Chương 35b
Xong việc, Thường-Kiệt trở về Đông-phòng. Viên thái giám Trần Văn-Thành thấy chàng thì mừng lắm:
- Thưa đại nhân, có một người bỏ trốn, y tên Trần Vĩnh. Xin đại nhân định liệu.
Thường-Kiệt phất tay:
- Những thiếu niên này đến đây là do lòng hiếu kính đối với Đông-cung, là do dâng hiến. Nay Trần Vĩnh bỏ trốn, thì thôi. Ta cứ tiếp tục.
Các thiếu niên được uống mỗi người một bát thuốc. Sau khi uống khoảng nửa khắc ( 7 phút ngày nay ) họ bắt đầu buồn ngủ. Vốn được dặn trước, họ nằm dài ra dường, lát sau tất cả đều nhập giấc ngủ mê man. Thường-Kiệt tuy đã theo cha mẹ chinh chiến, tuy đã làm tướng đánh giặc, chém giết bao phen, nhưng chàng không can đảm nhìn cảnh này. Chàng nói với Thái-y:
- Xin đại phu cứ tự tiện, tôi sang thư phòng một chút.
Vào thư phòng, Thường-Kiệt cảm thấy nóng nảy bứt rứt, chàng gọi thái giám chầu hầu:
- Người lấy cho ta bình trà.
Tên thái giám nói:
- Thưa đại nhân, vương phi ban thưởng cho đại nhân bình trà Lạng-châu, mời đại nhân xơi.
Rồi y bưng ra bình trà nóng, với chiếc chung bằng bạc. Thường-Kiệt rót trà, uống một chung. Chàng thấy dường như trà có pha bạc hà, nên hương vị bốc lên ngát hơn. Chàng vừa đọc văn thư, vừa uống, phút chốc, bình trà hết. Chàng cảm thấy mắt dí lại, rồi không tự chủ được, chàng gục xuống án thư.
Bỗng Thường-Kiệt cảm thấy như có ai vỗ vào vai mình. Chàng nhìn lại, thì thấy hai con rắn to lớn. Một con quấn quanh mình chàng, rồi cắn vào bụng dưới, một con cắn vào dương vật. Đau đớn quá, chàng nhảy dựng lên, mà chân vô lực. Chàng nghiến răng phát chưởng đánh rắn, thì chưởng không ra. Chàng lăn lộn, vùng vẫy mãi, mà không thoát. Chàng thấy thầy đồ đang đứng cạnh sư phụ Bảo-Hòa, chàng kêu lớn:
- Sư thúc cứu cháu với.
Thầy đồ lắc đầu tỏ vẻ chán ngán. Sư phụ Bảo-Hòa vỗ vào vai chàng, chàng giật mình, mở mắt, thấy mình nằm trên chiếc dường gỗ. Cạnh dường, nào Khai-Quốc vương, nào sư phụ Bảo-Hòa, nào Tôn Đản, Cẩm-Thi, nào Tạ Đức-Sơn, lại có có cả Thuần-Khanh nữa, mặt người nào cũng có vẻ nghiêm trọng. Thì ra chàng trải qua cơn ác mộng.
Nước mắt Cẩm-Thi chảy dài. Thường-Kiệt kinh hãi hỏi:
- Thưa thím, cái gì đã xẩy ra? Cháu bị bệnh mê man ư?
Thuần-Khanh khóc:
- Anh, anh bị cắt mất, bị cắt mất...
Rồi nàng nấc lên không nói được nữa.
Khai-Quốc vương đáp:
- Hồi nãy, một thái giám trong Đông-cung tới tìm bố, báo cho bố biết sau khi con tình nguyện tĩnh thân, thì nổi cơn điên, vung chưởng đập phá lung tung. Bố vội đến nơi, thì cũng đúng lúc Bảo-Hòa tới. Bảo-Hòa điểm huyệt cho con ngủ mê, rồi chúng ta đem con về đây.
