Chỉ mục bài viết |
---|
Khúc Tráng Ca Thành Cổ Quảng Trị-Chương 9-16 |
Trang 2 |
Trang 3 |
Trang 4 |
Trang 5 |
Trang 6 |
Trang 7 |
Trang 8 |
Trang 9 |
Trang 10 |
Tất cả các trang |
B.52 chúng đánh thường xuyên, mà đánh về đêm nên khát nước vô cùng, bom nổ trên diện rộng, cũng không biết do không khí bị đốt cháy khô hết hay là trong bom có cái chất gì gì mà bom đánh xong khát nước lắm, khát khô cả họng. Nước để trên miệng hầm bom hắt đổ hết. Nhiều đêm khát quá, không tài nào chịu nổi, một, hai giờ sáng rồi tôi phải lọ mọ đi bộ đến 3, 4 cây số để lấy nước. Một mình một súng AK báng gập, trèo qua hố bom này lại đến hố bom khác. Trời thì tối thui, đèn đóm không dám thắp, bom mới đánh đất đá ngổn ngang, cây cối trơ trụi khó mà định hướng được, tìm cho đến nơi cũng không phải là dễ. Mò mẫm mãi cuối cùng cũng đến chỗ gặp nước sướng quá cúi đầu xuống uống lấy uống để. Chà, nước sao ngon thế, từ thời cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa được uống nước ngon như thế này bao giờ đâu. Mang nước về, tưởng đang ngủ cả, ai ngờ mọi người ngồi thức chờ nước, chẳng ai ngủ được vì khát, sáu người lại quây quần "liên hoan" nước, ngon hơn một bữa đại tiệc hay một bữa cơm thịnh soạn. Nước chảy đến đâu thấy sự sống hồi sinh đến đấy, mát và đã quá.
Bom đạn chán rồi, sang tiết mục chất hoá học, thường thường hôm nào gió nam là lại chơi pháo hoá học vì hôm ấy gió sẽ thổi chất độc về phía quân ta. Pháo nổ từng hồi, nghe cứ "bục, bục" và một màn khói trắng bao trùm. Mặt nạ phòng độc sáu người chỉ được hai cái, cứ phải thay nhau, những người còn lại lấy khăn mặt Trung Quốc gấp đôi lại dấp nước có cho "ê te" đắp vào mặt. Mặt rát như bị bỏng và rất khó thở khi nào chịu không nổi, xin đổi ca. Chúng chơi cái món "hoá học" này đến cả tiếng đồng hồ, ruột gan ngấm chất độc đau quặn như ai đào bới bên trong, nhiều lúc có cảm giác như rữa hết cả ra rồi. Sau đấy bụng trướng phình lên to như trống "lâm thôn", mặt mũi và người đỏ rực như bị "lở sơn" rát vô kể. Cả ngày cứ vác cái bụng chẳng cơm chẳng nước gì được cả, đau và bức bối vô cùng, chỉ muốn rạch bụng ra cho nó nhẹ bớt đi chứ chịu không nổi. Được cái anh nào cũng khệ nệ nom như sếp cỡ bự cả. Ngồi chẳng yên, tức bụng, nằm thì ruột gan nó cứ xào xáo, đành phải trăn trở hoài lúc ngồi lúc nằm, khi thì nửa nằm, nửa ngồi.
Thời gian thấm thoắt trôi đi, chúng tôi bây giờ nhiều người đã thành ông cả rồi, cũng có lần tôi về Quảng Trị nhưng vì đi công tác vội vã chỉ ghé qua Đông Hà và một vài nơi, chưa đến được nơi này, không biết Thượng Phước bây giờ ra sao, đồi chè bây giờ đã mướt mát chưa. Tích Tường, Như Lệ đã trù phú chưa. Nhớ quá!
Hà Nội những ngày tháng 10 năm 2005
Chuyện cũ nhớ lại
LÊ VIỆT
Nguyên chiến sĩ Đại đội 4 Tiểu đoàn 12 Trung đoàn 58 Sư đoàn 308
Khi cầm bút viết những dòng này thì cuộc chiến khốc liệt ở Quảng Trị đã lùi xa được 34 năm, trong quãng thời gian đó cứ mỗi khi nhớ đến hai tiếng Quảng Trị hoặc có dịp gặp lại các đồng đội cũ thì bao nhiêu ký ức kỷ niệm về cuộc chiến ấy lại hiện về.
