Cộc nhìn lại thì quả như lời ông nội nó nói. Nơi đây, đất đã hết, mà chỉ còn bùn. Tràm mọc tới mé đất cuối cùng thì dừng lại, như là dân ở biên giới một nước kia dừng lại nơi bìa lảnh thổ mình. Hết tràm thì có một khoảng trống, nửa bùn, nửa đất, trên ấy cỏ ống rậm ri và chim cao cẳng đủ loại đáp đầy trong cỏ. Tràm đứng trước bãi cỏ mà nhìn dân láng giềng mọc trên bùn đen. Đó là những cây ốm nhom chen nhau mà vượt cao lên, cây nầy cách cây kia không đầy bốn gang tay. Bờ biển thoai thoải dốc xuống, trông rừng cây lạ ấy như một đạo binh xuống núi, tuôn thành hầu lập công. - Nhìn xuống gốc cây, ông nội bảo. Nước chưa lớn hẳn, để lộ bùn đen dưới gốc cây ra. Bùn đen từng nơi lại trắng xóa những đóa hoa năm cánh, hai màu đen trắng đối chọi nhau trông rất đẹp. - Cây gì mà lạ vậy ông nội ? Trổ bông ngay dưới gốc ? - Bông trổ trên đầu những cái rễ ăn lên mà người ta gọi là rễ gió. Cây nầy là cây mắm. Đây là rừng mắm đây. - Cây mắm ? Sao tui không nghe nói đến cây mắm bao giờ ? - Con không nghe nói vì cây mắm không dùng được để làm gì hết, cho đến làm củi chụm cũng không được. - Vậy chớ trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội, lại sanh hằng hà sa số như là cỏ ấy ? - Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một mai kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp: - Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng. Con, con sắp được hưởng rồi, sao lại muốn bỏ mà đi ? Vả lại con không thích hi-sinh chút ít cho con cháu của con hưởng hay sao ? Thằng Cộc nhìn lại ông nội nó và nghe thương không biết bao nhiêu ông già đã bỏ mồ bỏ mả ông cha để hì-hục năm năm trong đồng chua, nước mặn ở Ô-Heo. Phải, cứ theo dự đoán của gia đình thì nó sắp được hưởng, tuy không nhiều, mà rồi sẽ nhiều. Nó nắm chặt tay ông nội nó và nó thấy ông nội nó giỏi quá. Ông có biết chữ nho kia mà. - Ông ơi, nó than, nhưng tràm buồn quá. - Tràm sẽ khỏi buồn nữa. Năm tới, đất thuần rồi thì ta làm ba mươi công và sẽ gọi dân cấy gặt ở xa tới phụ lực. Rồi tía con sẽ cưới vợ cho con, rồi thiên hạ sẽ bắt chước ta, tràn tới đây mà phá rừng, vùng Ô-Heo sẽ sầm uất, vui biết bao nhiêu. Tràm hết buồn vì sẽ đẻ ra cau, dừa, xoài, quít, đầy nhà, nước sẽ ngọt một khi đất thuần... - Và sẽ có chè ăn ? Ông nội cười ha hả mà rằng: - Gì chứ chè thì sẽ có lu bù. - Mà ông nội nè, cưới vợ làm sao được, ai thèm tới Ô-Heo ? - Hai năm nữa người ta sẽ đồn rằng đất Ô-Heo thuần. Những kẻ nghèo khó như ta chỉ mong được tới đây. Ông nói điều nầy, không biết con hiểu được hay không. Là tổ tiên ta ngày xưa từ Bắc, Trung tràn vào đây đều chịu số phận của cây mắm hết, từ xứ Đồng Nai nước ngọt cho tới đây, ở đâu cũng hoang vu cả. Họ đã ngã rạp trong chốn ma thiêng nước độc nầy để lót đường cho con cháu họ đi tới, y như là đàn kiến xung phong, tốp đầu liều chết đuối, lội qua tô nước rọng hủ đường để làm cầu cho bọn đi sau vào đến nơi có chất ngọt. Nhiều lớp tiên phuông đã ngã gục như rừng mắm. Rồi thì ông sơ, ông cố con, ông nội đây là tràm mới kiếm được miếng ăn... - Tía. Thằng Cộc lo lắng không biết tía nó sẽ làm tràm như nó được hay không nên kêu tía nó bằng một giọng thương yêu trìu mến hết sức. - Thôi, nhổ sào để đi về cho kịp con nước, ông nội ra lịnh. Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phong đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên: Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai. Nước sông trong sao cứ chảy hoài, Thương người xa xứ lạc loài đến đây. Chú thích chim thằng chài xanh: Tác giả thấy rằng màu lông của loại chim nầy là màu lục. Nhưng người miền Nam cứ cho đó là màu xanh, nên tác giả viết theo đa số, để được hiểu. Vả lại, đôi khi trời trưa thì cũng có thể thấy chim ấy mang màu xanh. tía: Tía là danh từ của người Mã Lai có nghĩa là Cha, nhưng miền Nam vay mượn của người Hoa Nam (Phúc Kiến và Triều Châu) vì người Hoa Nam gốc Mã Lai, còn dùng đến mấy trăm danh từ Mã Lai trong cái Hoa ngữ của riêng Hoa Nam, chớ không phải là vay mượn của người Mã Lai đâu. Vả lại danh từ Cha cũng do Giao Chỉ vay mượn của Hoa Nam hồi cổ thời và cũng cứ là vay mượn danh từ Tia (không có dấu sắc). Khi Tia được đọc thật nhanh thì nó hóa ra là Cha, như trong tiếng Pháp Tiarẹ Hai câu chú thích nầy để dành riêng cho bạn đọc gốc miền Bắc và Trung. gác: đánh bẫy. 6) Nghệ sĩ Bắc Sơn: Ông tên thật là Trương Văn Khuê, sinh ngày 25-12-1932 tại xã Phước Lộc, Long Thành, Biên Hoà, mất lúc 9:55 phút ngày 23-2-2005 tại Sài Gòn vì bịnh ung thư phổi. Bắc Sơn là tác giả 500 ca khúc trong đó bản dân ca “Còn thương rau đắng sau hè” được cả nước ưa thích… Ông còn là kịch giả của 80 kịch bản, và đã đích thân tham gia 60 vai diễn trong điện ảnh. Ông có tất cả chín người con, nhưng chỉ có hai người con gái nối nghiệp cha là ca sĩ Hạ Châu và nghệ sĩ Bích Lan. Ông Bắc Sơn là một nhà giáo dạy học từ năm 1952 đến 1977. Trên sân khấu truyền hình trước năm 1975 ông nổi tiếng là người thực hiện “Chương trình quê ngoại” có nông dân chất phát Tư Ruộng với cô gái quê Thu Hồng có giọng hò miền Nam ru hồn rất thanh thoát… Các vỡ kịch của ông đều xoay quanh nghề nông với các nhân vật tuy chất phát nhưng giàu suy ngẫm như chính người viết vốn yêu cuộc sống thanh bình… Ông được tặng danh hiệu Nghệ Sĩ Ưu Tú ngày 3 tháng 2 năm 1977.