Thường-Kiệt ngơ ngác:
- Con... con có tình nguyện tĩnh thân bao giờ đâu?
Bảo-Hòa gay gắt:
- Khi được báo con tình nguyện tĩnh thân, ta nhất định không tin. Nay quả nhiên đúng. Nhưng... nhưng con đã bị tĩnh thân rồi.
Thường-Kiệt kinh hãi hét lên: quả nhiên dưới háng chàng đầy vải trắng băng bó, chàng cảm thấy vừa đau vừa rát. Chàng la lớn:
- Làm gì có chuyện đó?
Cẩm-Thi ôn tồn:
- Con hãy từ từ thuật lại chi tiết vụ này cho chúng ta nghe.
Tuy sau cơn mê, nhưng nhờ nội công thâm hậu, tâm trí Thường-Kiệt vẫn tỉnh táo như thường. Chàng thuật lại chi tiết những việc đã xẩy ra. Trưởng công chúa Bảo-Hòa nói:
- Như vậy là con bị người ta đánh thuốc mê, rồi đem tĩnh thân, sau đó bịa ra việc con tình nguyện.
Bà lách mình ra cửa, rồi nói vọng vào:
- Đản đệ với Cẩm-Thi ở đây, chị có việc ra ngoài một lát sẽ trở lại.
Bảo-Hòa đi một lúc, thì trở lại, tay cầm bình trà, chung trà, bát đĩa đựng sâm thang để xuống bàn, rồi nói với Khai-Quốc vương:
- Cháu phải giữ hai tang vật này để làm bằng.
Lát sau quan Thái-phó Dương Bình với Thái-tử Nhật-Tông tới. Nhật-Tông nắm tay Thường-Kiệt:
- Kiệt, ta nhất định phải điều tra ra vụ ám hại người, xử tử tất cả chính lẫn tòng phạm. Bằng không thì kinh thành Thăng-long sẽ ngập máu.
Hai thiếu niên nắm lấy tay nhau, nước mắt chan hòa. Thường-Kiệt đau qúa bật lên tiếng rên nho nhỏ. Dương Bình điểm vào huyệt Tam-âm-giao, Quan-nguyên khiến khu hạ bộ chàng tê liệt. Vì thuốc mê chưa rã hết, Thường-Kiệt lại nhập vào giấc ngủ.
Bảo-Hòa hỏi Nhật-Tông:
- Vừa rồi em nói Thăng-long ngập máu. Cái gì đã xẩy ra vậy?
Nhật-Tông cực kỳ kính trọng Bảo-Hòa, vương chắp tay:
- Thưa chị, Ưng-sơn thực khủng khiếp. Sự việc mới xẩy ra chưa đầy hai giờ mà người đã dán hịch tại sáu cửa hoàng thành.
Nhật-Tông móc ra tờ giấy trao cho Cẩm-Thi. Cẩm-Thi cầm lên đọc:
"Thôn-phu Trần Tự-Mai, đất Thiên-trường nước Đại-Việt.
Lĩnh kiểm hiệu Thái-phó, Thượng-thư lệnh, kiêm Trung-thư lệnh
Tả-kim-ngô lãnh vệ đại tướng quân
Tổng-đốc quân mã, chinh Tây đại nguyên soái
Tước phong Tần-vương nhà Đại-Tống
Cùng trưởng đại công chúa Huệ-Nhu.
Cáo tri cùng võ lâm Đại-Việt, Đại-Tống rằng:
Phát huy sĩ khí, đem võ công cứu nước, bênh kẻ yếu, trị kẻ ác là nhiệm vụ của người tập võ. Thời Thuận-Thiên, sư huynh ta là Ngô An-Ngữ, nhân vì sự nghiệp muôn đời của tộc Việt mà làm tướng cầm quân trấn Trường-yên, lập biết bao công trạng. Khi chư vương khởi loạn, tuẫn quốc, để lại hai con thơ là Thường-Hiến, Thường-Kiệt.
