Chương 31b
Đô thống Chu Sơn chỉ huy đạo Bổng-nhật đáp:
- Sáng nay, năm anh em thần tuân lệnh Trịnh công công bao vây Trường-sinh, rồi gọi loa cho cha con Nùng Tồn-Phúc ra hàng. Chúng không đáp lại. Bọn thần tấn công vào ba lần đều bị binh voi, hổ đẩy lui. Tuy chưa ai thiệt mạng, nhưng ít ra có chục anh em bị thương.
Nhật-Tông truyền lệnh:
- Năm vị đem quân lui về phương Nam hạ trại. Tuyệt đối không cho quân rời doanh trại. Mọi mệnh lệnh tiến công, rút lui, giao chiến đều do cô gia ban ra. Còn Trịnh thái giám phải ở lại doanh trại với cô gia để bàn định.
Chàng nói với Hoàng Tích:
- Xét tội vô lễ của Dương Đức-Hợp đáng xử trảm. Nhưng nghĩ lại cha là Dương Đức-Uy cùng anh là Dương Đức-Khai bị giết, trong lòng có hơi nóng nảy. Tội mạ lị cô gia cũng đáng khoan dung. Xin Hoàng quân hầu cởi trói cho Dương công tử.
Hoàng Tích vẫy tay, Dương Đức-Hợp được cởi trói, y đứng dậy hướng Nhật-Tông hành đại lễ, miệng lí nhí mấy câu:
- Đa tạ Thái-tử tha mạng.
Từ nãy đến giờ Dương Hồng-Hạc tuy nhìn Thường-Kiệt bằng con mắt hận thù, nhưng trong lòng ả nổi lên một cơn bão táp:
- Trước kia ta từng nghe đồn về Thái-tử Nhật-Tông với thế tử Thường-Kiệt. Cô ta đã nói nhỏ rằng người sẽ vận động để tuyển ta làm vương phi cho Thái-tử. Sau này ta nghe con nuôi của Khai-Quốc vương tên Thường-Kiệt là một đệ nhất mỹ nam tử, văn võ kiêm toàn. Trong lòng ta hằng ước mơ làm vợ một trong hai người đó. Nào ngờ, trên bến Bắc-ngạn ta gặp người mình mơ mà không hay. Chỉ vì ta nóng nảy mà anh với cha đều bị giết chết. Bây giờ thêm vụ ông ta làm liều, đến tính mệnh toàn gia cũng khó bảo toàn chứ đừng nói làm vợ hai gã này. Thôi bây giờ một liều, ba bẩy cũng liều, ta thử kêu van xem may ra có đường sống.
Nghĩ vậy ả từ trên mình ngựa nhảy xuống, tới trước Nhật-Tông rồi phủ phục xuống hành đại lễ:
- Tiểu nữ Dương Hồng-Hạc, xin tham kiến thái tử. Người xưa nói: Không biết là không có tội. Xin thái tử mở lượng trời biển mà tha mạng cho tiểu nữ.
Sợ em dễ tính, lỡ miệng tha cho thị, e sau này khó khăn. Công chúa Kim-Thành chặn trước:
- Người hãy bình thân. Tội của người, để cho quan Hình-bộ thượng thư xét, chứ Thái-tử không thể làm trái luật.
Công chúa truyền nữ binh trói thị, bỏ sau xe.
Doanh trại được thiết lập mau chóng. Nhật-Tông mời chư tướng vào họp. Chàng tóm lược tất cả mọi biến chuyển xẩy ra cho chư tướng nghe, rồi chỉ vào Dương Bình, Thường-Kiệt nói:
- Cô gia nhất định không để quân ta đánh quân ta. Vậy bây giờ cô gia cần một người có cảm tình với cha con họ Nùng đi sứ, nói rõ chủ ý của cô gia. Trong chúng ta đây thì thầy cô gia với nghiã tử cô gia là có thể đi được. Vậy Thường-Kiệt hãy theo quan Thái-phó lên đường, trình bầy hảo ý với Nùng quân hầu.
