao lên ngựa thoăn thoắt như tên bay. Vợ chồng Điền Côn sau khi đưa Chung hậu ra khỏi dinh truyền cho tám vị tổng binh thâu góp lương thảo, sắp đặt quân sĩ, kế phát pháo đốt dinh, đồng thẳng tới núi TrânChâu tiếp ứng.
Nói về Chung hậu nóng việc cứu giá, đi chẳng kể đêm ngày, không mấy bữa đã gần tới Trân Châu sơn, bèn đứng ngựa lại xem cuộc thế, ngó thấy dinh Sở lập ra trận Nhĩ long quy hải, bốn phương tám hướng đều kín bít như bưng, không thế nào mà xông đục vòng vây cho đặng, liền trở mặt qua hướng tây bắc, đòi thần làm gió tới mà phân bảo vân vi. Thần phong bá nổi trận gió tức thì đầy núi những đã bay cây ngã, binh Sở đều sơ vơ xửng vửng, dinh trại cũng sập nằm sấp lớp một bề. Chung hậu khi ấy giục ngựa lướt vào nói rằng:
- Ta là Chung Vô Diệm, tới cứu giá vua Tề, phải nhượng lộ cho ta đi, nếu không thì chẳng toàn tánh mạng.
Quân Sở nghe nói ngửa mặt lên ngó, thấy một người như quỉ sứ, ngỡ là thần thiên lôi, kẻ té ngửa, người té ngồi, kẻ bỏ thương người rớt mão, lật đật kéo nhau chạy đi phi báo, ngó lại sau thì cũng thấy quỉ sứ đuổi theo, chẳng khác như cọp đuổi bầy cheo, chim đại bàng lùa se sẻ, Tiêu Khôi khi ấy nghe quân báo cặn kẽ, liền nổi giận xách côn bước ra. Chung hậu thấy tướng Sở hình thủ như Phật Kim Cang, đầy mình mặc giáp sắt, bèn cầm đao chỉ mặt mà hỏi rằng:
- Tướng Sở tên họ là? Ai gia chẳng giết đứa vô danh, hãy vào biểu Ngũ Tân ra đây đối địch.
Tiêu Khôi thấy Chung hậu hình dung cổ quái như quỷ như yêu thì cũng nghi, bèn hỏi rằng:
- Mầy là Chung Vô Diệm phải chăng?
Chung hậu đáp:
- Phải.
Tiêu Khôi nói:
- Năm trước Kỳ ban hội chưa từng giao phong, ấy là bởi ý thiên công, cho mầy sống thêm ít năm nữa. Nay ta hỏi sao mày dám giả tới Túy Bình sơn cải giá chiêu phu mà gạt vua nước Lỗ, nước Lương. Mới đây ta lại nghe nói rằng: Mày bị phát mụn tâm đinh mà từ thế, làm sao mày ở đâu mà sống lại tới đây cứu giá? Còn như mày bây giờ muốn biết tên mỗ thời ngoáy lỗ tai cho rộng mà nghe: Sở bang Long Hổ vương Tiêu Khôi là ta đây, hãy mau cúi đầu mà chịu côn này, nếu không thời vương gia giết chết.
Chung hậu đáp:
- Vua tôi bây trúng kế, hãy chịu trói đi cho rồi.
Tiêu Khôi nổi giận, hươi thiết côn đánh tới, Chung hậu cũng đưa đao ra đỡ gạt, một đằng có Huỳnh công tam lược một đằng có đủ Lữ Vọng lục thao, Chung hậu thì thông pháp lực đã cao, Tiêu Khôi lại võ nghệ siêu quần hảo hớn. Hai bên đánh ba trăm hiệp, Tiêu Khôi thất ý đề phòng, bị Chung hậu chém trúng một đao, phân thây ra làm hai đoạn, quân Sở có bốn viên tướng, ào ra cướp lấy thi hài, bèn mau vào trung dinh báo với Ngũ Tân hay rằng:
- Long Hổ vương bị tay Vô Diệm, hồn đã xuống thấy Diêm vương, khi không mang họa phi thường, vương gia phải lo phương cự địch.
Ngũ Tân nghe nói cả kinh, khóc ngất một hồi mới tỉnh, bèn nói với chúng tướng rằng:
- Chung hậu đã bị tâm đinh sang tận số, Chung hậu nào còn sống trên đời? Bởi cớ ấy ta mới sang đây quyết bới thây người nên người mới hiện ra mặt phò Tề chúa đó. Thôi truyền chúng tướng sắp bày một lễ, đặng cho ta tế vong hồn Chung hậu.
Chúng tướng vâng lệnh, bày lễ vật rượu trà ra. Ngũ Tân cúng tế xong, cầm thương lên ngựa dẫn theo tám viên thiên tướng, vừa ra khỏi cửa dinh. Chung hậu thấy mặt Ngũ Tân thì cười rằng:
- Ta chào Trung Hiếu vương mạnh giỏi, có ai gia tới đây.
Ngũ Tân xem thấy Chung hậu mười phần mạnh mẽ hơn xưa thì châu mặt châu mày mà mắng rằng:
- Đồ xủ phụ, thiệt là vô liêm sỉ, mưu tâm cứu đi gạt gẫm người ta hoài, nay linh hồn đà hiển hiện về đây, thôi để vương gia làm chay cho chín bữa.
Chung hậu cười rằng:
- Ai gia có chết chóc gì đâu mà toan hòng cúng tế. Ấy là vua tôi bây quả đà trúng kế, chước ấy gọi là điệu hổ ly sơn.
Ngũ Tân nghe nói trúng kế tức thì tức giận hươi thương đâm nhầu, Chung hậu cũng đưa đưa rước đánh hơn hai trăm hiệp sức cũng cầm đồn. Chung hậu mới nghĩ rằng:
- Trong thiên hạ thì có bốn người vô địch: Ngũ Tân, Tôn Tháo, Điền Côn và ta đây thôi. Nếu ta dùng sức đánh với nó hoài thì khó bề hơn đặng, chi bằng dùng kế giết nó đi cho rồi. Nghĩ rồi bèn dừng tay lại nói với Ngũ Tân rằng:
- Chẳng cần ngồi trên ngựa hươi đao múa thương làm chi, hãy xuống ngựa đánh quyền với ta mới rõ tài cao thấp.
Ngũ Tân gật đầu, hai người bèn xuống ngựa bỏ thương, liệng đao sửa soạn đánh quyền. Chung hậu lại nói:
- Mày chịu cho tao đánh một thoi này thì mới gọi là người hảo hớn.
Ngũ Tân nói:
- Mày chịu một quyền nay ta mới gọi mày lợi hại.
Hai bên bằng lòng. Chung hậu hường cho Ngũ Tân đánh trước. Ngũ Tân nói:
- Ta đường đường là một nam tử, có lẽ đâu đi đánh trước đàn bà. Thôi đừng nói nhiều lời nữa, tao cho mày đánh trước đó.
Nguyên Chung hậu có phép ngũ lôi thần chưởng mà Ngũ Tân không hay, ấy cũng bởi số trời, Ngũ Tân chết nơi tay Chung hậu. Chung hậu bèn co tay lại, miệng niệm ít tiếng chơn ngôn, đánh chạt đại vào mặt Ngũ Tân, tức thì bể đầu té xuống chết tốt. Than ôi! Một vị Sở triều lương đống, thọ ngươn có bốn mươi chín tuổi mà bị về trời.
Khi ấy binh Sở áp lại, tư vi, Hoài Nam hầu là Bá Trình thấy Ngũ Tân chết rồi cũng múa đao định chém tới đánh Chung hậu chua đặng mười hồi đã bị một đao đứt là hai khúc. Thạch Phụng bèn nổi giận hươi thương đâm tới, bị Chung hậu lẹ tay gạt ra quá mạnh, rồi chém tới một đao trùng lên đầu, tức thì mãn đĩa huyết lưu, giây lát hồn về chín suối.
Đông Bình vương là Liêu Cái và An Phụng, Giáng Khôi lại vùa binh áp tới vây phủ. Chung hậu một mình tả xông hữu đột, ra khỏi trùng vi thẳng tuốt lên Tran Châu sơn kêu quân báo rằng:
- Hãy tâu với vua Tề có Chung Vô Diệm tới cứu giá.