Thường-Kiệt được Thái-sư Khai-Quốc vương nhận làm nghĩa tử, tiên cô Bảo-Hòa chưởng môn phái Tản-viên thu làm đệ tử. Khi tuổi mới hai mươi đã nổi danh văn mô, vũ lược, rồi lập biết bao công lao cho triều đình Đại-Việt.
Thế mà bọn gian dám mưu hại, đánh thuốc mê, đem hủy hoại thân thể, rồi cáo rằng tự nguyện làm hoạn quan. Điển chế của triều Lý khi tuyển thái giám có hai loại. Một là bẩm sinh, hai là tự nguyện thiến. Dù loại nào chăng nữa cũng phải qua cuộc sơ tuyển ở các trấn, các huyện. Những người trúng cách thì phụ huynh, được mời đến ký vào tờ biểu dâng hiến. Quan địa phương phát cho mỗi nhà một sắc chỉ khen tặng, bố mẹ được hưởng hàm ngũ phẩm.
Đến khi các ứng sinh về triều được thái y khám bệnh, rồi ty Cung-phụng hỏi lại ba lần, xem có đồng ý không, bấy giờ mới tĩnh thân. Nếu như Thường-Kiệt tự nguyện thì những văn kiện chứng minh đâu? Có ai làm chứng? Không người làm chứng, không có văn kiện thì Thường-Kiệt bị đầu độc cho mê man, bị đem tĩnh thân, rõ ràng bị ám hại.
Trời sầu, đất thảm, núi rên, sông khóc. Dù Thường-Kiệt không phải sư điệt của ta, thì cũng là hòn máu của cố đại thần vị quốc vong thân. Dù có không là con của đại thần, là dân dã chăng nữa, cũng không thể bị ám hại như vậy. Nay ta nhất quyết phải diệt kẻ ác tâm, nêu chính nghĩa võ đạo.
Vậy, nội trong ba tháng, chính phạm, tòng phạm không bị trừng trị theo luật Đại-Việt, ta sẽ xử theo luật Ưng-sơn, nhất định giết hết từ bố mẹ, anh em, vợ con, chó mèo, gà vịt, lừa ngựa, trâu bò, không tha một mạng. Kẻ nào tri tình mà che chở cho chính phạm, tòng phạm, cũng bị xử như vậy ".
Thái-phó Dương Bình cầm bình trà cùng bát đựng sâm thang lên ngửi, nếm, rồi nói:
- Tôi tưởng rằng từ khi Nhật-Hồ lão nhân cùng bọn Hồng-thiết giáo bị diệt rồi, thì những loại thuốc độc này tuyệt chủng. Không ngờ vẫn có người xử dụng được. Người đầu độc Thường-Kiệt có trình độ dùng độc chất rất cao minh. Đầu tiên bỏ một chất độc vào sâm thang. Sau nửa giờ chất độc ngấm, thì gân cốt trở thành vô lực. Cuối cùng họ bỏ một loại thuốc khác vào bình trà. Loại này làm cho Thường-Kiệt mê man. Muốn thiến Thường-Kiệt, họ chỉ cần cho cháu mê man cũng đủ, cớ sao họ lại bỏ thêm thuốc nhuyễn cân? Như vậy khi đầu độc họ vẫn sợ võ công Thường-Kiệt cao thâm, nên mới tính trước.
Khai-Quốc vương hất hàm hỏi Nhật-Tông:
- Thường-Kiệt là Đông-cung quan, phạm trường cũng là Đông-cung, vậy cháu định sao?
Mặt Nhật-Tông đỏ lên:
- Cứ như những lời tường thuật của Thường-Kiệt, thì chính phạm là Thiên-Cảm hoàng hậu và Dương Hồng-Hạc. Cả hai đều thuộc loại bát nghị, nhưng nằm trong thập ác, cháu sợ phụ-hoàng xử dụng quyền ân xá. Như vậy nhất định Ưng-sơn không bỏ qua, máu ngập Thăng-long mất.