Lý Thường-Kiệt lĩnh mệnh theo Dương Bình. Chàng lên ngựa hướng cổng chính động Trường-sinh. Còn cách động hơn năm dặm, có một đội quân ngăn lại. Đội trưởng hỏi:
- Người là ai, đến đây có việc gì?
- Phiền nhân huynh vào thưa với Hoàng-Giang cư sĩ hay Nùng tiểu công tử rằng có cố tri, cháu của Ưng-sơn Nam-hiệp tới thăm.
Lát sau Hoàng-Giang cư sĩ cùng Nùng Trí-Cao phi ngựa ra. Hai người thấy Thường-Kiệt thì kinh ngạc vô cùng:
- Nhân huynh bị bọn họ Dương bắt đi, sao lại ở đây? Kìa, đại sư ca đi đâu đây?
Thường-Kiệt hành lễ với Hoàng-Giang cư sĩ:
- Thưa sư bá, khi còn sinh tiền, bố cháu với sư bá là chỗ thâm tình. Nhưng vì hôm ở Bắc-ngạn, cháu phải giữ kín thân phận nên không thể hành lễ với sư bá.
- Cháu là con của?
- Thưa sư bá bố cháu là Ngô An-Ngữ.
Hai giọt lệ từ chảy xuống gò má Hoàng-Giang cư sĩ. Ông nắm tay Thường-Kiệt:
- Thì ra cháu. Hèn gì tư cách khác thường. Còn thiếu niên xưng là chú của cháu, rồi nhận cháu là con nuôi.
- Thưa đó là Thái-tử Nhật-Tông tước phong Khai-Hoàng vương. Vì bố cháu ngang vai với cô Bảo-Hòa, Bình-Dương, Thông-Mai, Tự-Mai, nên cháu gọi Nhật-Tông là chú. Chú hay cha thì cũng thế.
Trong khi Dương Bình với Hoàng Giang cư sĩ nói chuyện với nhau, thì Nùng Trí-Cao nắm tay Lý Thường-Kiệt:
- Thì ra đại huynh là đệ tử của tiên-cô, hèn chi tư cách khác thường. Trước đây đệ đã được bái kiến tiên cô một lần. Việc đây xong, thế nào đệ cũng xin lên Tản-lĩnh bái kiến tiên cô một lần nữa.
Nùng Tồn-Phúc ân cần tiếp đón Dương Bình với Thường-Kiệt. Dương Bình tường thuật chi tiết cùng uẩn khúc trong vụ Dương Đức-Thành cho Tồn-Phúc nghe. Tồn-Phúc cười nhạt:
_- Xưa nay, bọn ngoại thích thường nảy sinh ra gian hùng. Cái gương thời Tây-Hán, Lã hậu còn đó. Thời Đông-Hán nảy sinh ra vụ Mã hậu. Rồi cuối đời Đông-Hán cũng vì ngoại thích mà xẩy ra chiến tranh. Gần đây nhất bên Trung-nguyên xẩy ra vụ Võ hậu. Không hiểu sao Thái-sư không nhân vụ này, chặt đầu bọn họ Dương cho rồi.
Trí-Cao nói với bố:
- Theo con nghĩ, Thái-sư là người thâm tư viễn lự, ắt có cao kiến hơn. Đối với Ưng-sơn song hiệp, hẳn tiếng nói của người mạnh ngang với vương phi, hơn vua bà Bình-Dương nhiều. Tại sao người không nói, mà lại gửi thái tử với Thường-Kiệt huynh lên Bắc-biên triệu vua bà về? Điều này có nghĩa người dằn mặt tên gian thần, cũng nhắn nhủ Ưng-sơn: hãy tha cho Đức-Thành, từ nay nếu y lạng quạng thì giết cũng chưa muộn.
Dương Bình hỏi Hoàng-Giang cư sĩ:
- Khi Dương Đức-Uy đem quân đến vây bắt Nùng quân hầu, thì ai giết chết y? Sư đệ hay Trí-Cao?