Quân chánh ty lật đật vào tâu rằng:
- Quốc mãu thật là chưa chết, chúa công quả có cứu tinh, xin bệ hạ phát chỉ khai dinh, sai quan ra nghinh tiếp.
Tuyên vương nghe tâu cả mừng khấp khởi như cây khô gặp được trời mưa, liền nói với Yến Anh rằng:
- Quân sư toán que thiệt chẳng sai.
Nói rồi truyền văn võ bá quan hộ giá xuống núi nghênh tiếp.
Khi xuống tới chân núi, Chung hậu xuống ngựa quì tâu rằng:
- Thần hậu cứu giá tới chậm trễ, tội dư muộn thác.
Tuyên vương bước tới đỡ dậy, khóc mà nói rằng:
- Nếu chẳng có ngự thê cứu mạng thì trẫm đã hồn xuống suối vàng, vì quả nhân lên đâu tu tróc Vương Lăng nên mới bị Ngũ Tân vây hẫm. Tiêu Khôi giết luôn bảy tướng, trẫm đà thất phách kinh hồn. Quân sư lại nói: Ngự thê còn ở Pháp Mã thôn sẽ có ngày tới đây cứu giá.
Chung hậu lại tâu:
- Xin bệ hạ đừng lo sợ mà hao tổn mình rồng. Tiêu Khôi đã bị thần hậu giết rồi, còn Ngũ Tân cũng bị chưởng lôi đánh chết, quân Sở đã thấy tha la hết, chắc nay mai rồi cũng phải rút hết về.
Tuyên vương nghe nói cả cười, rồi vợ chồng dắt tay thẳng lên sơn trướng, vào ngồi nơi long ỷ. Bá quan triều bái xong, Tuyên vương mới thuật lại khi Chung hậu chết, Điền Côn lại phản nữa, không ai lui binh Sở, nên phải khốn thủ Sơn Lăng. Chung hậu tâu rằng:
- Vương nhi thiệ vô tâm tạo phản, bởi có lời cẩm nang của thần hậu để lại, biểu nó theo đó mà làm sẽ tới Trân Châu sơn cứu giá, như vậy mới bảo toàn được triều Tề thiên hạ, bằng không thời chết cả hai. Nay thần hậu đã gặp rồi, nó hãy  còn sát lại xông trận.
Vua tôi Tề nghe nói rất mừng, liền lạy tạ ơn trời đất và khen Chung hậu mưu kế vô song. Kế đó liền truyền bày tiệc rượu hạ công, bá quan thảy đều vui mừng hớn hở.
Nói về vợ chồng Điền Côn sát nhập trùng vi, tìm chẳng thấy Chung hậu đâu cả, trong lòng nóng này một bề cứu giá, lại không biết mẹ đi ngã nào, khắp đông tây chẳng thấy âm hao, qua nam bắc chém người như chém chuối. Tướng Sở chẳng ai địch nổi, rủ nhau đều vỡ chạy như ong, ba quân hăm hở một lòng, tám tướng anh hùng hiệp lực, đuổi binh Sở chạ ba mươi dặm, khí giới bỏ chất đống như non. Liêm Thoại Hoa bèn minh kiến thâu quân đặng lên Sơn Lăng ra mắt thiên tử.
Khi lên đến núi bèn thông báo cho quan chánh ty hay rằng:
- Vợ chồng Điền Côn đến đây lui binh Sở giải vây cứu giá.
Quân chánh ty liền vào tâu lại, Tuyên vương truyền chỉ cho nhập dinh, vợ chồng tới trước kim trướng lạy dài chịu tội tôi con tạp phản. Thiên tử nói:
- Ấy là tại ngự thê diệu toán chớ  trẫm nào có trách chi vương nhi.
Vợ chồng Điền Côn rất mừng, kế thiên tử truyền nội thị mở tiệc yến diên, bá quan thảy đều khánh hạ.
Yến Anh khi ấy bước ra tâu rằng:
- Nay ba tháng dư túc trúc Vương Lăng lắm cũng khó, bây giờ quốc mẫu đã tới đây hiệp hội rồi, xin khai phá mộ phần mà khám nghiệm hình thảo còn tươi như trước chăng?
Tuyên vương nghe nói lấy làm lạ, nhưng cũng nhận lời, bèn truyền ngự lâm quân đào lên coi quả như lời chẳng sai. Bá quan thảy đều khâm phục, vua Tề cũng khen ngợi vô cùng, thưởng tài quân sư mười lượng vàng ròng để đền ơn mưu cao toán giỏi. Tiệc mãn thì trời đã tối, ai về dinh nấy nghỉ ngơi.
Nói về Trang vương từ khi Ngũ Tân phụng mạng đi phạt Tề, thường ngày có thiệp văn dâng về, đã rõ tin vua Tề treo miễn chiến bài, hạn một tháng thì đem thi hài Chung hậu ra nộp. Trang vương thấy vậy lấy làm đắc ý, vua tôi đều hoan hỉ vô hồi. Ngày kia vừa mới lâm triều, thấy quan huỳnh môn vào báo rằng:
- Đông Bình hầu thất trận trở về còn ở trước Ngọ môn đợi lịnh.
Trang vương nghe tâu ngẩn ngơ, liền truyền chỉ cho vào, Liễu Cái tới trước Kim Loan điện khóc rống lên một hồi, nội trào chưa ai hiểu sự kiết hung, Trang vương cũng chưa thường chung thỉ, bèn hỏi:
- Có việc gì thì nói, Hầu gia khóc lóc làm chi.
Liễu Cái bèn tâu rằng:
- Từ khi giáp trận, Trung Hiếu vương vây khổn đặng Bồn Long lãnh, kế đó Long Hổ vương lại giết được bảy viên tướng Tề , Tuyên vương sợ hãi xiết chi nên viết miễn chiến bài đem ra kỳ hạn một tháng. Dè đâu Vô Diệm trá tử man thiên, vợ chồng Điền Côn lại đem binh cứu giá. Thứ nhất Tiêu Khôi xuất mã, bị Vô Diệm một đao về trời. Ngũ vương gia nổi giận mới ra binh, lại bị Ngũ lôi của Vô Diệm đấu quyền đánh chết. Còn Bá Trinh và Thạch Phụng thảy đều hồn xuống suối vàng, nay còn có một mình tôi nên tôi phải phải thâu góp binh tàn trở về trào phục tội.
Trang vương nghe nói thương tiếc khóc lóc và nói rằng:
- Than ôi! Mấy vị Sở thần như núi bị có một con xủ phụ mà hết thảy mạng vong.
Trang vương khóc lóc một hồi rồi té nhào xuống dất chết giấc. Văn võ triều thần xúm lại cứu, rờ nơi tam tiêu đà hết thở, tứ chi lạnh ngắt như đồng, sao tướng tinh Kim tý thần long đã bay về Thiên tào chầu chực. Bá quan thấy thiên tử đã băng hà liền khóc rống lên với nhau một hồi rồi sai nội thần à cung rước đông cung thái tử là Hỉ Dương ra. Khi thái tử nghe tin ai báo, lật đật tới Kim Loan điện, khóc ngất một hồi, bá quan xúm lại khuyên rằng:
- Nay tiên hoàng đã yên giấc về trời, xin điện hạ phải âu lo việc lớn.
Thái tử nguôi đoạn thảm, bá quan rước  thẳng vào nơi thiên cung, thay y quan, tắm gội xong rồi, phò lên ngai rồng ngồi giữa. Bá quan tung hô triều hạ chúc tân vương phúc thọ thiên niên, việc lên ngôi sắp đặt đã yên, lo tẩn liệm tiên hoàng nghi vệ. Lúc đó tân vương sắc sai Bộ lễ, làm chiếu văn tỏ rõ khắp thần dân, ai nấy đều quải hiếu cư tang bốn mươi chín ngày thích phục. Lại rước linh dư (quan tài) vào để nơi Bạch Hổ điện, chờ coi ngày kiết tán hoàng lăng (sách có chữ: Hàm quyết phún nhan ô tử khẩu). Bởi trước vua tôi Sở quyết đi đào thây Chung hậu, hay đâu  bị bỏ mình, đạo trời ứng báo đành rành, dục hại tha nhân tiên hại kỷ là vậy.