7) Nguyễn Tất Nhiên: Tôi cũng không quên nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên. Nguyễn Tất Nhiên sanh ngày 30-5-1952 (Nhâm Thìn) tại Bình Trước, Biên Hoà, tháng Bính Ngọ, ngày Bính Tí, giờ Canh Dần, mất ngày 3-8-1992, tên thật là Nguyễn Hoàng Hải. Thuở nhỏ, gọi là Hải khùng, sống tại xóm Gò Me, hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang mà anh ưa mặc cái manteau mua ở khu Dân sinh, mồ hôi nhễ nhại, ưa đạp xe đạp đi cua cô em Bắc Kỳ nho nhỏ tên Duyên; anh nhỏ hơn tôi đúng một con giáp, tuổi Thìn; anh thường làm thơ in ronéo đi phát không cho nữ sinh, họ đều quăng vào thùng rác, đến lúc Vĩnh Phúc và Nguyễn Xuân Hoàng dạy trường Ngô Quyền gửi đăng ở tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo, được Phạm Duy và Nguyễn Đức Quang phổ các bản "Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá", "Trúc đào", "Vì tôi là linh mục", " Em hiền như ma soeur", "Kià cô em Bắc kỳ nho nhỏ", "Hai năm tình lận đận" thì nữ sinh ùn ùn kiếm mua thơ anh; Nguyễn Tất Nhiên sau lấy Minh Thủy, xóm Cây Me, ở nhà gọi là Nhung, chú út tôi là Kiến trúc sư Đỗ Hữu Nam lấy chị thứ ba là Minh Vân. Tác phẩm đã in: "Nàng thơ trong mắt" (1966, cùng với Đinh Thiên Phương), "Dấu mưa qua đất" (1968), cùng với bút đoàn Tiếng Tâm Tình), "Thiên Tai" (Thơ,1970), "Thơ Nguyễn Tất Nhiên -1980, "Chuông Mơ" -1987, "Tâm dung". Lúc Nguyễn Tất Nhiên quyên sinh trước cửa chùa Việt Nam, California, anh chưa được trông thấy tác phẩm "Minh Khúc" của anh ra đời. Quyển thơ nầy đang bị tranh chấp giữa Minh Thủy và gia đình Nguyễn Ngọc (thợ may cha của Nguyễn Tất Nhiên) chưa ngã ngũ, chúng tôi kỳ vọng được đón nhận nó lắm thay. Anh còn dự định xuất bản "Truyện ngắn Nguyễn Tất Nhiên" và trường thi "Cũng cần cho hạnh phúc". Ngoài ra anh còn có tập nhạc "Những năm tình lận đận" -7. Tôi xin ghi chép lại bốn bài thơ đầu tay thuở Nguyễn Tất Nhiên còn học Trung học Ngô Quyền, Nhiên đã làm bốn bài thơ nguyên thủy chính chàng cũng tưởng đã bị thất lạc, do người em con chú, yêu thơ là Đỗ Kim Loan đã chép lại trong tập thơ bằng giấy Pelure mỏng màu xanh học trò chưa bị sửa. Bài thơ có lẽ báo hiệu một thiên tài thơ lổi lạc thuở còn tim non học trò trường tỉnh là bài thơ "Tình mới lớn", hình như Nguyễn Tất Nhiên đã sáng tác hồi mới mười lăm: "Tình mới lớn phải không em rất đẹp Cách tập tành nào cũng rất dể thương Thuở đầu đời chú bé soi gương Và thích thú dĩ nhiên làm lạ Tình mới lớn phải không em rất đẹp Cách tập tành nào cũng dễ hư hao Thuở đầu đời là so đũa thấp cao Và tro bụi dù đi về đâu nữa Cũng yên nằm mang phân bón cho cây Nên lúc nào tôi cũng phải thương tôi Những ích kỷ nảy sinh sau lần thảm bại Tuổi mười lăm giữa con trai con gái Đã rỏ ràng ai khờ dại hơn ai Nên ích kỷ nảy sinh sau lần nhục nhã Ta có một đời rong xanh mờ đá Em có ngàn năm lạc lõng sương mù Tình mới lớn phải không em rất mỏng Cách tập tành nào cũng dễ hư hao Thuở đầu đời chú bé ôm phao Và nhút nhát dĩ nhiên ngộp nước Ta có cánh buồm tạc vào ký ức Em có chỗ ngồi phiêu lãng như mây"