Tạ Đức-Sơn lắc đầu:
- Thưa vương gia, thần không nghĩ như thế. Vương gia hẳn còn nhớ vụ ám hại cha con Nùng Tồn-Phúc không? Xin vương gia đặt câu hỏi: Ai gây ra vụ này? Gây để làm gì? Ai được lợi ? Tại sao họ lại làm như thế ? Đúng như lời Thường-Kiệt thuật thì chỉ cần câu lưu Thái-y Lê Bạt, thái giám Trần Văn-Thành, ba cung nữ của Khôn-cung, cùng thái giám Trịnh Ngọc thuộc Đông-cung làm nhân chứng. Nhưng thẩm quyền của thần không thể đến hoàng thành.
Cẩm-Thi hỏi Tạ Đức-Sơn:
- Bát nghị em đã biết rồi, còn thập ác là gì vậy?
- Bộ Hình-thư bản triều định rằng những người trên bẩy mươi, dưới mười lăm tuổi hoặc nằm trong Bát-nghị được miễn tố. Tuy vậy, nếu phạm một trong thập ác, thì không được hưởng Bát-nghị. Mười tội ác là: Phản quốc, đại nghịch (giết vua), giết cha, âm mưu bội phản, hung ác, vô đạo đức, bất kính bất hiếu với cha mẹ, bất mục (không hòa thuận với anh em), bất nghĩa, loạn luân. Nếu như Hoàng-hậu, Vương-phi thái-tử phạm tội gì thì được hưởng quyền nghị thân, tức thân thuộc của vua.
Nhật-Tông nói với Tạ Đức-Sơn:
- Được, cô gia ủy cho Tạ hầu được quyền điều tra trong Đông-cung. Nhưng... trong Khôn-cung, phải tâu lên phụ hoàng.
Mắt phượng quắc lên, đại trưởng công chúa Bảo-Hòa đứng dậy:
- Thưa cậu, cháu không chịu nổi nữa rồi. Đây là vụ công khai khiêu khích phái Đông-a với Tản-viên. Một cách nhục mạ phủ Thái-sư với Đông-cung. Không cần Tự-Mai ra tay, mà chính cháu ra tay. Cháu phải vào cung yết kiến cậu cả.
Bà nhìn Thường-Kiệt nằm trên dường, nét hoa cau lại, bà nói:
- Cậu cả cai trị nước thì hay, nhưng tề gia thì dở. Hết vụ Đinh phi, Hồng-Phúc, nay lại đến Dương gia. Thôi cháu đi.
Khai-Quốc vương hỏi Dương Bình:
- Thưa thái-phó, vết thương của Kiệt nhi bao giờ sẽ lành?
- Khải vương gia, nếu người thường thì mười tới mười lăm ngày. Còn thế-tử, nội công cao thâm, chỉ cần năm, sáu ngày cũng đủ. Nhưng trong năm sáu ngày đó, đau đớn vô cùng. Thần xin gửi vương-gia hộp thuốc trấn thống để thế-tử uống. Thuốc này vừa giảm đau, vừa an thần nên ngủ suốt ngày.
Trời về khuya, Khai-Quốc vương đứng lên ngụ ý tiễn khách. Từ đầu đến cuối, Thuần-Khanh không nói một lời, bây giờ nàng mới lên tiếng hỏi Khai-Quốc vương:
- Thưa bá phụ, cháu... cháu muốn ở lại săn sóc cho anh Kiệt. Xin bá phụ cho phép.
- Được, cháu cứ ở lại. Ta phải vào yết kiến hoàng huynh, e không Bảo-Hòa sẽ giết nhiều người lắm.
Công chúa Bảo-Hòa dùng kiệu vào hoàng thành. Đến lầu Thúy-hoa, đám thị-vệ, cung nga, thái giám đồng loạt hành lễ:
- Bọn đệ tử kính cẩn tham kiến tiên cô.