Đây nhắc lại Tuyên vương và Chung hậu nghỉ binh ba ngày rồi truyền lệnh ban sư trở về Lâm Tri. Nhiếp chánh vương và bá quan đều ra tiếp giá. Khi vợ chồng về tới triều, thẳng vào Kim Loan điện, bá quan triều báo xong, thiên tử truyền Đông Lộ vương tra xét kho tàng, khao thưởng cho quân sĩ. Lại sai nội thần dọn yến, vua tôi đồng sĩ lạc thăng bình. Tiệc rượu tới thâm canh mới mãn, văn võ triều thần các tán, ai lui về phủ nấy nghỉ ngơi.

Hồi thứ Năm Mươi Ba

Thủy Hoa động ,Ngô Khởi hạ sơn
Cô Tô thành Anh vương tấn bửu

Nói về Lỗ vương cầu thân chẳng đặng, đã tốn của lại thêm bị đòn, oán thù nặng tợ núi non, hằng ngày cứ lo mưu trông trả. Ngày kia Lỗ vương lâm triều, thừa tướng là Nhan Trinh xuất ban tâu rằng:
- Vô Diệm lập kế chiêu phu trá phản, các nước ai cũng đều hờn, ngu thần xin tấu với thượng hoàng phải kiếm kế lo phương trừ nó.
Lỗ vương nói:
- Trẫm với Chung Vô Diệm thề chẳng đội trời chung vì nước ta chưa cỏ kẻ anh hùng nên cắn răng mà chịu.
- Nay Lỗ Lâm chánh cung tuổi vừa hai tám, phận lửa hương chưa định duyên hài, xin chánh cung hãy kén phò mã một người, chẳng luận là quan nhân quỳ tiện. Hễ ai có văn hay võ mạnh, tới Ngọ môn yết bảng chiêu hiền, sẽ phong cho là chiêu thảo binh quyền, như vậy mới trả thù được Chung Vô Diệm.
Lỗ vương khen phải phán rằng:
- Việc ấy phú giao cho thừa tướng, vì quả nhân mà lo cho thành công, họa may có chiều lòng, chốn sơn dã cũng chẳng thiếu chi kẻ anh hùng hào kiệt.
Nhan Trinh vâng lời lui ra, thiên tử truyền bãi triều, ai lui về dinh nấy. Qua ngày sau, Nhan Trinh tới Ngọ môn cất một cái đài, trao tấm bảng chiêu hiền mà chiêu dụ thiên hạ.
Nói về núi Lạc Vân, động Thủy Hoa có một vị chí tôn lão tổ là Quản Đức tiên tử, đương khi ngồi tụng kinh Huỳnh đình, bỗng có một trận gió thổi qua quá dữ, liền xem một quẻ biết rõ Đông Tề Chung Vô Diệm ỷ có tiên pháp cao cường nên trấp áp vua các nước. Nay lại có Lỗ vương dựng bảng chiêu hiền, kén một chàng làm phò mã. Học trò ta ngày nay cũng khá, tên Ngô Khởi, đích danh võ nghệ thuần thục tinh anh, trí thức lại hơn người dưới thế, nếu cho nó hạ san, ắt hội binh trừ Chung Vô Diệm đặng. Nghĩ rồi bèn sai đồng tử đi đòi Ngô Khởi tới hầu. Đồng tử vâng mạng ra sau hậu đường nói cùng Ngô Khởi rằng: - Sư phụ có lịnh cho đòi, sư huynh chớ nên trễ nải.
Ngô Khởi nghe nói thầy đòi thì lật đật tới tam thanh đặng quì lạy thưa rằng:
- Chẳng hay sư phụ đòi đệ tử có việc chi dạy bảo chăng?
Lão tổ nói:
-Hiền đồ hãy đứng dậy, để thầy nói cho nghe. Con là người ở phủ Duyên Châu, tỉnh Sơn Đông. Từ khi mười hai tuổi thầy thâu làm đồ đệ. Đã sáu năm nay, giờ con đã trưởng thành, vậy con muốn hưởng sự thanh phước hay là con muốn sự hồng phước?
Ngô Khởi hỏi:
- Thưa thầy, làm sao gọi là thanh phước, còn làm sao gọi là hồng phước?
Lão tổ nói:
- Thanh phước là triều chơn bái đẩu, tọa ngỏa tham thiền, đói thời ăn thuốc trường sanh, khát thời uống nước suối, gởi thân cùng tòng bá, bầu bạn với cỏ hoa, hang sâu núi thẳm là nhà, toán hạc tuổi phi chưa sá kể. Còn hồng phước là mão vàng đai ngọc, cưới vợ sanh con ăn những đồ hải vị sơn trân, xe ngựa dập dìu cửa tướng.
Ngô Khởi nghe thầy nói làm thinh nghĩ rằng: như mình muốn bên thanh phước thì lấy làm cực khổ muôn phần, khó bề dưỡng tánh tu thân, mà trông sự thành chánh quả. Còn bên hồng phước thời khá, mà ngặt không dám nói ra. Nghĩ rồi bèn rơi luỵ mà thưa rằng:
- Đệ tử từ tuổi trẻ sớm mất cha mẹ, lão sư thâu dưỡng đã sáu năm nay, non cao bể rộng ấy ơn thầy, đệ tử khó trông bề báo đáp. Xét thấy phận hèn phước bạc, cũng khó bề giữ vào bậc tiên gia, ít lời khờ dại thưa qua, trăm lạy xin thầy tha tội.
Lão tổ nghe nói biết ý, bèn nói với Ngô Khởi rằng:
- Nay Lỗ vương có bảng chiêu hiền phong làm phò mã, đệ tử xuống đó thì sẽ gặp lương duyên, vả lại Lỗ vương với Vô Diệm có cừu oán như thiên, còn bổn sư cũng có một việc chẳng yên tấc dạ. Vì năm trước bổn sư công tu luyện cũng còn chưa khá, không bằng thánh mẫu Lê San, đương khi thể được du nhàn, vừa đi ngang qua Lê San động phủ, thấy có một con nữ đồng canh thủ, nó biểu ta vào ra mắt sư tôn, ai dè đâu thánh mẫu lại nói ta hý hước với nữ đồn, bắt ta ra đánh đòn bốn chục. Sự như vậy thiệt là oan khúc, ngàn năm còn ghi tạc vào lòng. Nay con Vô Diệm là học trò của bà Lê San, chờ ngày ta bắt nó rửa hờn cũng đặng. Bây giờ hiền đồ hạ san làm chức phò mã, lãnh binh quyền phò tá Lỗ vương, tới ngày sau binh năm nước đại hội nơi sông Tương thì phải bắt sống cho đặng Tề vương với Chung Vô Diệm.
Ngô Khởi nghe nói cả mừng, cúi đầu tạ ơn. Lão tổ lại khiến đồng tử vào sau hậu đường, lấy những đồ thương mã đem ra giao cho Ngô Khởi. Kế đó thầy trò phân tay từ biệt.
Khi Ngô Khởi ra khỏi cửa động, thấy những non xanh nước biếc hình như vẽ, cỏ tốt hoa tơm kiểng tự nhiên, oanh kêu cụm liễu huyên thiên, gió thổi chòm lau phơ phất. Cũng có chỗ non cao chất ngất, lại có nơi đá lối ghập ghềnh, mấy ngày mấy đêm gió mát trăng thanh, đã ngó thấy Lỗ thành trước mắt. Bèn xuống ngựa vào nơi quán dịch, để liệu bề cơm nước nghỉ ngơi, tới canh hai ăn uống xong rồi,Ngô Khởi mới nằm nghe thương khách trò chuyện. Thiệt quả y như lời thầy dặn, mới tin tài lão tổ thần thông, may gặp thời cá hóa ra rồng, cho bõ công mấy năm rèn tập. Một đêm đó nằm không yên giấc, chờ sáng ngày tới đó thử xem.