Hoàng-Giang cư sĩ trình bày:
- Sự thực như thế này. Đệ với Nùng hầu, Trí-Cao ở trong khách điếm thì thái giám đến tuyên chỉ rằng có chiếu chỉ bắt cha con Nùng hầu. Rồi thị vệ xúm vào trói cả hai lại. Vừa lúc đó Đức-Uy tới. Y rút kiếm chém Trí-Cao. Đệ bắt kiếm, yêu cầu đưa cha con Nùng-hầu đến quan hình bộ xét xử. Nhưng y bảo có chiếu chỉ truyền giết cha con Nùng hầu. Giữa lúc hai bên cãi cọ, thì một người ăn mày đi qua; y khẽ vỗ tay một cái vào lưng Đức-Uy, lập tức y trợn mắt lên, rồi mặt tím đen mà chết.
Dương Bình lắc đầu:
- Chiêu số của y ra sao?
- Y ra tay bất thần, nhanh như điện chớp, đệ không nhìn rõ. Thoáng một cái y đã biến mất. Đệ nhìn lưng thấy dáng người y rất quen. Khi đệ xem lại, thì trên người Đức-Uy không có một vết thương nào, nhưng tâm, phế tạng nát nhừ ra, cho nên y chết tại chỗ. Đám thị vệ đi theo thấy Đức-Uy chết thì bỏ chạy. Đệ cởi trói cho cha con Nùng hầu, rồi bỏ chạy về Bắc-biên ngay.
Trí-Cao nói với Thường-Kiệt:
- Thường-Kiệt huynh! Huynh thử đoán xem tên ăn mày là ai?
- Theo đệ nghĩ y với thầy đồ là một.
- Đúng thế. Đệ nghĩ thầy đồ không thể là Tần-vương Tự-Mai, cũng không phải là sư thúc Lê Văn. Nhưng dường như thầy là người phái Sài-sơn. Đệ nghĩ sư bá đã đoán ra là ai, mà người không nói ra đấy thôi.
Dương Bình vỗ tay lên lưng Trí-Cao:
- Sư bá có lời khen con. Thôi lát nữa Thái-tử sẽ truyền lệnh bãi binh. Ngày mai con cũng nên theo phụ thân về triều để đối chất với gian thần.
Trí-Cao cung tay:
- Thưa sư bá, không phải con không tin sư bá, nhưng ở đời phải cẩn thận vẫn hơn. Tuy Thái-tử bãi binh, nhưng con xin ở lại giữ nhà, để phụ thân với anh Trí-Thông đi được rồi.
Một phụ nữ rất xinh đẹp hỏi Dương-Bình:
- Dương thái phó. Tỷ như khi phu quân tôi với Trí-Thông về Thăng-long, rồi bị đem chặt đầu, thì ở đây chúng tôi sẽ nổi loạn đấy nhé. Trường hợp này, thái phó tính sao?
Trí-Cao giới thiệu với Dương Bình:
- Thưa sư bá đây là mẫu thân cháu. Mẫu thân cháu nguyên là con của quan Lễ-bộ tham tri đời đức Thái-tổ, bạn rất thân của vua bà Lĩnh-Nam Bảo-Hòa. Đức Thái-tổ gả mẫu thân cháu cho bố cháu.
Dương Bình chắp tay:
- Tôi thực sơ tâm. Trước đây tôi nghe nói rằng Nùng phu nhân là đại đệ tử của sư thái Tịnh-Tuệ, chưởng môn phái Mê-linh, nhũ danh là Thuần-Anh. Hôm nay mới được tương kiến.
Ông nói với Thuần-Anh:
- Phu nhân yên tâm, việc phu nhân lo nghĩ khó có thể xẩy ra. Phe họ Dương đâu có nhiều? Trong khi đó ta còn Thái-sư, còn văn võ bách quan nữa mà. Nhưng nếu trường hợp đó xẩy ra, tôi sẽ xin từ quan, và phái Sài-sơn vĩnh viễn không hợp tác với triều đình nữa.
Thường-Kiệt hướng Thuần-Anh quỳ gối:
- Đệ tử Lý-thường-Kiệt xin bái kiến đại sư bá.