(Nguyễn Tất Nhiên) Bài "Nên sầu khổ dịu dàng" phản ảnh một chất thơ rất là Nguyễn Tất Nhiên vừa hồn nhiên, vừa trong sáng, vừa dễ thương, vừa dịu dàng, đầy sáng tạo. Cũng như các kiệt tác của một Kiệt Tấn cũng đã ở Dưỡng Trí Viện được ba năm, thơ của Nguyễn Tất Nhiên nằm ở giữa đường tơ kẻ tóc, lằn ranh của những cơn điên loạn, thác loạn và thiên tài: "Những kỷ niệm đời xin hãy còn xanh Có một ngày mình bỏ trường bỏ lớp Anh cũng đi như luật định trời dành Nắng bờ sông như màu trang vở cũ Thuở học trò em làm khổ ai chưa? Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học Bàn tay xương cầm hờ hững văn bằng Em hãy đứng trước gương làm dáng Tự khen mình đẹp quá đi em Lỡ mai kia mốt nọ theo chồng Còn đôi chút luyến lưu đời con gái Em hãy ra bờ sông nhìn nắng trải Nhớ cho mình dáng dấp người yêu Lỡ dòng đời tóc điểm muối tiêu Còn giây phút chạnh lòng như mới lớn Mình hãy trách đời nhau nhiều hư hỏng Rồi giận hờn cho kỷ niệm đầy tay Thu miền Nam không thấy lá vàng bay Anh phải nói:"Buồn cho chúng ta màu trắng" Tình cứ đuổi theo người như chiếc bóng Người thì không bắt bóng được bao giờ Anh muốn khóc trong buổi đầu niên học Bởi yêu em nên sầu khổ dịu dàng" (Nguyễn Tất Nhiên)
Hồi đầu năm 1972, có người hỏi Nguyễn Tất Nhiên lý do lấy bút hiệu đó, thì anh kể lại có một người nói có bài thơ đăng báo của tác giả nào tên lạ hoắc mà hay quá, anh nói:" Đâu đọc nghe thử." Ông ta đọc xong, anh cười bảo:" Thơ tôi đấy!" Ông ta trợn mắt tỏ ra không tin, còn hỏi lại:" Bài đó làm lúc nào vậy?" Tôi đáp:"Lúc 11 tuổi." Ông ta cười phá lên, cho là chuyện hoang đường. Anh buột miệng trả lời:" Chắc chắn bài thơ đó của tôi, tôi làm lúc 11 tuổi, tin hay không tin là tùy ông nhưng tất nhiên là vậy." Sau đó anh chọn luôn bút hiệu là Nguyễn Tất Nhiên. Xin mời bạn đọc thơ "Em đang" của anh thuở còn theo đuổi dấu chân người con gái tên Quyên: Em yếu đuối, em hắt hiu tiều tụy Tủi chi tình đưa dẫn đến xót xa Vì yêu đương mang bản chất mù lòa Mà nước mắt cũng cần cho hạnh phúc!
Thiên hạ vẫn hay trao lời cầu chúc Trách chi điều bất hạnh bổ trùng vây Bởi chuỗi cười khi rạng rở trên môi Không phản chiếu long lanh như lệ xuống!
Yêu dấu hỡi, nhìn thảm chi lúc đứng Lắc đầu chi lúc chạm mắt quay đi Cho muối thêm mặn cho gừng thêm cay Cho thất vọng đẩy xô về tuyệt vọng!
Yêu dấu hỡi, đường chung thân bước mỏn Tình mong manh, ừ, ráng nâng niu Chàng hư thân, ừ, ráng nuông chìu Ờ mong mỏi, ừ nhưng đừng nhẩm tính
Như thời tiết góp phần vào trái chín Mùa khổ đau sẽ tươm mật con tim Lưỡi cày sâu cho đất cựa mầm lên Mau mắn nụ tinh mơn tình bát ngát...
Yêu dấu hỡi, đường chung thân sa mạc Khát sống tăng theo mỗi gượng thêm lần Quỵ thêm lần...cho mắt cảm thông quang Như gương nhận gương soi từng mắt khó
Yêu dấu hỡi, rồi nghe đời tha thứ Rồi lại nghe tim nhịp thứ tha đời Mỗi vết thương, tự nó, đã đền bồi Một hạnh phúc da non còn kéo miệng!
Nguyễn Tất Nhiên Và cuối cùng mời các bạn thưởng thức một hồn thơ đã thẩm thấu hương bưởi Biên Hoà với nước ngọt ngào sông Đồng Nai trong bài thơ "Tâm Chung": Cùng em cùng một khung trời Chung nghe sa mạc lòng người chuyển mưa Cùng em cùng một ngày mùa Chung nghe tình nước non chưa lỗi thề Cùng em ngàn dặm ra đi Chung nghe thiên lý đường về trong tim Cùng em sông Hậu sông Tiền Lia thia quen chậu tình hiền quen khăn Cùng em cửa mắt cài trăng Nhẹ tay phẩy bụi chung lòng như gương Vì em là lượng Cửu Long Bún khô vẫn gạo nanh chồn, nàng hương Vì em là ngọt sông Đồng Vàng chua bưởi Mễ vẫn bông Biên Hoà Vì em là một mái nhà Anh thân tứ cố vẫn ra người hiền Chim quyên ngồi đứng không yên Em xa cha mẹ buồn riêng một mình...