Rạng ngày đầu canh năm nhà quán thức dậy, bộ hành ai nấy tính tiền cơm nước vừa rồi. Ngô Khởi cũng thức dậy, liền ngồi kêu tiểu nhị lại trả số tiền sở phí. Giây lát cầm thương lên ngựa đi ra giữa đám đông người, thấy những hàng công tử vương tôn, áo quần đủ mỗi người năm sắc. Còn những kẻ hành quân thương khác, cũng tới lui người chật trong ngoài. Ngô Khởi lướt tới một hơi, thiên hạ xem đều khiếp vía. Vì Ngô Khởi là sao Thiên hà giáng thế, lại thêm võ nghệ tiên gia, hai cánh tay sức mạnh ngàn cân, có ai dám chen vai cho lại.
Khi Ngô Khởi tới giữa ngã tư, thấy một vị khâm sai ngồi giữa, phía ngoài có treo một tấm bảng văn, lại gần thấy mấy lời như vầy:
Ngôi trời dấy vận, trẫm là Lỗ vương có lời chiếu dụ bốn phương, chẳng luận giàu sang đói khổ, với các công tôn vương tử, cùng những người tam giáo cửu lưu. Nay trẫm có một người con gái đầu, tên là Lỗ Lâm chánh cung, tuổi vừa hai tám còn thơ ấu, tam tòng chưa định duyên hài bây giờ trẫm muốn kiếm một người văn võ toàn tài, phong làm chức đông sàng phò mã. Trẫm giao cho binh quyền thiên hạ, để ra tài phò tá giang san, ví như cột đá chống trời, cầu vàng qua biển. Kính thay mấy lời, chớ phụ ý trẫm.
Ngô Khởi xem xong lấy bảng để xuống. Quân giữ bảng thấy dắt vào ra mắt thừa tướng Nhan Trinh. Ngô Khởi tới thi lễ xong xuôi, thừa tướng bèn hỏi:
- Chẳng hay tráng sỉ tên họ là gì và quê quán ở đâu?
Ngô Khởi cúi đầu thưa hết lai lịch cho Nhan Trinh nghe một hồi, rồi Nhan Trinh nói:
- Việc này ta không dám tự chuyên, phải vào ra mắt thiên tử mới đặng.
Nói rồi truyền quân dọn kiệu và dắt Ngô Khởi  đi theo vào trước Ngọ môn, biểu Ngô Khởi ở ngoài mà đợi lịnh. Rồi thẳng vào Kim Loan điện, triều bái Lỗ vương và tâu rằng:
- Nay có một người họ Ngô tên Khởi, tuổi vừa mười tám thanh xuân, vốn người ở tại nước mình, học trò của Chí Tôn lão tổ.
Lỗ vương hỏi:
- Người ấy bây giờ ở đâu?
Nhan Trinh tâu:
- Còn đợi lịnh ở trước Ngọ Môn.
Lỗ vương truyền lịnh cho vào, Ngô Khởi bước tới Kim Loan điện triều bái tung hô. Lỗ vương xem thấy hình dung đúng đắn, diện mạo khôi ngô, thiên đường đầy đặn, lại môi son địa các vuông tròn, thêm mặt trắng, đầu bịt khăn chữ nhứt, mình mặc đạo phục sắc huỳnh. Xem xong rồi khen thầm: "Thiệt đáng mặt tiên gia đệ tử". Khen rồi mới phán hỏi rằng:
- Tráng sĩ có nghề nghiệp chi, mà tới đây ra mắt quả nhân vậy?
Ngô Khởi tâu:
- Tôi đã sáu năm học đạo, nay thầy tôi mới dạy hạ san, những là võ nghệ thập bát ban, với tam lược lục thao đều làu thuộc.
Lỗ vương hỏi:
- Trong thập bát ban võ nghệ, tráng sĩ sở trường món chi?
Ngô Khởi tâu:
- Thương pháp của tôi là bậc nhứt.
Lỗ vương hỏi:
- Bây giờ có đây hay không?
Ngô Khởi tâu:
- Vật ấy vẫn còn để ở Ngọ môn.
Lỗ vương truyền cho Huỳnh môn quan ra lấy đem vào rồi phán rằng:
- Trẫm muốn coi thương pháp của tráng sĩ thử biết hay giỏi ra thế nào?
Ngô Khởi vâng lịnh cầm thương lên ngựa, múa cách Cơ hổ cầm dương (cọp đói bắt dê), bốn cửa tám phương đều có thứ lớp. Trước khi mở ra tam lộ, kế đó tam tam như cửu, sau lại cửu cửu hoàn quy bát thập nhứt lộ, khi như chim đại bàng xoè cánh, khi như mãnh hổ lìa rừng, có khi như chim ngọc nữ đưa thoi, có lúc giống rồng xanh lấy nước. Ngọn thương nghe qua vùn vụn, trước sau nào thấy rõ mặt người. Lỗ vương đẹp ý bèn cười, văn võ triều thần thảy đều khen ngợi.
Ngô Khởi thi võ rồi xuống ngựa, lại đi thẳng tới điện Kim Loan, Lỗ vương lại phán hỏi rằng:
- Thương pháp thiệt là thần diệu, còn văn tài chưa biết thể nào?
Nói rồi bèn truyền nội thị lấy văn phòng tứ bửu đem ra. Ngô Khởi tiếp lấy ngồi viết một hơi những là việc ở trong binh pháp, chỗ nào thời nên mai phục, chổ nào dùng được chiến tranh, thiên thời địa lợi rành rành, cuộc thắng bại hình như trước mắt. Viết rồi dâng lên cho vua xem, Lỗ vương xem qua cả đẹp và phán rằng:
- Nay trẫm phong cho tráng sĩ làm chức phò mã, giữ binh quyền sử trị nước nhà.
Ngô Khởi cúi đầu lạy tạ, kế nội thần dẫn qua bên thiên cung thay đổi đồ triều phục. Lỗ vương bèn truyền nội thị vào cung đòi công chúa ra. Công chúa cũng lật đật sửa soạn cung trang, theo nội thị thẳng tới Kim Loan điện triều bái. Lỗ vương thấy công chúa tới rất vui mừng, cười và thuật hết trước sau: công chúa tâu rằng:
- Việc hôn nhân tại quyền vương phụ, thần nhi đâu dám cãi lời.
Lỗ vương biết con mình đã đành dạ, bèn truyền cho quan Tư thiên giám coi ngày. Tư thiên giám vâng lệnh lui ra, giây lất trở vào tâu rằng:
- Bữa nay là ngày Thanh long huỳnh đạo, thiết tốt vô song. Sách lịch gia có nói việc vợ chồng, Thanh long là chủ về hỷ sự.
Lỗ vương cả đẹp, bèn mời Ngô Khởi lên báu điện mà phân tỏ một đôi lời. Lúc đó hai người ngó nhau, kẻ liếc qua người liếc lại, nam tài nữ sắc, hai bên đã thích nhau rồi, sự hôn nhân cũng tự nơi trời, mới rõ biết hữu duyên thiên lý năng tương ngộ. Lỗ vương kịp truyền về Lễ bộ, bày hương án cho hai vợ chồng đảo cáo đất trời. Xong rồi vào lạy tạ Lỗ vương. Thiên tử mới truyền lệnh cho nội thần dọn bày yến tiệc.
Đương lúc rượu được vài tuần, thừa tướng Nhan Trinh đứng dậy nói rằng:
- Nước mình có thâm cừu với Chung Vô Diệm. Nay có phò mã xin mau phải lo kế phục thù, chọn ngày lành đi mãi mã chiêu binh, chẳng sớm muộn bắt cho đặng con xủ phụ mà phân thây xẻ thịt.
Nói rồi liền rót ba chung ngự tửu đưa cho Ngô phò mã. Ngô Khởi tiếp lấy cám ơn uống liền, rồi rót một chung lạy tạ ơn thừa tướng. Bá quan ai cũng cũng mừng bá niên giai lão, loan phụng hoà minh. Tiệc vừa mãn thì đêm đã quá canh, văn võ ai về dinh nấy. Còn vợ chồng phò mã cùng về bên Túy hoa cung, tưng bừng tiếng nhạc, vầy tiệc động phòng, người phỉ dạ giường ngà nệm ngọc, kẻ thương yêu võ mạnh văn hay, thoát thôi tay lại cầm tay, hải đường giấc ngủ càng say xuân tình. Tiêu lầu trống đã trở canh, vợ chồng sửa soạn đồng hành tạ ơn.