Thuần-Anh nâng Thường-Kiệt dậy:
- Năm trước được tin mẫu thân cháu qua đời, ta thương xót vô cùng. Nhưng khi được tin, thì trễ một tháng. Hồi chúng ta còn con gái, theo học phái Mê-linh, mẹ cháu, Diệu-Chi với ta rất thân. Không ngờ Diệu-Chi, Thuần-Trúc đều qua đời sớm.
Bà vuốt tóc Thường-Kiệt như trẻ con:
- Hôm trước nghe Trí-Cao nói, gặp hai thiếu niên ở Bắc-ngạn ra tay nghĩa hiệp cứu nó, ta cứ tưởng người nào đó, không ngờ là cháu. Hôm nay gặp cháu đây, ta tặng cháu món quà.
Bà dắt Thường-Kiệt ra ngoài, đến tầu ngựa, rồi chỉ vào con ngựa trắng như tuyết, cao lớn dị thường:
- Đây là con bạch mã long câu. Hồi cách nay năm năm, ta cùng Trí-Thông đi săn, thình lình chim ưng ré lên báo hiệu cho ta biết có sự gì lạ. Ta theo chim ưng dẫn đường vào trong thung lũng xa hàng chục dặm thì thấy nó. Ta tung dây bắt, nó hí lên rồi tránh khỏi. Ta phải quăng đến mười lần mới bắt được. Bắt rồi, ta nhảy lên lưng nó. Nó không chịu định vật ngã ta. Ta trổ khinh công, cùng võ công mà hơn giờ mà nó không phục. Hay đâu Hoàng-Giang cư sĩ tới. Người chỉ dẫn phép phục ngựa của Phù-Đổng Thiên-vương cho ta, mới thu phục được nó. Nay ta cho cháu.
Thường-Kiệt bái tạ. Thuần-Anh vỗ lưng ngựa:
- Bạch-mã, người phải theo cháu ta, phục thị cháu ta như phục thị ta nghe.
Con bạch mã hí lên một tiếng rồi liếm tay Thường-Kiệt tỏ vẻ thân ái.
Nùng Tồn-Phúc nói với Dương Bình:
- Tôi tin thái phó. Vậy bây giờ tôi sẽ đi với thái phó đến yết kiến Khai-Hoàng vương.
Dương Bình, Thường-Kiệt dẫn Nùng Tồn-Phúc, Nùng Trí-Thông lấy ngựa đến doanh trại Khai-Hoàng vương. Bốn người vừa tới nơi, Nhật-Tông cùng công chúa Kim-Thành, phò mã Thuận-Tông đã ra trước trại đón. Tồn-Phúc chắp tay:
- Vương gia, công chúa, phò mã. Cha con thần mình mặc giáp trụ không hành lễ được. Mong vương gia, công chúa, phò mã dung thứ.
Nhật-Tông nắm lấy tay Tồn-Phúc:
- Nùng hầu! Giữa Nùng hầu với cô gia cùng ở trong một hoàn cảnh tại Bắc-ngạn. Nùng hầu khỏi cần giảng giải, cô gia khỏi cần biện minh. Việc phụ hoàng và thúc phụ sai cô gia lên đây, đủ tỏ cho mọi người biết những điều sai trái về phía Dương gia.
Công chúa Kim-Thành truyền đặt tiệc.
Tồn-Phúc hỏi Thường-Kiệt:
- Dường như trên đường từ Bắc-ngạn về Thăng-long, thầy đồ còn theo thế tử để giúp đỡ thì phải.
- Thưa quân hầu vâng.
Rồi chàng thuật chi tiết những gì thầy đồ đã âm thầm giúp đỡ chàng. Nhất là lúc chàng ở trong tù thầy trao bản nháp của Dương Đức-Thành cho chàng.