Nguyễn Tất Nhiên (Xin xem thêm Phụ bản của Vũ Công Lý ở cuối). 8) Nhà văn Lý Văn Sâm: Nhà văn Lý Văn Sâm cũng quê Tân Uyên, sanh ngày 11-2-21, người rất có nhiều tác phẩm viết về Biên Hoà, ông là Tổng Thư Ký đầu tiên của Hội Văn Nghệ Giải Phóng, Vụ trưởng Vụ Nghệ Thuật, Bộ Văn Hóa. Sau 75, ông đảm nhiệm Phó Tổng Thư Ký Hội Liên Hiệp Văn Học Nghệ Thuật, Ủy Viên BCH Hội Nhà Văn Việt Nam, Chủ tịch Hội Văn Nghệ Đồng Nai... Ông để lại các truyện "Cây Nhị Sông Phố", "Chuyện đường rừng", "Mã thượng giang hồ", "Kòn trô", "Thèm một ánh đèn", "Quê nhau rún", "Tàn một mùa thơ", "Ngoài mưa lạnh", "Bức chân dung", "Ngàn sau sông Dịch", "Chiếc vòng ngọc thạch", và tuyển tập " Nắng bên kia làng"... Hành trình trên cõi văn chương, Lý Văn Sâm là nghệ sĩ thứ thiệt, nào có ai so đo, ra công cố sức để người sau tạc tượng đồng bia đá cho mình đâu. Có lẽ vì thế, không hề lập dị, nhưng Lý Văn Sâm như luôn luôn lẫn khuất cả chính mình. Trong tâm hồn nhà thơ, nhà văn, bao ký ức một thời vang bóng. Song, ông lại chẳng bao giờ kể lể. Cuộc đời văn chương Lý Văn Sâm nằm trọn vẹn trên những nẻo đường dân tộc. Ông gắn bó với quê hương, nơi ông thường gọi bằng cái tên dân giã dân dị: "quê nhau rún". Với thiên chức người cầm bút. Lý Văn Sâm đã khắc ghi chân thật bộ mặt quê hương , đất nước. Người trí thức chân chính bao giờ cũng biết ơn nơi mình sinh ra... Còn người đời và quê hương của ông? Hãy tự hào về người con ruột rà và tài hoa của mình.
9) Đỗ Cao Trí: Về quân sự, người nổi danh là nhà thao lược, đánh giặc giỏi và rất kỷ luật, là cố Đại tướng Đỗ-Cao Trí. Tướng Đỗ Cao Trí sanh ngày 20-12-1929 tại Bình Trước, Biên Hoà, song thân là Ông Đỗ Cao Lụa và Bà Tô Thị Định, mất 10 giờ trưa ngày 23-2-1971, cựu học sinh trường Tỉnh Biên Hoà, cựu học sinh Trung học Pétrus Trương Vĩnh Ký, xuất thân trường Võ Bị Nước Ngọt, khóa Đỗ Hữu Vị năm 1947, quê nội ở Bến Gỗ, bên kia bờ sông làng Vĩnh Cửu, bến đò An Hảo (nơi có năm đại doanh gia giàu nhất Biên Hoà là ông Lê Văn Lộ gọi là Bảy Lộ, sinh năm 1923 ở Bình Tự, xã Hiệp Hòa, gốc nhân viên của sở Trường Tiền, sau thầu xây cất, chủ rạp ciné Biên Hùng, và là người sáng lập Đông Phương Ngân Hàng; và ông Tám Dương Văn Hảo, gốc chèo đò ở bến đò An Hảo và bến đò Trạm, tục gọi là ông Tám Mộng, chủ khách sạn có hồ tắm Biên Hoà Club và nhiều building cho Mỹ mướn, nhà ông sau 75 bị chánh phủ Việt Cộng tịch thu dùng làm nhà Hữu Nghị để tiếp các phái đoàn ngoại giao, ông phải đi ở trọ nhà của ông phán Liên Thất Trương, ngày ngày đạp xe cọc cạch lên săn sóc các cây kiểng không công; ông Gia, chủ rạp ciné Nam Việt và hãng tàu thương thuyền hiện chạy đường Guam; em ruột là ông Mỹ, chủ rạp ciné Casino Dakao, ông Kinh Lý Đào Văn Nhơn, cả ba ông đều quê Cù Lao Phố; tướng Đỗ Cao Trí là em của Nha sĩ Đỗ Cao Minh là anh hai hiện ở Pháp, ông Minh là dân biểu thời Tổng thống Ngô đình Diệm và là Tổng thư ký Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia, ngoại vi của đảng Cần Lao; Thiếu tá Đỗ Cao Thanh nguyên Phó tỉnh trưởng Nội an Biên Hoà, (ở tù cải tạo gần 13 năm chỉ vì em của Đỗ Cao Trí mặc dù ông đã giải ngũ từ lâu, ông hiện ở California); anh của Đỗ Cao Huệ, Bác sĩ Thú Y, người sanh đôi với Đỗ Cao Phước là Đỗ Cao Thọ, kỷ sư Mục súc; Bác sĩ Đỗ Cao Nghĩa, học cùng lớp với tôi, du học bên Pháp từ hồi Trung Học, người em gái thứ chín là Đỗ Thị Ánh Tuyết, phu nhân của Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm (ông tốt nghiệp trường Thiết giáp Saumur, Pháp quốc), Tư lệnh Địa phương quân; Đỗ Cao Luận, người thứ mười, Trung tá Lực Lượng Đặc Biệt, người có công trận khám phá tàu vũ khí của Việt Cộng ở Vũng Rô, trước làm Quân trấn trưởng Nha trang, sau vì Trung tướng Vĩnh Lộc, Tư lệnh Quân khu II, ghen chuyện nữ ca sĩ Minh Hiếu, đã phái đi cứu đồn với ba cố vấn Mỹ mặc dầu ông dư biết đồn đã bị Việt Cộng tràn ngập, kết quả lấy xác Đỗ Cao Luận tại Lâm Đồng, quận Đôn Dương năm 1967 về chôn tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thiếu tay thiếu chân, tôi là người đi đầu ôm di ảnh của Luận hôm đó. Tướng Trí lúc đó đang "bị đày" làm Đại sứ tại Nam Hàn đã không về kịp đưa đám tang đứa em mà ông rất thương (theo truyền thống được làm vua, thua làm đại sứ). Người em gái áp út là dược sĩ Đỗ Lan Chi hiện định cự ở California. Người em út là Đỗ Cao Thông hiện ở Pháp. Tất cả là 5 anh em phục vụ trong Quân đội. Đỗ Cao Trí, sau lại tốt nghiệp thêm khóa đào tạo Sĩ quan Quân