Đơn vị chúng tôi là tiểu đoàn pháo cao xạ 37 ly thuộc Trung đoàn 58 Sư đoàn 308. Chúng tôi có nhiệm vụ bảo vệ một tiểu đoàn lựu pháo 122 ly mà tiểu đoàn này lại có nhiệm vụ chi viện cho bộ binh trong các trận đánh hiệp đồng binh chủng. Trận địa lựu pháo ở đâu thì trận địa cao xạ cũng nằm gần đó để đánh trả máy bay địch. Đêm 30 tháng 3 năm 1972, tiếng súng mở màn chiến dịch Quảng Trị bắt đầu thì ngày 1 tháng 4 năm 1972, đơn vị tôi được lệnh hành quân từ Bãi Hà vào Quảng Trị. Chiến dịch mới mở nên khí thế rất nhộn nhịp. Chúng tôi cũng gặp những xe tải lớn gọi là "đại xa" chở những hòm đạn lớn cho các trận địa lựu pháo và pháo nòng dài. Thế rồi chúng tôi cũng bắt gặp cả những xe kéo lựu pháo, pháo nòng dài và hết sức ngạc nhiên khi lần đầu tiên thấy những tốp nhỏ xe tăng, mỗi tốp 5 đến 6 chiếc, tháp pháo quay ngược cắm đầy lá ngụy trang, thành xe có buộc mấy chú lợn được nhốt trong rọ để làm thực phẩm sau này. Tiếng gầm của những chiếc xe tăng vang vọng cả một vùng rừng núi càng làm cho đường ra trận trở nên náo nhiệt, nhộn nhịp khác thường.
Chúng tôi phải dừng lại để chờ khá lâu vì chỉ có một chỗ duy nhất vượt sông cho những phương tiện cơ giới. Cả đoàn xe gồm xe pháo, xe tăng, xe lội nước đều chờ để đến lượt, lúc đó mặt trận mới mở, đường vận chuyển chưa bị địch phát hiện nên không gian hoàn toàn im ắng, không một tiếng máy bay địch.
Sang tới bên kia sông Bến Hải, chúng tôi bắt đầu nhận thấy nhiều điều lạ khác hẳn bờ Bắc. Phía tây Quảng Trị, phần giáp với rừng già là những gò đồi thấp mọc toàn cỏ tranh xen lẫn những bụi cây nhỏ hoặc cây lúp xúp. Tới khoảng 10 giờ đêm, sau một ngày hành quân, các khẩu đội đều giấu xe pháo vào các bụi cây nhỏ ven đường mới mở và đào hầm để ngủ qua đêm. Lệnh của trên là từ lúc này trở đi không được ngủ trên mặt đất để tránh thương vong, nhưng suốt đêm đó chúng tôi không sao ngủ được vì thỉnh thoảng một vài tiếng nổ to như sấm lại vang lên, không khí xung quanh như bị dồn ép lại làm chúng tôi kinh hãi.
Sau 3, 4 ngày vào tới Quảng Trị, đại đội cao xạ chúng tôi được trên giao nhiệm vụ mới là bảo vệ cầu Trúc Khê. Đây là cây cầu trên quốc lộ 1 cách Quán Ngang vài cây số nằm trên đường tiến quân của quân ta vào Đông Hà. Trận địa của chúng tôi nằm trên một gò cát trắng rìa làng cạnh quốc lộ 1 và cách cầu khoảng 500 mét. Hai ngày đầu không có gì chứng tỏ đây là chiến trường vì dân cư của mấy làng quanh đó đã bỏ đi hết, ít tiếng bom đạn, có lúc còn im ắng hoàn toàn, chỉ có chiếc OV10 thỉnh thoảng đảo qua đảo lại. Nhưng đến ngày hôm sau, đó là ngày 7 tháng 4 năm 1972, trận đánh đầu tiên để lại thương vong cho đại đội tôi là một ngày đánh khó quên.
Khoảng giữa trưa ngày hôm đó, chiếc OV10 cứ lượn đi lượn lại quanh khu vực cầu, thấy hiện tượng khác thường cả đơn vị đã vào vị trí sẵn sàng chiến đấu. Quả nhiên một lúc sau mấy chiếc F4 kéo đến và chúng tôi thấy một tiếng nổ bụp, đó là tiếng nổ của pháo khói do chiếc OV10 bắn ra chỉ điểm mục tiêu cho F4 đánh phá cầu. Nhận ra mục tiêu, mấy chiếc F4 chọn hướng mặt trời, tăng độ cao rồi bổ nhào. Đại đội tôi tập trung hoả lực của cả bốn khẩu đội bắn chiếc đầu tiên và cả bốn khẩu đều thông báo đã bắt được mục tiêu. Trong đơn vị tôi là trắc thủ đo xa có nhiệm vụ dùng máy đo xa để đo khoảng cách từ mục tiêu đến trận địa. Lúc đó tôi cũng đã bắt được mục tiêu và đo được cự ly khoảng 4.000 mét, tức thì đồng loạt cả bốn khẩu đội nổ súng, những chùm đạn vun vút lao lên, nhưng vì đây là loạt đạn đầu tiên và hơn nữa đơn vị tôi chưa nhiều kinh nghiệm trận mạc nên đạn còn cách xa mục tiêu nhiều lắm. Chiếc F4 vẫn bổ nhào và cắt được bom.