Nói về Lỗ vương lâm triều, bá quan triều bái xong rồi, kế thấy vợ chồng phò mã tới tạ ơn. Thiên tử truyền nội thần dọn yến, kế công chúa xin lui về cung. Thiên tử nhận lời, giây lát nội thị dọn tiệc dâng lên, vua tôi yến lạc vui vầy. Đương khi ấy, Lỗ vương thở ra một tiếng mà rơi lụy dầm dề. Ngô Khởi liền đứng dậy tâu rằng:
- Chẳng hay vương phụ có sự chi mà buồn rầu long thể?
Lỗ vương mới thuật lại sự Vô Diệm cải giá chiêu phu, cho tới lúc mình bị đánh đòn bốn chục. Ngô Khởi nghe qua hét lên một tiếng và nói rằng:
- Nếu vậy con xủ phụ thật là bất nhân bất nghĩa, dám làm sỉ nhục tới vua các hầu bang, tôi quyết đem binh tới phủ Hằng Xương, bắt nó mà phân thây xẻ thịt. Vả lại lúc hạ san thầy tôi có dặn, con xủ phụ này là đứa cừu nhân, nay tôi đã mong nhờ quốc lộc quốc ân, dầu gian hiểm cũng liều thân báo đáp.
Lỗ vương cả mừng bèn ban cho phò mã một cây thượng phương bảo kiếm và một cây lệnh tiễn, đặng phép đi chiêu binh lo đền nợ nước. Kế đó Lỗ vương truyền bãi triều, bá quan ai lui về dinh nấy. Còn Ngô Khởi về phủ rồi thẳng tới giáo trường, kéo cờ chiêu quân hằng ngày thao luyện quân sĩ, tích thảo đồn lương, chờ chọn được tháng tốt ngày lành sẽ hưng binh báo oán.
Đây nói về Anh vương nước Ngô, từ khi nghe Chung hậu phản Tề lên núi Tuý Bình sơn dựng cờ chiêu phu mà gạt vua nước Lương và nước Lỗ, sau lại giả chết gạt vua tôi nước Sở mà giết Tiêu Khôi và Ngũ Tân, bấy lâu trong lòng cứ căm giận Chung hậu hoài mà chẳng nói ra. Ngày kia lâm triều, bèn đòi một vị nguyên soái lên đền mà phán rằng:
- Tề quốc ỷ mạnh khi chư hầu, làm sỉ nhục tới các vua, trẫm bấy lâu muốn vì hai nước mà rửa thù, ngày nay khanh có kế chi hay thì phân qua nghe thử?
Nguyên soái tâu:
- Không có chi mà dấy động binh đao e có sự chẳng lành. Vậy sẵn hôm nay đây bên Tây vực, nước Ngưu Đề có đem hiến cống ta một trái hồ lô rất lớn,, nặng ước mấy trăm cân, không biết là bao nhiêu hột. Vậy sẵn cớ ấy bệ hạ sai người đem qua bên Đông Tề, đó nó nói cho được bao nhiêu hột ở trong, như mà nó nói trúng thì khỏi sự chiến tranh, nếu nó nói chẳng nhằm gì thì ta sẽ hưng binh chinh phạt.
Ngô vương nghe phải, khen hay, bèn kêu bá quan mà hỏi rằng:
- Có ai vì ta mà chịu nhọc, đem hồ lô qua sứ Đông Tề chăng?
Anh vương vừa dứt lời, có một vị bước ra lãnh mạng. Anh vương xem lại người ấy tên là Nhung Trị Quốc, chức thượng đại phu. Anh vương cả mừng mà rằng:
- Khanh và hai sứ Ngưu Đề quốc đem dâng hồ lô tới cống cho Tuyên vương, tiền phi lộ trẫm cấp cho mười đỉnh vàng, hãy tới phủ Hằng Xương cho chóng.
Nhung Trị Quốc tạ ơn lãnh mạnh lui ra cùng hai người sứ nước Ngưu Đề, một người tên là Tát Ma, một người tên là Bật Côn. Ba người cũng đều đều sửa soạn xong rồi truyền quân khiêng hồ lô theo, chỉ thẳng tới kinh thành Lâm Tri tấn phát.
Khi Nhung Trị Quốc tới nước Tề liền vào thẳng trước Ngọ môn, may nhằm lúc Tuyên vương lâm triều, quan huỳnh môn vào tâu rằng:
-  Nay có sứ thần nước Ngô đem báu vật tới cống, người còn ở ngoài đợi lệnh.
Tuyên vương truyền chỉ cho vào, Nhung Trị Quốc và hai người sứ thần nước Ngưu Đề tới trước Kim giai, triều bái xong. Tuyên vương hỏi rằng:
- Vua ngươi sai tới đây tấn cống vật gì?
Nhung Trị Quốc tâu:
- Nước tôi nghèo, nhỏ, chẳng có vật chi là quý. Mới đây nước Ngưu Đề sai sứ đem sang một trái hồ lô nặng ước đặng mấy trăm cân, nay vua nước tôi mến bệ hạ đại đức đại nhân, nên sai tôi đem tới đây tấn cống. Còn hai sứ này và lại người Ngưu Đề quốc, đã biết trong ruột hồ lô có hột bao nhiêu. Xin bệ hạ, nếu có ai nói đặng thì nước tôi sẽ thường năm tấn cống. Nếu như thuợng quốc nói không nhằm thì nhường hạ bang lên làm bực thượng.
Tuyên vương hỏi:
- Vậy trái hồ lô bây giờ ở đâu?
Nhung Trị Quốc biểu hai người sứ đưa trái bầu lớn bằng cái giỏ, ngoài da đủ năm sắc tốt tươi. Tuyên vương xem kỹ một hồi, mới biết vật ấy dưới đời ít có, bèn phán rằng:
- Trẫm nghe trái hồ lô này ước năm trăm hột phải chăng?
Hai người sứ Ngưu Đề tâu rằng:
- Muôn tâu bệ hạ thật không nhằm.
Tuyên vương mới hỏi triều thần, ai muốn nói thì cho phép. Lúc đó Điền Côn nói:
- Chín đấu ba thăng.
Mạnh Đại Hiền nói:
- Một muôn ba ngàn hột.
Lưu nguyên soái nói:
- Một ngàn sáu trăm bốn mươi ba hột.
Điền Uông nói:
- Chín trăm tám mươi ba hột.
Điền Văn nói:
- Chừng hai trăm hột.
Còn Yến Anh nói:
-Mười hai hột.
Sứ Ngưu Đề liền tâu rằng:
- Bá quan đều nói trật hết.
Tuyên vương cả buồn, ngồi ngẫm nghĩ giây lát, bèn sai nội thị vào cung thỉnh Chung hậu ra. Chung hậu nghe nói có chỉ triệu thì cũng lật đật lâm triều. Tuyên vương mới thuật hết các việc, Chung hậu bèn tâu rằng:
- Việc đó chẳng khó chi, thần hậu không xem cũng đã biết. Xin đòi sứ thần lên điện, thần hậu nói cho nghe.
Tuyên vương cả mừng, truyền chỉ cho đòi ba sứ tới trước kim giai, triều bái Chung hậu. Chung hậu nói:
- Sứ thần tuy là đem trái hồ lô tới đây, nhưng cũng chưa rõ gốc tích của nó ra làm sao, để ai gia phân lại tỏ tường cho ba sứ nghe. Vả chăng trái bầu ấy tại xứ Tây Vực nước Ngưu Đề, có một hòn núi tên là Hồ Lô sơn cao hơn ba mươi trượng. Lúc trước bà Lê San thánh mẫu tới núi Lạc Già sơn mà yết Phật chí tôn. Khi đi ngang qua núi Hồ  Lô, nhằm lúc tiết tháng ba, khí trời mát mẻ, cây cỏ tốt tươi, người mới hứng chí xem chơi biết rằng: Ngày sau mười nước tranh hùng, ắt có sự đại thương hòa khí. Bởi vậy cho nên người mới thò vào tay áo, lấy ra một hột hồ lô, bỏ lại trên núi ấy rồi đòi thổ địa thần đến dặn: Phải ngày đêm canh giữ, còn thần Công tào trực nhựt thì săn sóc vun trồng, tới năm đã có hơn ba trăm năm dư, nó mới lớn được như vậy. Trên đầu có hào quang năm sắc (đủ kim mộc ngũ hành), bên hông tám phía đành rành (tượng càn khôn bát quái), nơi gần cuống có bốn chữ “thiên tàng chi báu”. Trong ruột đủ nguyên hình mười hai nước hầu bang. Khi vua Ngưu Đề dạo ngang qua núi đó thấy có ánh hào quang sáng chói, mới sai người lên hai coi, rồi lại đem qua mà làm hại nước Ngô người. Ai gia đã biết rõ thiệt trong trái hồ lô này chỉ có âm dương hai hột mà thôi. Một bên có bảy lằn bạch khí, còn một bên có năm lằn hắc khí rõ ràng, đó là tướng tinh của các nước quân vương, bởi vận số nước còn nước mất. Nếu chẳng tin ai gia nói là thật, thì sẽ xem ta chặt nó ra làm hai cho coi.