đội Quốc Gia Việt Nam tại tỉnh Biên Hoà vào năm 1948, chỉ huy trưởng đầu tiên của binh chủng Nhảy dù QLVNCH sau khi quân đội Pháp chính thức bàn giao Liên đòan 3 nhảy dù (GAP) lại cho Quân đội Quốc gia Việt Nam vào ngày 29/9/1954, ông là một trong rất ít tướng lãnh tốt nghiệp khóa Bộ binh tại trường Bộ Binh Pháp (École d Infanterie AUVOUR), Trường Quân Sự Nhảy Dù ở Pau, Pháp Quốc, trái với các tướng lãnh khác xuất thân từ lính Khố Xanh Khố Đỏ thời Pháp, ông rất nghiêm khắc với thuộc cấp, có lần ông gõ đầu một Trung tá phi công bắt đi hớt tóc. Hồi còn Trung Úy nhảy dù quân đội Pháp, ông nhảy rớt trên nóc nhà của Đông Y sĩ Võ Văn Vân ở Thủ Dầu Một, người con gái cụ Võ Văn Vân tên Võ thị Phương Lan săn sóc, sau này là bà Đỗ Cao Trí, có hai con với ông là Đỗ Cao Dũng hiện sống tại Canada và Đỗ Cao Phương Loan định cư tại Pháp. Bà Phương Lan hiện sống tại Pháp. Sau đó ông kết hôn với người thứ hai sau khi ly dị là bà Gilberte Nguyễn chủ hãng Cosunam Film và có ba con gái. Bà từ Pháp qua định cư tại Virginia. Ông lên Đại tá vào tháng 11 năm 1955 hồi mới 26 tuổi, tổng cộng 23 năm binh nghiệp, quá trẻ nên ông Diệm hoãn lại việc lên tướng, phải đợi tới lúc ông 34 tuổi, mặc dầu ông đã là tư lệnh của binh chủng Nhẩy dù. Các chức vụ kế tiếp là Tư lệnh Quân đoàn I ngày 2/11/1963; Tư lệnh Quân đoàn II ngày 14/9/1964; ngày 14/9/1964, ông bị Trung tướng Nguyễn Khánh, lúc bấy giờ là Thủ tướng kiêm Chủ tịch Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng, giải nhiệm vì nghi ngờ ông có liên quan đến cuộc chính biến 13 tháng 9 năm 1964 do Trung tướng Dương Văn Đức chủ xướng; trong thời gian rời tạm quân đội, ông được bổ nhậm làm đại sứ VNCH tại Nam Hàn; sau đó được cụ Trần Văn Hương đề nghị với Nguyễn Văn Thiệu cho ông tái ngũ và được cử thay thế Tướng Lê Nguyên Khang trong chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III, Quân Khu III vào tháng 8/1968 cho đến chết. Về sau, ông Đỗ Cao Trí lấy vợ ba là bà Nguyễn Kim Chi là vợ của dược sĩ Vũ Huy Tân ở Nha Trang, đổi tên các con riêng của bà ra họ Đỗ. Ông có tất cả một trai năm gái. Người tôi muốn nói đến là một trong những người tình của Đỗ Cao Trí là nữ kịch sĩ Kim Cương, sau mang lon Đại Úy Việt Cộng, vì bà thân của cố Đại tướng cấm liên lạc cho là xướng ca vô loại, Đỗ Cao Trí là người có hiếu nên đã dứt khoát với Kim Cương; người mà tôi nghĩ có liên quan tới trong truyện dài dã sử "Kho tàng đập Đa nhim" của tôi trong tương lai. Đỗ Cao Trí, dầu lịch sử có phê phán thế nào, ông đã có trương mục kếch sù tại ngân hàng Thụy sĩ, do đảng Hắc Long Nhật mở, không cần tham nhũng như bao nguồn tin, chỉ có trách nhiệm quân không nghiêm khi thuộc hạ ông dính líu đến vụ tham nhũng khi hành quân ngoại biên tại Snoul, đồn điền Chup, Kampuchia. Riêng về khía cạnh quân sự, ông vẫn là tướng tài của Việt Nam Cộng Hòa đã từng làm Cộng Sản điêu đứng và khiếp sợ trên các chiến trường với cách dụng quân thần tốc và vũ bão của ông. Nhiều lần khi trận chiến đang xảy ra, ông đã đáp trực thăng xuống ngay trận địa, tại Bộ Chỉ Huy hành quân của chiến đoàn. Có lần các thiết vận xa bị xa lầy, trời đã tối mịt, vị Tư lịnh vẫn đứng ngâm chân dưới bùn lầy, chia sẻ gian khổ với quân sĩ cho tới gần sáng hôm sau, khi mà tất cả thiết vận xa được kéo ra và chuyển vận tiếp cuộc hành quân. Làm tướng "Da ngựa bọc thây", cố Đại tướng đã thực hiện ước mơ hào hùng đó, quan tài ông đã đặt trên thiết vận xa theo lời trối, tượng trưng cho kỵ mã. Ông là vị tướng đầu tiên chôn ở Nghĩa trang Quân Đội, nằm với lính. Tháng tư đen, Việt Cộng đã đục khoét mắt di ảnh ông để trả thù... cùng với đào mả lính lên để trồng khoai mì và hạ bức tượng Tiếc Thương của Nguyễn Thanh Thu. Thái độ hèn hạ trả thù người chết đó có thể so sánh khi Nguyễn Ánh cho đào mả vua Quang Trung đốt hài cốt, trộn với thuốc súng bắn lên không trung. Cái chết của cố Đại Tướng đặt nhiều nghi vấn trong đó có giả thuyết đảng Hắc Long của Nhật, trực thăng nổ trên không trung khi vừa cất cánh khỏi phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh, ông chết với nhà báo Pháp kỳ cựu Francois Sully và người phi công bà con bên vợ (bà Kim Chi) là Thiếu tá Phan Tất Đắc . Quân đoàn III đã để tang buổi sáng chào cờ, Quân cảnh đã khóc ròng cho vị chủ tướng. 10) Hoài Khanh và Tô Thùy Yên: Một nhà thơ khác nổi tiếng mà nhiều người biết đến là Hoài Khanh, quê ở Bình Thuận, lấy vợ và đóng đô ở Phước Lư, Biên Hoà luôn.