Nguyên từ khi Bảo-Hòa lập được không biết bao nhiêu công lao với Đại-Việt; lại nữa, công chúa tuy đã quá ba mươi tuổi, mà dung nhan cứ như thiếu nữ mười bẩy mười tám. Tuổi càng lớn, hương thơm từ người công chúa xông ra càng rộng. Người ở cách công chúa mười trượng đã thấy hương rồi. Từ đấy, trong cung, ngoài dân, cho đến võ lâm đều truyền tụng rằng bà là tiên cô con Ngọc-hoàng thượng đế giáng sinh để giúp Đại-Việt, nên ai cũng cầu mong được thấy kim nhan công chúa. Đám cung nga, thái giám, thị vệ thình lình được gặp công chúa trong đêm, người công chúa tỏa ra hương trầm thơm ngát, làm họ sung sướng vô hạn. Họ mừng đến quên cả hỏi công-chúa giá lâm có việc gì.
Công chúa đáp lễ rồi phán:
- Các vị bình thân. Xin các vị tâu với hoàng-thượng rằng có cô cầu kiến.
Một thái giám chạy lên lầu, lát sau y chạy xuống chắp tay:
- Hoàng-thượng thỉnh tiên cô.
Bảo-Hòa thoăn thoắt lên lầu. Công chúa không dùng lễ vua tôi, mà dùng gia lễ:
- Thưa cậu cháu xin tham kiến cậu mợ.
- Cháu ngồi đây đi. Có việc gì khẩn không mà cháu đến đây khuya thế này?
- Cháu biết mợ cùng toàn thể Dương gia sắp chết, nên đến chia buồn với cậu trước.
Tuy là cậu của công chúa Bảo-Hòa, là Hoàng-đế uy quyền vạn năng đối với tộc Việt, nhưng từ khi xẩy ra những lôi thôi trong nhà mình, khiến Bảo-Hòa phải xử tử Hồng-Phúc, rồi mới đây Dương gia làm bậy. Mỗi lần Hoàng-đế thấy Bảo-Hòa là ngài phát ớn xương sống. Nay nghe Bảo-Hòa nói câu đó, bất giác ngài lạnh người:
- Cái gì đã xẩy ra?
Công chúa thuật lại chi tiết vụ án. Thiên-Cảm hoàng hậu rùng mình, núp sau hoàng đế:
- Bệ hạ, oan uổng, oan uổng. Xin bệ hạ cứu mệnh thiếp cùng Dương gia.
Nhà vua nói cứng:
- Hậu đừng sợ, Tần-vương Tự-Mai không phải là người hồ đồ. Võ lâm theo vương rất đông. Vương đa sát thực, nhưng từ xưa đến giờ hàng ngàn hàng vạn vụ án xẩy ra, có bao giờ vương xử oan đâu? Còn tiên cô cũng vậy. Tiên cô là người cực kỳ minh mẫn. Nếu vụ này hậu và Dương gia không dính vào thì việc gì phải sợ.
Đến đó Khai-Quốc vương với Nhật-Tông vào. Nhà vua nắm tay vương:
- Vụ này nhỏ mà to, nó chạm đến danh dự họ Lý nhà ta không ít, nếu không điều tra ra manh mối thì loạn lớn chứ không nhỏ đâu. Ba phái Đông-a, Tản-viên, Sài-sơn đều liên quan đến vụ án, thêm phủ Thái-sư, Đông-cung, Dương phủ.
Nhật-Tông tâu:
- Để giải quyết vụ này, thần nhi xin phụ-hoàng ba điều.
- Con cứ nói.