Chung hậu nói rồi thì hai người sứ nước Ngưu Đề cúi đầu lạy lia lạy lịa, khen ngợi rằng:
- Nương nương huệ nhãn thần thông, thiệt tiên gia pháp lực vô song, chớ chẳng phải người phàm biết đặng.
Còn Nhung Trị Quốc thấy sứ nước Ngưu Đề đã khâm phục Chung hậu rồi thì đầy mình mồ hôi, mà cũng lấy chi làm chắc. còn Tuyên vương và nội triều văn võ thảy đều mừng rỡ. Chung hậu bèn cầm gươm bước xuống, chém trái bầu đứt ra làm hai. Quả y như lời đã nói, chẳng sai một chút nào, hột bên dương bay bổng lên cao, hóa ra bảy đạo bạch khí tường quang bay mất. Trong bảy đạo tường quang bay mất đó là tướng tinh vua Tề, Vệ, Sở, Hàn, Triệu, Ngụy và Tần. Còn hột bên âm năm luồng hắc khí là tướng tinh vua nước Tống, Ngô, Lỗ, Tấn và Lương.
Khi Chung hậu chém xong trái hồ lô rồi, thấy rõ ràng như vậy thì biết rằng chẳng bao lâu đại hội Tương giang một ngày giết luôn năm con rồng và là tướng tinh của năm nước đó. Ấy cũng bởi số trời đã định nên thất hùng giành định hơn thua, phần mình sao cứ mãn địa thì đua, chẳng có lúc nào được thong thong thả. Khi đương ngẫm nghĩ, lại thấy Nhung Trị Quốc bước ra tâu rằng:
- Ngô thần bị ở tại cô lậu xứ nên chẳng hay rõ biết sự đất trời, xin Nương nương dạy bảo một hai lời, bao nhiêu trượng trời cao đất rộng.
Chung hậu nói:
- Ai gia chẳng có học thiên văn địa lý, làm sao biết được việc đất trời. Thôi! Bây giờ hãy nói về việc ngươi, vậy chớ mình gã đó nặng bao nhiêu cân lượng.
Nhung Trị Quốc nói:
- Người ta nhờ phụ tinh với mẫu huyết, được thành hình thập nguyệt hoài thai, xưa nay ai có cân người mà biết bao nhiêu nặng nhẹ.
Chung hậu nói:
- Ấy tại nhà ngươi sanh tệ, chớ trách ai gia ở dạ bất nhân. Cái đầu nhà ngươi có chín cân bốn lượng, chẳng tin cắt ra rồi rõ biết.
Chung hậu nói vừa dứt tiếng, bèn kêu Trị điện tướng quân bảo dẫn ông đại sứ ra pháp tràng xử trảm. Trong giây lát, quan Trị điện đã dâng thủ cấp của Nhung Trị Quốc lên, hai sứ Ngưu Đề mặt xanh như tàu lá. Chung hậu nói:
- Ai gia chẳng có nói quấy, hãy đem ra cân thử mà coi.
Trị điện quan đem cân ra. Quả thật là chín cân bốn lượng. Bá quan cả thảy đều thất sắc, sứ thần thấy vậy cũng kinh hồn. Chung hậu lại truyền đem sứ kia ra đánh đòn, mỗi người bốn chục. Tát Ma và Bật Côn đều rên siết, bị đánh rồi xúm nhau lạy tạ. Chung hậu lại bảo:
- Về nói với Ngô Anh vương mau mau viết biểu hàng đưa  qua tấn cống.
Hai người cúi đầu vâng mạng, lui về một nước. Việc rồi bãi triều, Chung hậu về Chiêu Dương cung bá quan thảy đều vui mừng, đồn kéo về phủ an nghỉ.
Nói về Tát Ma và Bật Côn khi ra khỏi kinh thành nước Tề rồi, đêm nghỉ ngày đi, dầm mưa dãi nắng, chẳng mấy chốc nữa đã tới kinh thành Cô Tô nước Ngô vào tâu lại các sự cho Ngô Anh vương hay. Anh vương nổi giận mắng rằng:
- Con xủ phụ thiệt vô lễ, dám cả gan chém sứ ta. Phen này quyết bắt cho được, đặng trả thù cho Nhung Trị Quốc.
Nói rồi bèn cho hai sứ trở về nước và viết thơ ai đi chiêu mộ hùng binh, đêm ngày thường thao luyện tập tành, đặng đợi binh các nước.

Hồi thứ Năm Mươi Bốn

THÀNH CÔ TÔ NĂM NƯỚC HỘI BINH
SÔNG TƯƠNG GIANG, SÁU SOÁI TIẾP VIỆN

Nói về Lỗ vương từ khi nạp Ngô Khởi làm phò mã tới nay, hằng ngày chiêu binh mãi mãi đặng tính việc báo thù, nay thấy thơ của Ngô vương tới hẹn hưng binh mà trừ Chung Vô Diệm, bèn đòi phò mã tới biểu:
- Truyền sáu chục muôn binh ròng, chờ ngày hiệp lực giao công, phải bắt cho được vợ chồng Chung hậu.
Ngô Khởi tuân lệnh thẳng tới giáo trường tuyển binh, còn Lương vương cũng nóng việc báo thù, ngặt vì một mình thế cô nên chưa dám thổ lậu binh cơ. Nay tiếp được thơ Anh vương đưa tới, trong bụng mừng khấp khởi như chim thêm cánh, cá thêm vi, bèn đòi nguyên soái Thách Anh tới phân tỏ sự ấy, rồi biểu:
- Phải mau chiêu tuyển hùng binh sáu mươi vạn.
Còn Tần vương từ ngày Chung hậu luồn đặng hột cửu khúc minh châu và khắc thơ vào mặt sứ thì thường bữa lo buồn, không biết tính phương kế chi mà rửa hận. Nay cũng tiếp đặng biểu văn của Anh vương cáo cấp, liền phúc thơ lại và lật đật hưng binh.
Còn Tống Nguyên vương đối với Chung hậu không thù oán nhưng nghe Chung hậu làm những  điều vô lễ nên đem dạ bất bình, muốn cùng nhau một chuyến tử sinh, cho rõ mặt oanh oanh liệt liệt. May đâu có biểu văn của Anh vương vừa tiếp, bèn mừng thầm vì có dịp hưng binh, liền truyền cho Tân Báu đại tướng quân và bảo rằng:
- Mau điểm hùng binh sáu chục vạn, trước là giúp các nước trả xong thù oán, sau giết được Chung hậu mới ngồi yên. Tướng quân khá tua chịu phiền, sách có chữ:
“Kiến nghĩa bất vi vô dõng”.
Đây nhắc lại Long vương nước Triệu đã gả em gái của Liêm Pha cho Điền Côn, Triệu với Tề hòa hảo nhứt môn, chẳng có điều chi xích mích. Còn Chiêu vương Yên quốc, nhờ có Chung hậu thâu phục đặng phản thần, Chung hậu với Yên Đơn công chúa đã kết tình thâm, không lẽ lại đem ơn mà trả oán. Bởi cớ ấy nên nước Yên và Triệu không ai chịu giúp Anh vương, liền viết phục thơ cho Sứ thần, khiến mau đem về nước.