Nhà thơ Tô Thùy Yên, tên thật là Đinh Thành Tiên, tác giả nổi tiếng với bài thơ "Ta Về", ông sanh trưởng tại Gia Định thành, quê ngoại Cù Lao Phố, con ông Năm Đối. 11) Huỳnh Tấn Phát và Huỳnh Khánh Hội: Người có liên hệ nhiều đến Tân Uyên gốc gác Bình Đại, Bến Tre kế đến tôi muốn kể tên là Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát, Chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tên tuổi cũng dính liền với Tân Uyên và nhứt là chiến khu Đ vì ông đóng ở đây lâu nhất; ông nầy, sau khi Hà nội sáp nhập MTGPMN, chỉ còn làm bù nhìn và thất sủng, vì chỉ là con cờ thôi, và lá cờ MTGPMN cũng dẹp theo ông ( Xem phụ lục III của Bác sĩ Trần Nguơn Phiêu). Một tên tuổi ít người biết cũng đi vào lịch sử Biên Hoà là Huỳnh Khánh Hội, sinh năm 1895, con trai út của một gia đình lương y tại xã Phước Thiền, quận Long Thành. Năm 14 tuổi cha mẹ qua đời, đương sự xuống Bà Điểm Hốc Môn tầm sư học đạo, được võ sư Bàng Đước nhận làm học trò tâm phúc. Vào thập niên 30, đương sự đã knock out võ sĩ người Pháp Abedou tại Cercle Sportif Saigonnais. Võ sĩ Long Hữu Hội (Huỳnh Khánh) nổi tiếng như cồn từ đó, sau đó được thầy cho "xuống núi" mở trường dạy võ để sinh sống. Hai cán bộ nòng cốt Cộng Sản thời bấy giờ là Lê Hồng Phong và Nguyễn Thị Minh Khai đã đến xin nhập môn, và đương sự bỏ theo kháng chiến theo lời chiêu dụ của hai cán bộ này. Về sau, ông về hoạt động ở Quân Khu Bảy của Tướng Huỳnh Văn Nghệ, 1954 ông tập kết ra Bắc, sau hồi kết hoạt động lại tại miền Nam cho đến 1975 với cấp bực Đại tá. Hiện nay ông đã 106 tuổi vẫn còn khỏe mạnh và có rất nhiều đệ tử. 12) Huỳnh Văn Nghệ -63: Trường hợp tướng Huỳnh Văn Nghệ là một trường hợp đặc biệt phía bên kia mà tôi muốn nhắc tới. Ông cũng gốc xã Tân Tịch, quận Tân Uyên, sinh ngày 2-4-1914 tại làng Tân Tịch. Thay thế tướng Nguyễn Bình, Tư lệnh Quân khu 7, trong đó có chiến khu Đ, chỉ huy Chi đội 10 Vệ Quốc Đoàn, Tỉnh đội trưởng Thủ Biên. Tướng Nguyễn Bình bị điệu ra Bắc và bị Việt cộng báo cho Công an Pháp phục kích giết. Huỳnh văn Nghệ thời còn chống Pháp là một nhà thơ yêu nước, ông đã tỏ khí khái: Có ai về Bắc ta theo với Thăm lại non sông giống Lạc Hồng Từ độ mang gươm đi mở nước Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long. Vừa làm thơ vừa đánh giặc, giặc đây là giặc Pháp, ông xứng đáng là một nhà thơ chiến sĩ. Chiến khu Đ gắn liền với tên tuổi của Huỳnh Văn Nghệ, tướng Pháp lừng danh Salan phải thán phục cách đánh đặc công của ông. Chiến tích hiển hách của ông đánh dấu công trận kháng Pháp khi ông chỉ huy Việt Minh phục kích đánh tan đoàn công voa đi Đà Lạt đốt 59 trong số 70 chiếc quân xa của Pháp tại Là Ngà, Trảng Bom quận Định quán, trên một đoạn đường dài 9km từ cây số 104 đến cây sổ 113 trên Quốc lộ 20 giết chết 150 lính Lê Dương và 25 sĩ quan Pháp trong số đó có viên Đại tá Pháp De Résigné (giòng họ quý tộc), chỉ huy bán Lữ đoàn Lê Dương thứ 13 và Đại tá Patruit, tổng Tham mưu phó đoàn quân viễn chinh, bắt sống 269 tây đầm dân sự và chữa thương cho Trung Úy Jeffrey trước khi trao trả yên ổn được báo chí Sàigòn đăng tải khen ngợi sự nhân đạo, dư luận bên Pháp và Sài Gòn bàn tán xôn xao thời bấy giờ, làm thay đổi về nhận thức chiến tranh dành độc lập. (Trần Quang Toại khi viết về trận đánh lịch sử này trong cuốn “Đồng Nai di tích văn hóa” đã theo lệnh cấp trên không dám đá động gì đến danh tánh viên chỉ huy mặt trận Là Ngà là Thiếu tướng Huỳnh Văn Nghệ.) Viên Đại tá Thalès chỉ huy trưởng khu vực Đồng Nai bị giáng chức phải tự sát. Hồi còn tỉnh Phước Thành (Nước