Tiệc tàn, Nhật-Tông nói với Nùng Tồn-Phúc:
- Nùng hầu, ngay thời vua Trưng, còn có gian thần Lê Đạo-Sinh, Phong-châu song quái. Thời Thuận-Thiên còn có Đàm Can. Trong triều hiện nhưng trung thần văn mô vũ lược không thiếu, nhưng cũng có gian thần họ Dương. Vậy cô gia cùng Thường-Kiệt theo thầy về Thăng-long trước. Nùng hầu thu xếp mọi việc rồi mau mau lai kinh. Cô gia sẽ sai quét ngõ, lau cổng, tiếp đón Nùng hầu, sau đó chúng ta bàn truyện Bắc-chinh.
Chàng gỡ viên ngọc trên mũ trịnh trọng trao cho Nùng Tồn-Phúc:
- Gửi Nùng hầu tín vật này tặng Trí-Cao. Xin Nùng hầu nhắn với Trí-Cao rằng: ở Thăng-long có Nhật-Tông, Thường-Kiệt đang mong người bạn trẻ Trí-Cao đấy.
Nùng Tồn-Phúc lĩnh ngọc.
Dương Bình cùng Nhật-Tông từ biệt công chúa Kim-Thành rồi nhắm động Giáp phi ngựa. Còn cách mấy chục dặm, đã thấy một đoàn người ngựa dàn ra uy nghi. Đi đầu là một thớt voi, trên có một thiếu phụ áo trắng cực kỳ xin đẹp. Nhật-Tông nhìn kỹ, thì ra người mà chàng nhớ nhung ngày đêm: vua bà Bắc-biên Bình-Dương. Nhật-Tông ruổi ngựa thực mau, tới trước voi Bình-Dương thì tung mình nhảy lên ngồi ngay trước bà:
- Chị! Em nhớ chị chết đi được.
Vua bà Binh-Dương rơm rớm nước mắt vuốt tóc Nhật-Tông:
- Chị cũng nhớ em lắm. Chuyện Bắc-ngạn chị hiểu hết rồi. Biết em lên Trường-sinh sau đó tìm chị, nên chị đón đường chờ em. Em hay thực. Có ai ngờ ông vua con bị người ta quẳng vào ngục như con chó tiền rưỡi mà vẫn không giận. Chị Bảo-Hòa nghe tin này chắc vui lắm. Ngày trước chị cũng bị Đàm An-Hoà liệng vào ngục. Nhưng nhờ có thái cô với sư phụ, mới đủ đức nhẫn. Nay mình em mà có đức nhẫn này thực xứng đáng làm ông vua nhân từ. Thôi chúng ta về Thăng-long.
Vua Bà nói chuyện với Dương Bình. Hồi vua bà còn là công chúa Bình-Dương cùng Thanh-Mai, Bảo-Hòa đến Vạn-thảo sơn trang. Bấy giờ Dương Bình là đại đệ tử của Hồng-sơn đại phu. Hai bên đã quen biết nhau. Nhưng nay cả hai đều ở địa vị tối cao của đất nước, nhưng vẫn giữ được thân mật như thủa nào.
Vua bà Bình-Dương nói với Nhật-Tông:
- Em thực là sướng. Sư phụ dạy võ là chị Bảo-Hòa, thầy dạy văn là Dương thái phó. Cả hai cùng yêu thương em như yêu thương chính thân mình. Đức Thái-tổ nhà ta xuất thân từ cửa chùa, suốt đời chỉ mưu cầu cho dân giầu, nước mạnh. Phụ hoàng thì lo gìn giữ những gì đức Thái-tổ đã tạo được. Chị nghĩ đến em lại khác, em cần yêu thương dân như yêu chân tay mình.
Nhật-Tông ngồi ngay ngắn trên mình ngựa, chắp tay:
- Em xin ghi nhớ lời chị dạy.
Thế rồi suốt dọc đường, vua bà Bình-Dương, cùng Dương Bình thảo luận về phương thức làm cho dân giầu, thì nước mạnh, ngược với Tống, chủ trương nước mạnh trước dân giầu khác nhau thế nào. Hai trẻ Nhật-Tông, Thường-Kiệt im lặng ghi nhớ. Cả hai đều biết rằng, thời gian phải thay cha, anh cầm vận mậnh dân chúng không xa. Cả hai cùng cảm thấy cái họa ngoại thích đã làm triều Hán, triều Đường bên Trung-nguyên khốn đốn. Gần đây Đại-Việt có minh quân như vua Thái-tổ mà còn bị nạn Đàm quý-phi. Nay đang bị nạn Dương hoàng hậu.