- Một là giao cho Khu-mật viện toàn quyền điều tra. Hai là sau khi có kết quả thì tội nhân bị xử thẳng tay không thể cho hưởng Bát-nghị. Ba là cần chỉnh đốn lại hoàng-cung, không giảm thái giám cung nga được thì cũng không nên tăng. Tiền dư đó dùng khuyến khích học-phong, an ủi cô nhi. Từ đời Thuận-Thiên đến giờ, chỉ vì ta tuyển người dễ dàng quá, mà gian tế lọt vào trong quân như hai tên Phùng Lộc, Đinh Luật, rồi bây giờ đến cung nga, thái giám.
Nhà vua lưỡng lự một lúc rồi cau mày:
- Hoàng nhi luận đúng, nhưng không lẽ để hoàng-hậu, vương-phi phải đến Khu-mật viên cung khai? Ta đồng ý: cho Khu mật viện toàn quyền, nhưng không được hỏi cung Hoàng-hậu, thứ phi, thân-vương, vương-phi.
Nhật-Tông thấy Hoàng-hậu run rẩy ngồi sau phụ-hoàng, thì đoán chừng bà có dính dáng vào vụ này, vương tâu:
- Như vậy trong thời gian ba tháng vụ án e không thể điều tra xong. Khi triều đình không điều tra xong thì Ưng-sơn sẽ hành sự. Con nghĩ vậy mình chẳng cần điều tra, để Ưng-sơn làm là tiện nhất.
Quả nhiên cái oai của Ưng-sơn làm nhà vua ớn lạnh:
- Thôi được, để chính trẫm điều tra.
Khai-Quốc vương, Bảo-Hòa, Nhật-Tông về đến phủ Thái-sư thì đã quá nửa đêm. Vú Hậu đón vương ở cửa phủ:
- Khải vương gia, Tạ tiểu thư đem thế tử lên xe, nói rằng đưa về Cổ-loa dưỡng bệnh. Tiểu thư nhờ thần khải với vương gia.
- Không sao. Vết thương thiến từ xưa đến giờ có ai bị chết đâu mà sợ.
Vương lên dường chợp mắt một lúc thì trời sáng. Vương ngồi dậy nhập thiền xong, đang ăn cháo rồi vào triều, thì một thái giám từ Đông-cung phi ngựa đến. Y hành lễ rồi nói:
- Khải vương gia.
- Có gì lạ không?
- Năm cung nga, năm thái giám, cùng Thái-y phụ trách vụ hoạn ở Đông-cung đều dùng thuốc độc tự tử. Khi biết họ tự tử, vương-phi cho mời Dương thái-phó vào. Dương thái-phó tới nơi thì họ đều chết cả rồi.
Vương lấy ngựa đến Đông-cung, quan Thái-phó Dương Bình cung tay:
- Khải vương huynh, năm thái giám, năm cung nga đều dùng thứ mê thang làm mê để thiến tự tử. Thông thường muốn làm mê một người thì chỉ cần uống một bát là đủ. Đây họ uống tới ba bát, nên chết luôn. Thần chẩn mạch, thì biết họ chết từ đêm qua.
Nhật-Tông cau mặt lại:
- Thế là thế nào? Đám cung nga thái giám này vốn của Khôn-cung. Sau khi xong việc tĩnh thân tân thái giám thì phải trở về Khôn-cung chứ sao lại ở đây rồi tự tử. Đúng ra việc này do Thường-Kiệt phụ trách điều tra. Nhưng nay y bị bệnh. Con nhờ thầy xem xét dùm.
Khai-Quốc vương đưa mắt cho Dương Bình, rồi kéo Nhật-Tông vào thư phòng, vương hỏi:
- Dương huynh nghĩ sao?
- Thưa Thái-sư, họ không hề tự tử mà bị bức tử. Rõ ràng trên cổ họ đều có vết tay, chứng tỏ họ bị bóp cổ đổ thuốc vào. Như vậy là thủ phạm vụ hại Thường-Kiệt muốn giết người để diệt khẩu đây. Họ tưởng lấy vải thưa mà che mắt thánh được sao?