Nói về Hiếu vương nước Tần, Nguyên vương nước Sở, Hưu vương nước Hàn, Hưng vương nước Ngụy, thảy đều nhận được biểu văn cáo cấp của Anh vương, bốn vua còn đang lưỡng lự chưa biết tính lẽ nào mà thi kế, bỗng có các vị trung thần tới can gián. Bốn vua đều nghe lời, giao biểu văn lại cho Sứ thần, bảo:
- Trở về Cô Tô lập tức.
Ngày kia Anh vương lâm triều, Huỳnh môn quan vào tấu:
- Có mười vị khâm sai đã về tới, còn ở trước Ngọ môn đợi lịnh.
Anh vương cho vào. Mười vị khâm sai đến trước kim giai, triều kiến xong rồi dâng thơ các nước lên trình Anh vương. Anh vương xem rồi biết có bốn nước sẵn lòng giúp mình mà thôi, bèn truyền lịnh cho Phi Long, Phi Hổ, làm chức tả, hữu giám quân, Phi Hùng, Phi Báu làm chức thống chế và bảo:
- Dọn dẹp Tương giang địa thế mà tiếp rước bốn vị hầu vương.
Nói về bốn vị hầu vương đã có tờ chiếu hội với nhau trước nên đồng một ngày khởi binh, tới thành Cô Tô, kẻ trước người sau, cách chừng ba chục dặm an dinh hạ trại. Quân thám tử chạy về phi báo, quan Huỳnh môn tâu lại vua hay. Anh vương truyền nội thị sửa dọn kiệu xa, thẳng tới vương dinh tiếp rước. Kỳ bài quân của các nước vào tâu lại cho mấy vị vương hầu hay. Bốn vua đều hỷ lạc hân hoan, gặp nhau hiệp mặt vầy đoàn, kế đó Anh vương rước về thanh đãi yến.
Năm vua ngồi chung nhau trò chuyện, ai cũng căm giận Vô Diệm hành hung, nên ngày nay hiệp lực gia công, quyết trừ cho đặng con Chung xủ phụ. Anh vương nói:
- Như nước nào bắt đặng Chung Vô Diệm thì địa phận Tề sẽ giao cho anh nhứt thống.
Bốn vua đáp rằng:
- Việc này công khó tại nơi vương huynh, xin nhường cho anh nhứt thống.
Đang uống rượu đặng vài tuần, năm vị vương hầu mới bàn cùng nhau rằng:
- Tướng tại mưu bất tại dõng, binh quý tinh bất quý đa, nay năm nước hiệp binh, tính có hơn ba trăm vạn người mà con xủ phụ là một con pháp thuận vô cùng, vậy mình cũng làm sao kiếm cho đặng một người tài trí kiêm toàn mới thống lĩnh năm đạo binh Tương giang thì chúng ta mới khỏi lo bề sai thất.
Năm vua luận rồi bèn truyền lịnh cho quân chánh ty năm nước rao rằng:
- Từ thống binh cho tới du kích, nếu ai có tải trí chi mà bắt được Chung Vô Diệm thì đặng phép tới ra mắt năm vua, chức thống lãnh tức thì ban cho, cầm binh quyền ở trong năm nước.
Rao rồi giây lát có một vị tới xin ra mắt, đặng tỏ bày các việc quân cơ. Năm vua xem thấy ngẩn ngơ, người sao mình cao một trượg, râu mọc năm chòm, má phấn môi son, mày tằm mắt phụng, thiệt là đường đường hảo hớn, chớ chẳng phải một tay tầm thường. Anh vương coi kỹ cả mừng bèn hỏi rằng:
- Tráng sĩ tới ra mắt anh em ta, có việc chi hãy phân nghe thử?
Người ấy bước tới triều bái và tâu rằng:
- Tôi là người tỉnh Sơn Đông chức phò mã Lỗ vương, họ Ngô tên Khởi, xin chư vị đại vương tha tội.
Anh vương nói:
- Vương huynh miễn lễ, có mưu chi hay hãy nói cho nghe.
Ngô Khởi tâu:
- Tôi có một vị sư phụ, bây giờ ở tại núi Lạc Vân sơn, tên gọi là Chí Tôn lão tổ. Người thiệt vô cùng pháp lực, vả lại có cựu thù với Lê San thánh mẫu, người đã sẵn lòng xuống giúp Ngũ đại vương, thời diệt trừ Chung Vô Diệm như trở bàn tay. Thôi bây giờ xin ngũ đại vương đốt hương đảo cáo, trong giâu lát sẽ có người tới đây tức thì.
Năm vị hầu vương nghe nói cả đẹp, liền truyền quân đặt bàn hương án, đốt trầm xông hương rõ ràng lên. Ngô Khởi bước lại đứng van vái trước, năm vị vương cũng quỳ xuống thành tâm cầu nguyện. Lễ cảm ứng thiệt là linh hiển, tấm lòng thành thấu tới chín tầng mây. Đưong khi lão tổ ngồi trên bồ đoàn, thinh không bỗng liền nháy mắt, bèn dùng pháp nhãn nhìn xuống liệt quốc, thấy năm vị vương thành ý khẩn cầu, bèn nghĩ lại: Mình cũng có tư thù, thôi quyết xuống đó bày mưu lập kế. Nghĩ rồi liền kêu đồng tử dặn dò giữ động và lấy những pháp bửu tùy thân, rồi cưỡi con Mai hoa lộc đằng vân bay xuống.
Khi tới nơi đến trước quân môn, nói với quân giữ cửa rằng:
- Có lão tổ ở Thủy Hoa động tới.
Quân vào tâu cho năm vị vương hay, năm vua cả mừng liền kêu Ngô Khởi đi theo, ra trước quân môn nghênh tiếp. Hai đàng gặp nhau chào mừng, năm vua bèn liếc xem thấy lão tổ đầu đội đạo quang, mình mặc huỳnh nhung, miệng có bốn cái nanh dài, sống mũi thì ba lỗ, tóc tai bờm chờm như ổ quạ, miệng tỏa loa giống cái hỏa lò, mình cưỡi con Mai hoa lộc rất to, tay cầm cây côn Ngô kim quá lẽ.
Năm vị vương xem rồi bèn rước lão tổ vào dinh, phân tân chủ mà ngồi. Năm vị vương thưa rằng:
- Anh em tôi tài hèn đức bạc, lại thêm nóng chí phục thù, bởi cớ ấy cho nên Ngô tướng quân ra ơn điểm chỉ, anh em tôi mới biết mà thành tâm khấn nguyện, nên lão tổ mới xuất sơn hạ giới tới đây. Vậy xin dám hỏi lão tổ đạo hiệu là chi? Xin nói cho anh em tôi tường ảo lý.
Lão tổ nói:
- Bần đạo pháp hiệu là Chí Tôn, tên xưng Quảng Đức tiên tử. bởi bần đạo cũng có ý giận con xủ phụ, nó ỷ có pháp thuật mà hiếp người, nên bần đạo mới tới đây, vì mấy vị vương ra tay giúp luôn thể.
Năm vị vương hỏi:
- Lão tổ có kế chi bắt Vô Diệm, xin chỉ bảo cho anh em tôi hay.
Lão tổ nói:
- Nếu bần đạo không có pháp lực thì không dám hạ san, xin năm vị vương cứ bình an để bần đạo bắt Vô Diệm rồi sẽ biết.
Năm vị vương mừng rỡ khôn cùng, ấn phong cho lão tổ làm hộ quốc quân sư, được phép điều khiển binh mã năm nước. Lão tổ cúi đầu tri tạ, kế bày tiệc chay. Ngô Khởi đứng hầu rót rượu. Lão tổ nói:
- Nay binh mã năm nước ba trăm vạn có lẻ, mà Cô Tô đất hẹp muôn bề, bởi chỗ này không phải chỗ đồn binh bố trận đặng, vậy phải kéo hết tới đất Tương giang, thiệt là chỗ đất rộng muôn ngàn, thật dễ làm chỗ để điều binh khiển tướng. Nay ngày huỳnh đạo rất xinh, vậy phát lịnh dời binh kẻo trễ.
Anh vương nói:
- Cô gia cũng định chỗ ấy nên sai người đến dọn dẹp nay đã hoàn thành rồi. Vậy xin bốn vị vương huynh hãy vâng lời, đều tề tựu hưng binh tấn mã.