Thình lình Thường-Kiệt hỏi:
- Tấu vua Bà, hoàng thượng truyền vua Bà về kinh để xin với Ưng-sơn song hiệp tha mệnh cho Dương tể tướng. Nhưng Ưng-sơn song hiệp là sư thúc Tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu đều không ra tay, vậy???
Từ đầu đến cuối, phò mã Thân Thiệu-Thái không nói một câu, bây giờ ông mới lên tiếng:
- Để chú dạy khôn cho con. Những người lãnh đạo quốc gia như Thái-sư, thường hành sự rất cao xa. Con phải tập hiểu lối làm việc ấy cho quen. Đã đành người treo án tử hình Dương gia là thầy đồ, không phải sư thúc Tự-Mai. Thầy đồ là ai? Trong trong thế gian này, hỏi người nào có gan bằng trời mà dám xưng là Ưng-sơn ? Nếu không phải là người cực thân tín của sư thúc Tự-Mai.
Nhật-Tông, Thường-Kiệt cùng gật đầu. Nhật-Tông hỏi:
- Em nghĩ chỉ có bằng này người xưng là Ưng-sơn, mà sư huynh Tự-Mai cũng cười xòa, không nói gì. Một là Thuận-Thiên thập hùng, hai là Thiên-trường ngũ kiệt, ba là sư huynh Thông-Mai.
Thường-Kiệt nói với Nhật-Tông:
- Nghĩa phụ, con nghĩ ra rồi. Chắc Thái-sư biết rõ ai đã ra tay. Nếu như Thái-sư chỉ tuyên bố một câu rằng: thôi tha cho Dương tể tướng, thì người ấy tha liền. Nhưng Thái-sư muốn triệu hồi vua Bà, như vậy để cho Dương gia biết tội, từ nay không dám đụng đến nghĩa phụ nữa.
Phò mã Thân Thiệu-Thái vỗ vai Thường-Kiệt:
- Giỏi. Khi con kể rằng: thầy đồ nhìn con với Thái-tử bằng đôi mắt thương cảm như cha với con, như thầy với trò, chú đã đoán ra ông ta là ai rồi. Chắc Thái-sư cũng đoán ra. Bây giờ thì con cứ im lặng, thầy đồ lúc nào cũng ở gần Thái-tử với con.
Đức của công chúa Bình-Dương đối với Đại-Việt rất lớn. Từ ngày bà cùng phò mã Thiệu-Thái tiếp nối ngôi vua bà Bắc-biên, ngoài đòi lại tất cả 102 khê động bị Tống chiếm mất, thành ra con số 207 khê động trở về với Đại-Việt. Công chúa lại khéo hòa giải, nên hơn mười năm, mà không một động chủ, trang chủ nào xung đột nhau. Trong thì dùng đức từ bi của nhà Phật cai trị dân. Dân chúng ấm no sung sướng, nên chưa từng có một án tử hình đã đành, mà đến án tù một hai năm cũng không có. Thảng hoặc chỉ có những án trẻ con phá phách, bị đem ra giữa làng, giữa đình đánh đòn mà thôi.
Thời bấy giờ đạo Phật cực thịnh, nên dân Đại-Việt tin rằng công chúa Bảo-Hòa là tiên cô trên thượng giới giáng trần. Bố-Đại hòa thượng là Phật Di-Lặc giáng thế. Còn vua Bà Bình-Dương là Quan-Âm phân thân giáng sinh. Mấy ngày qua, dân Thăng-long đồn rằng Dương gia phạm tội, đức vua với Thái-sư triệu hồi vua Bà về xử tội Dương tể tướng, nên họ chuẩn bị sẵn. Khi xa xa, thấy voi vua Bà tới, già trẻ dẫn nhau ra đường thắp hương mà đón. Vua Bà xuống voi, ân cần thăm hỏi từng người.