Nhật-Tông thở dài:
- Thưa thầy, thưa chú, con nghĩ cứ để việc này cho Ưng-sơn làm, dễ dàng hơn là mình làm. Họ có thể sát nhân diệt khẩu để phi tang. Nhưng đối với Ưng-sơn thì khó mà biện luận. Có điều tại Đông-cung, mà họ ra tay giết người như vậy thì còn trời đất nào nữa. Con muốn từ nay dù thu nhận cung nga, bộc phụ, mã phu cũng do thầy kiểm soát rồi nhận. Chứ đám cung nga, thái giám cũ này toàn là người của Dương hậu đưa vào. Có ngày họ hại cả con nữa không chừng.
Khai-Quốc vương an ủi cháu:
- Được rồi, ta nghĩ vụ này không khó. Con đem trả hết đám mã phu, bộc phụ về bên Khôn-cung. Ta sẽ lấy người từ phủ Thái-sư cho con, rồi ta tuyển cho con một số người mới. Ta đề nghị: con mời bà Ngô Cẩm-Thi làm lễ nghi học sĩ dạy dỗ tân cung nga, thái giám. Như vậy trong Đông-cung có một nữ cao thủ, ghé mắt vào mọi chuyện. Dù sao Thường-Kiệt cũng thành thái giám rồi. Đợi cho vết thương của y lành, ta cho y vào Đông-cung ở, bấy giờ đố gian tế nào qua mắt y được.
Vương trở về phủ, thì thấy Tạ Sơn đang chờ. Vương hỏi:
- Sư đệ. Có gì không?
- Thưa sư huynh, đệ đến thăm bệnh cháu Kiệt thì được biết Thuần-Khanh đã mang Kiệt về Cổ-loa từ hôm qua. Thực lạ, nếu chúng về Cổ-loa thì chiều hôm qua phải tới rồi mới phải chứ? Chắc có biến cố gì rồi.
Ông gọi viên đô thống đi theo:
- Đô-thống cho chim ưng đi tìm Thường-Kiệt với Thuần-Khanh xem sao.
Kinh nghiệm về vụ Thông-Mai, Thanh-Mai, Khai-Quốc vương nói:
- Ta sợ lại có nhân vật nào đó đón chúng đi chăng? Chứ với võ công của Thuần-Khanh, không dễ gì ai bắt cóc chúng được.
Hai sư huynh, sư đệ ngồi chờ đến chiều thì viên đô thống trở lại báo cáo:
- Khải vương gia chim ưng không tìm ra vết tích thế tử với tiểu thư. Thần sai tám cặp đi tìm, thì chỉ có bẩy cặp trở về. Vậy có thể một cặp gặp tai nạn.
Tạ Sơn nói với Khai-Quốc vương:
- Đệ sợ cái người đem hai đứa đi đó cũng biết xử dụng chim ưng, nên giữ chim lại để khỏi lộ hình tích. Chắc sư huynh nhớ hồi diễn ra trận đánh Trường-Yên, sư đệ Tự-Mai đã làm chuyện đó.
- Vậy thì có thể Ưng-sơn đã mang chúng đi chăng. Dù ai mang đi, chúng cũng sẽ tìm cách báo tin cho ta.
Ghi chú
(1)Trong các bộ Đại-Việt sử ký toàn thư, Việt-sử lựợc, Khâm-định Việt sử thông giám cương mục, sử gia Việt đều chép rằng:
" Niên hiệu Càn-phù hữu đạo thứ nhì vua Lý Thái-Tông sai cung nữ dệt gấm vóc để dùng trong nước. Lại sai đem gấm vóc của Tống trong kho ban phát cho các quan ".
Sự kiện này có nghĩa gấm vóc Đại-Việt tinh xảo hơn, nên gấm vóc Tống đem đi cho rồi. Người sau đọc sử không rõ ai đã dạy cung nữ dệt gấm, chỉ độc giả Anh-linh thần võ tộc Việt biết rõ ngọn ngành việc này mà thôi.