Vàng), Tổng Thống Ngô Đình Diệm muốn chặn họng kháng chiến, bổ nhậm Thiếu tá Nguyễn Minh Mẫn gốc Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt làm tỉnh trưởng, Mẫn đã tử trận nơi đó. Huỳnh Văn Nghệ đã đánh chiếm tỉnh Phước Thành, cứu mẹ cõng đi, người chú thứ chín của tôi là Đỗ Hữu Châu xém chết khi đang làm Trưởng ty Bưu điện ở đó, sau ông Diệm phải đóng cửa tỉnh Phước Thành. Huỳnh Văn Nghệ tập kết ra Bắc chỉ được mang lon Thượng tá, bí danh Tám Ngải, Phó Cục trưởng Cục Quân huấn. Trong Nam ông đã là Thiếu tướng (một quyển Tự điển gần đây cũng kêu ông là Thiếu tướng). Năm 1956, không có tổng tuyển cử như hội nghị Genève qui định, ông và một số đồng chí kéo ba Trung đoàn Giải phóng về bị quân chánh qui chận đánh gần sông Bến Hải, bị hạ tầng công tác làm huấn luyện viên thể thao rồi chuyển qua Cục Lâm nghiệp. Mỗi lần máy bay miền Nam không tập miền Bắc, ông bị nhốt lại, với các bạn là Francois Đặng Trí Nhơn và Nguyễn Thanh Nhàn. Ngày được về Nam (đi B) ông Nghệ và các đồng chí lúc qua sông Bến Hải, đã hướng về Bắc xá dài ba xá, ngay việc này ông đã bị cán bộ Trường Sơn tên Thanh báo cáo. Người kề cận với tướng Nghệ là thầy giáo Ngũ đã được sử gia Lương Văn Lựu nhắc qua trong bộ Biên Hoà Sử Lược Toàn Biên, ra Bắc nhờ có đạo Cao Đài, chúng cho ông làm dân biểu bù nhìn trong Quốc hội miền Bắc đổi tên là Hoàng Minh Viễn. Sau 75, ông về làm Trưởng ban Dân vận Thành phố HCM, kiêm giáo sư trường Nguyễn Ái Quốc. Ông quê ở Tân Phú, Công Thanh, Biên Hoà. Hồ chí Minh, biết dân Nam bất mãn vì bị bạc đãi, đã có chính sách Chiếu Cố Miền Nam, nhưng miền Nam đây là kể từ vĩ tuyến 17 trở vô nên thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa người Nam-Ngải của ông du học Quản Lý Hành chánh và Công An ở Liên Sô và Ba Lan, như Phó tiến sĩ Câu Lạc Bộ, Phó Tiến Sĩ Đỉa (đỉa vắt) về làm Tỉnh Ủy, Chính Ủy; người Nam thực sự, phần lớn theo học kỹ thuật, theo chế độ Xã hội chủ nghĩa vẫn ở cửa con mà thôi.
Với chính sách Nhứt Kết, Nhì Cư, Tam Chiêu, Tứ Ngụy, sau 1975, Việt Cộng chủ trương thanh trừng tập kết trên hết, sợ thả các hảo hán miền Nam như thả hổ về rừng nên loại Francois Đặng Trí Nhơn, tên thật Đặng Văn Sum, con một chủ đồn điền, cựu học sinh Chasseloup Laubat đậu Tú tài II Pháp, rất giỏi tiếng Tây Ban Nha và tiếng Pháp, là dượng rể của tôi (người chỉ huy Trung đòan tình báo xuất phát từ Thủ Thiêm đánh bót Công An Catinat giải cứu rất nhiều đồng đội; đứa con vợ kế của ông cho tôi xem hình ông chết bầm dập sau khi bị điệu trở ra Bắc học tập); và Nguyễn Thanh Nhàn (rể ông Võ Bình Tây, tiệm bán đồ phụ tùng xe hơi lớn ở đường Trần Hưng Đạo, sau 75, về tìm đào vũ khí của Cộng Hòa còn chôn dấu để trở vô bưng kháng chiến); cái chết của ông có nhiều bí ẩn. Riêng ông Huỳnh Văn Nghệ, lúc đó làm Tổng Cục Lâm Sản còn gọi là Cục Đường Rừng (trưởng phòng nhân viên là còm mi Ấn, cha của Trung tá HQ Trương Thanh Tân hiện ở Florida) bị phủ Thủ tướng gọi ra Bắc học tập cải tạo vì đã chửi đảng như hai đồng chí trên. Ông bèn vào bệnh viện Chợ rẫy (còn là bệnh viện Hàn Việt) khai bệnh cốt để tá túc. Không ngờ bọn Bác sĩ Giải phóng sợ quá, đánh điện ra Bắc Bộ Phủ để xin chỉ thị. Lệnh từ Thủ tướng Phạm Văn Đồng, là phải đem ông Nghệ lên bàn mổ mổ sống, không cần thuốc gây mê. Khi người em ruột là cô sáu Nhạn vào thăm, ông đã chết, xác ông uất ức đã hộc máu ra, trái với tin trong bài viết của Đỗ Quyên, nhà nước đã không cho gia đình mang xác ông về Tân Tịch, Tân Uyên chôn mà để cho bác và đảng chôn, lấy cớ vì ông là bậc công thần. Còn Ty Văn Hóa và Thông