Đây là lần đầu tiên chúng tôi bị đánh vào trận địa. Trận ấy đơn vị tôi hy sinh ba người, bị thương hơn chục người. Ba người hy sinh là các anh Thanh, Tự, Thảo trong đó anh Thanh trẻ nhất, là sinh viên năm thứ hai khoa Sinh Đại học Tổng hợp, cùng nhập ngũ với tôi. Mấy ngày sau, chúng tôi được lệnh rút ra nhưng trong đêm rút lui đó chúng tôi còn bị pháo hạm từ ngoài biển tới tấp bắn vào, may mà không bị thương vong gì.
Trong tâm trí tôi đến bây giờ vẫn còn in đậm hình ảnh không thể nào quên khi đi qua khu vực khẩu đội 4. Đó là cảnh tượng một khẩu pháo 37 ly nặng hơn 2 tấn bị bom ném trúng hất lên hẳn bờ công sự, ám đen khói bom. Thi thể của các anh trong khẩu đội bị xé nát ra từng mảnh và có những mảnh còn giắt vào khẩu pháo. Mùi khét lẹt của bom, mùi thi thể, mùi của nhựa cây lúp xúp, mùi của đất bị cày tung… tất cả quyện lại thành một thứ mùi khó tả mà chỉ có ai ở chiến trường mới tưởng tượng ra nổi Cũng không hiểu sao mà nhanh thế một bầy quạ từ đâu kéo đến, chúng đậu đen trên khẩu pháo và bụi cây nhỏ gần đấy để tìm kiếm mùi tanh của xác chết.
Khẩu đội 4 có 6 người gồm anh Mâu (khẩu đội trưởng) và anh Ngô Quang Ngọc cùng quê Gia Lâm, anh Thường người dân tộc Thổ quê Thái Nguyên, anh Chí quê Vĩnh Phú, anh Nguyễn Văn Đống sinh viên năm thứ 2 khoa Hoá là người có biệt tài cắt tóc rất đẹp và anh Thẩm Quang Oánh đã tốt nghiệp khoa Lý nhà ở phố Cửa Đông, Hà Nội. Trong số họ chỉ có anh Mâu và anh Thường là có vợ con. Viết tới đây tôi chợt liên tưởng tới thông tin rằng hàng vạn liệt sĩ của chúng ta vẫn chưa tìm thấy phần mộ. Vâng Thế thì các anh trong khẩu đội 4 kia có bao giờ tìm thấy phần mộ? Thế mới hiểu thế nào là sự tàn khốc của chiến tranh. Sau này trong một lần vào thăm chùa Chân Tiên trên phố Bà Triệu, Hà Nội tình cờ tôi đọc thấy tên anh Thẩm Quang Oánh được khắc trên Bia các liệt sĩ của phường Vân Hồ. Phải chăng đó cũng là chút an ủi với anh.
Thiệt hại ngày hôm đó là nặng nhất trong toàn bộ chiến dịch đối với đơn vị tôi. Hôm đó chúng tôi bị hy sinh 9 người, ngoài 6 người trên còn 3 người khác ở sở chỉ huy bị trúng bom. Đó là anh Nguyễn Hữu Định đại đội trưởng, quê Nho Quan, Ninh Bình; anh Nguyễn Văn Chương chính trị viên nhà ở phố Lò Sũ, Hà Nội và anh Vũ Sĩ Lâm sinh viên năm thứ 3 khoa Hóa nhà ở phố Huế, Hà Nội. Riêng ba anh này vẫn còn thi thể. Do thiệt hại quá nặng nề, đại đội tôi mất sức chiến đấu hoàn toàn và phải chờ tới đầu tháng 5 năm 1972 sau khi ta giải phóng Đông Hà đơn vị tôi mới được tăng cường bổ sung người và xe pháo để tiếp tục tham gia chiến dịch.
Hà Nội, tháng 8 năm 2006