Nói rồi năm nước đều bạt trại khởi hành, chẳng bao lâu đã tới đất Tương giang. Binh năm nước đều an dinh hạ trại, bá tánh hết thảy đều kinh hãi hồn bay, binh đóng bảy trăm ba mươi dặm dài. Lão tổ bấy giờ mới thăng trướng nói với năm vua rằng:
- Nay cũng đã gần tới tiết Đoan dương cạnh độ (là đua ghe), xin truyền cho quan tổn trấn đặng hay, phải gắng công y kế đặt bày, sắm một muôn chiếc long châu lập tức. Rồi sai người tới phi tin đái nhựt, tới Lâm Tri mời cho đặng vợ chồng Tề vương, xin mau mau tới hội sông Tương, coi đua ghe nhiều đường tiêu khiển. Như nó bằng lòng đi đến ắt là mạng hiểm thế nguy, một mình nó chẳng có sá chi, dễ như bắt chim trong lưới.
Anh vương nghe nói rất đẹp, khen kế ấy hay vô cùng, liền sai Phi Quế chẳng luận ngày đêm đưa biếu tới dâng ngay cho Tề chúa. Phi Quế cúi đầu vâng tạ rồi cầm biểu văn mau qua Đông Tề.
Khi Phi Quế đi tới Lâm Tri ở trước Ngọ môn đợi lịnh. Quan huỳnh môn vào tâu cho vua Tề hay, Tuyên vương cho vào. Phi Quế đến trước kim giai triều bái và dâng biểu lên cho vua xem. Tuyên vương mở biểu thấy có mấy câu thơ như vầy:


Thành Cô Tô Ngô vương trăm lạy,
Kính dâng cùng Hỗn Hải Tuyên vương.

Bấy lâu trộm liếc dung quang,
Tiếng Chung hậu vang danh như mõ.
Nay gặp tiết Đoan dương canh độ,
Tiểu bang đã sắm sửa đua bơi.
Mời thượng bang Quân, Hậu tới chơi,
Yến Anh cùng mọi người đều tới.
Cuộc hỷ lạc xin đừng từ chối,
Tiếng anh em ân ái bấy lâu.
Tống, Lương, Lỗ cũng theo sau,
Đều phó hội vua hầu tiệc rượu.

Tuyên vương xem rồi cả kinh và nghĩ rằng: Vì việc chém sứ mà gây nên họa hoạn, bởi cớ ấy nên Ngô vương mới cho mời qua phó hội Tương giang. Như năm xưa phó hội Kỳ Bàn, ắt đến đỗi sanh dân đồ thán. Nghĩ rồi bèn kêu Yến Anh mà hỏi rằng:
- Nay Anh vương thỉnh trẫm và quốc hậu tới Tương giang coi hôi đua bơi chơi, việc nên chăng. Trẫm hỏi một lời, sự hiệp hội nhiều nơi tai họa.
Yến Anh tâu:
- Việc ấy tự nơi bệ hạ, xin hãy mời quốc mẫu tới bàn coi tấn thối lẽ nào?
Thiên tử liền truyền cho thỉnh Chung hậu vào triều nghị sự. Chung hậu nghe có chỉ triệu liền bấm tay biết rõ kiết hung, liền theo nội thần thẳng tới ngai rồng, Tuyên vương thấy vội vàng tiếp rước rồi thuật lại sư Anh vương sau trước, mời qua chơi yến lạc Tương giang, vợ chồng đều vầy hiệp một đoàn, Yến Anh và Điền Côn thảy đều đủ mặt. Sự nên chăng trẫm chưa kể chắc, mới cho mời ngự thê tới tính việc hơn thua.
Chung hậu nghe nói chẳng tâu mà nghĩ thầm rằng: "Nếu Ai gia chẳng tới Tương giang, thì làm sao gồm thâu năm nước cho đặng. Thà chịu tội xứ người làm quỷ, chẳng hơn để tiếng người cười về sau."
Nghĩ rồi bèn tâu rằng:
- Anh vưong đã thành tâm tới thỉnh, thần hậu xin bảo giá phó hội Tương giang.
Yến Anh nghe nói thất thanh vội bước ra tâu rằng:
- Nay Tương hội có đủ binh năm nước, e khi có việc chẳng lành.
Chung hậu nói:
- Năm nước đã có một lòng, chẳng có điều cho gian trá. Để Ai gia tới xem đua bơi cho phỷ dạ, sau cho biết luôn phong cảnh Tương giang.
Nói rồi bèn đòi sứ thần tới viết chiếu trả lời y kỳ sẽ tới và thưởng sứ mười đỉnh bạc làm tiền lộ phí vế báo cho năm vị quốc vương hay. Phi Quế cúi đầu lạy tạ, lãnh chiếu văn lập tức trở về. Còn Tuyên vương thấy Chung hậu ăn nói chẩm hẩm thì thất kinh mà hỏi rằng:
- Ngự thê muốn đi coi bơi thì đi, chớ trẫm thiệt là không dám.
Chung hậu tâu:
- Như bệ hạ có lòng nghi sợ thì thần hậu xin viết chiếu chỉ thỉnh sáu vị nguyên soái sáu nước tới giúp công, đặng lược trận giùm cho.
Nói rồi bèn truyền cho nội thị đem văn phòng tứ bửu ra, viết sáu đạo chiếu văn, sai sứ đem qua sáu nước, hạn trong mười ngày phải trở về phục chỉ, bằng không thời xử theo luật gia hình. Sáu người lãnh mạng, lập tức đi luôn cả ngày lẫn đêm, chẳng bao lâu đều tới kinh thành sáu nước. Vua sáu nước coi rồi đều bằng lòng giúp sức, mỗi người là một muôn binh. Nước Tần thì sai đại nguyên soái Chương Hàng, nước Sở sai đại nguyên soái Huỳnh Cát, nước Yên cóTôn Tháo phò mã, nước Hàn sai đại nguyên soái Trương Xa, nước  Triệu sai đại nguyên soái Liêm Pha và bốn người con của Liêm Pha là Liêm Cang, Liêm Ấn, Liêm Thuận và Liêm Đạt, còn nước Nguỵ cũng sai đại nguyên soái Trịnh Anh Bình. Mỗi vị đều lãnh một muôn binh, thảy tựu tới thành Lâm Tri phó hội.
Khi sáu vị nguyên soái sáu nước, kẻ sau người trước kéo binh tới Hỗn Hãi kinh thành, truyền quân phág pháo an dinh, ở tại trước Ngọ môn đợi lịnh.
Còn Chung hậu từ khi cho Phi Quế về nước và sai sáu vị khâm sai đi rồi thì hằng ngày tới giáo trường thao luyện binh mã, đội ngũ đâu đó chỉnh tề thuần thục. Ngày kia vợ chồng lâm triều, đương lo việc nước, thì có quan Huỳnh môn vào tâu rằng:
- Sáu vị khâm sai đã trở về và sáu nước dều cho sáu vị nguyên nhung tới giúp.
Chung hậu cả mừng, truyền lịnh cho sáu vị nguyên nhung nhập triều. Quan Huỳnh môn vâng lịnh, kế đó sáu vị theo vào triều kiến.
Khi sáu vị nguyên soái tới trước Kim Loan điện triều bái xong, Chung hậu mời ngồi và thuật lại rằng:
- Năm nước hội binh muốn lập ra cuộc Đoan dương canh độ. Bởi cớ ấy nên ta mới vội vàng thỉnh mời quí vị miễn phiền chỗ lao khổ với ta.
Chung hậu nói rồi bèn truyền nội thần dọn yến diên thết đãi sáu vị nguyên nhung. Đương khi tiệc rượu vui lòng, Chung hậu mới hỏi rằng:
- Có dám bảo giá ai gia đi qua phó hội Tương giang chăng?
Điền Côn bước ra tâu rằng:
- Thần nhi xin lãnh mạng. Kế đó thấy Liêm Thoại Hoa cũng tâu xin theo nữa. Chung hậu cả mừng, vua tôi yến tiệc vui say, tiệc vừa mãn liền truyền bãi triều, ai lui về dinh nấy.
<< Lùi - Tiếp theo >>

HOMECHAT
1 | 1 | 136
© Copyright WAPVN.US
Powered by XtGem.Com