Tin Sông Bé trong "Bên Giòng Sông Xanh" với Hội Văn Học Nghệ Thuật Đồng Nai thì ngụy tạo là ông Huỳnh Văn Nghệ mất năm 1977 tại thành phố Hồ Chí Minh sau một cơn đau dạ dày kéo dài và bị chảy máu nặng (???), và được đem về chôn ở làng Tân Tịch. Cô sáu Nhạn, sau trốn qua Mỹ, được giáo sư Nguyễn Ngọc Huy đưa tường trình về cái chết của danh tướng Huỳnh Văn Nghệ lên một Ủy Ban thượng viện gồm sáu Thượng nghị sĩ Mỹ, từ đó người Mỹ họ mới binh lá bài Võ Nguyên Giáp bằng cách nhờ cựu Tổng Lảnh Sự Brown mời ông này qua Mỹ luôn tiện thăm hai người con gái đã có quốc tịch Mỹ, nhưng ông đã không được gặp còn bị hạ tầng công tác coi Bộ cai đẻ ngồi chơi xơi nước, truất mọi quyền hành và không được xuất ngoại, tủi hổ thay cho người hùng Điện Biên Phủ, bị Bắc Bộ Phủ trù dập, chặt tay chặt chân các tướng thân tín như Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn. Mới đây tháng 5 năm 2002, tướng Võ Nguyên Giáp được mời qua Hội Thảo tại Lubbock, Texas do Đại Học Texas Tech tổ chức, phái đoàn dự định gồm sáu người bị bãi bỏ vào giờ chót không một lời cắt nghĩa. Ngay cả viên phó tướng một thời ở chiến trường Điện Biên Trần Độ, tên thật là Tạ Đình Bách, là một người có công khuyển mã với chế độ, cho đến nỗi nhà văn Xuân Vũ còn nhắc ở trang 213 cuốn "Những bậc thầy của tôi": Chính tên tướng Trần Độ đã có lập trường mạt sát quyển Bốn Năm Sau của tôi trên báo Văn Nghệ Quân Đội. Tên nầy cũng mò mẫm viết văn để trở thành một trự Cộng Sản văn võ kiêm toàn, nhưng tới nay vẫn chỉ viết được chỉ thị. Ngày nay tướng Trần Độ đã phản tỉnh và đã bị đảng khai trừ và bị cách chức cho đến khi chết còn bị trù dập và bạc đãi vì ông hô hào cho một chế độ dân chủ và tự do. Ông đã tâm sự là khi đau yếu không dám uống thuốc của nhà nước cho mà chỉ dùng thuốc của Đinh Quan Anh Thái từ Mỹ gửi về vì sợ bị đầu độc. Đó là bài học sáng giá nhất cho những ai còn tin tưởng chế độ "nhân ái, khoan hồng, xoá bỏ hận thù" của người Việt Cộng Sản. Người có công của họ, mà họ còn vắt chanh bỏ vỏ, nói gì chúng ta lại là người chiến tuyến bên này. Mời các bạn ghé thăm tiếng thơ Huỳnh Văn Nghệ để thưởng thức thêm một tiếng thơ yêu nước của một người xứ sở Tân Uyên: "Dặm xa, vượt núi băng ngàn Gặp Là Ngà, nghĩa bạn vàng kết đôi Thề:" Dù trắc trở núi đồi Cũng liều sống thác tìm trời tự do..."
"Lệ trời tràn ngập hồn thơ Bao phen lũ hận chẻ bờ đau thương ...Gió ngang, thuyền ngược đôi dòng Đồng Nai hòa Thái bình Dương dâng trào" (Sông Đồng Nai) Hãy dừng chân lại ở "Bên Bờ Sông Xanh" để thấy con người "văn nghệ" trong con người võ biền Huỳnh Văn Nghệ: "Bờ sông xanh chiều hôm nay buộc ngựa Kiếm gối đầu, theo gió thả hồn cao Thơ tôi đây: cũng hoa bướm muôn màu Lòng tôi đấy, cũng vui sầu như bạn Tôi cũng biết nhớ thương, tơ tưởng Đâu chỉ là võ tướng hay thi nhân. Tôi là người lăn lóc trên đường trần Không phân biệt lúc mài gươm múa bút Đời chiến sĩ máu hòa chung lệ mực. Còn yêu thương là chiến đấu không thôi. Suốt một đời, gươm chẳng ráo mồ hôi Thì không lẽ bút phải chờ kiếp khác? Trên lưng ngựa múa gươm và ca hát Lòng ta say chiến trận đến thành thơ. Máu quân thù chảy đỏ quê hương ta Còn có vần thơ nào hay hơn nữa! Bạn đừng ngại người làm thơ mê ngủ Quên cuộc đời, chỉ tìm mộng làm thơ. Cũng đừng lo tôi say máu quân thù Quên ghi chép những vần thơ tuyệt diệu. Có chiến đấu thơ mới giàu vần điệu Càng hát ca, gươm càng bén sắc thêm Nợ kiếm cung, nghiên bút biết sao đền Nếu không biết vừa làm thơ giết giặc? Bờ sông xanh, chiều nay lòng dào dạt Thơ ghi xong. Bến nước giục lên đường!" -1943