Vì thăm hỏi dân chúng, nên mãi tới giờ Thân, Bà mới dẫn phò mã với Nhật-Tông, Thường-Kiệt vào hoàng thành yết kiến hoàng đế. Hoàng đế để các con hành lễ xong rồi chỉ ghế bên cạnh, ra hiệu cho vua Bà, phò-mã an tọa. Nhật-Tông, Thường-Kiệt lui ra sau khoanh tay đứng hầu.
Nhà vua hỏi phò-mã:
- Thế nào, dân chúng an vui cả chứ? Trẻ vẫn chăm học cả chứ? Già yên ổn cả chứ? Các động chủ, châu chủ vẫn bình thường chứ? Vụ mùa vừa qua Bắc-biên trúng nhất. Gió thuận, mưa hòa, thú vật không bệnh. Các con có tha thuế cho dân không?
- Tâu phụ hoàng chúng con xin các châu, động tha thuế một năm. Riêng Phong-châu thì Kim-Thành tha hai năm.
- Được. Con bé đó là một tiểu Khổng-tử.
Nhà vua thở dài:
- Không phải là ta bất minh. Thời đức Thái-tổ có Đàm Can. Bây giờ có quốc trượng Dương Đức-Thành. Con thử nghĩ xem, nếu con là Thiên-Cảm hoàng hậu, ắt con cũng làm những gì để cứu phụ thân. Chúng ta theo đạo đức Thế-tôn, lấy chữ hiếu làm đầu. Vì vậy hoàng hậu khẩn khoản xin ta cứu mệnh cho Dương-gia. Chú con cho rằng người ra tay trừng phạt Dương-gia không phải là Tần-vương Tự-Mai. Người ước tính rằng con có thể cứu được Dương quốc trượng.
Nhà vua nhìn Nhật-Tông:
- Thực là oan gia! Hôm trước ta với Hoàng-hậu đã ngỏ lời tuyển Dương Hồng-Hạc làm vương phi cho em con. Do hai mối dây liên hệ, nên ta muốn con khoan dung cho họ Dương lần này, gọi là cái nghĩa của thông gia. Con định phạt Dương gia ra sao?
Nghe nhà vua phán, Nhật-Tông đưa mắt nhìn Thường-Kiệt, bốn mắt gặp nhau, như cùng ngụ ý : con nhỏ đành hanh Dương-hồng-Hạc mà làm vương phi của Nhật-Tông, thì cuộc đời Nhật-Tông sẽ đen tối vô cùng.
Vua Bà cung kính:
- Con xin tuân chỉ phụ hoàng. Con xin đề nghị một hình phạt cho Dương gia: tất cả người trong Dương phủ, bất kể già, trẻ, lớn, bé đều phải đến đền thờ vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, đền thờ Bắc-bình vương Đào-Kỳ cùng vương phi để quét dọn, làm cỏ. Như vậy tỏ ra rằng phép nước rất nghiêm, đến quốc trượng cũng phải thọ hình, lại tỏ ra rằng phụ hoàng lấy từ bi khoan dung cho kẻ xám hối.
Nhà vua hài lòng, lên tiếng:
- Mời Hoàng-hậu ra.
Thiên-Cảm hoàng hậu từ trong màn bước ra. Luật thời Lý định rằng: Hoàng-hậu là mẫu nghi Đại-Việt. Vì vậy vua Bà hô phò mã cùng hai trẻ Nhật-Tông, Thường-Kiệt quỳ gối hành đại lễ. Hoàng-hậu đỡ vua Bà dậy:
- Miễn lễ.
Bà nhìn Nhật-Tông:
- Vụ án Bắc-ngạn, cũng may không đến nỗi như vụ án Thanh-hóa năm xưa. Con ạ, mẫu hậu được chỉ dụ của phụ hoàng, định tháng sau tuyển Hồng-Hạc làm chính phi cho con. Ta nghĩ Hạc là cháu ta. Con là con ta. Như vậy Hạc sẽ giúp con nhiều trong việc trị dân sau này. Ta nghe Kim-Thành bắt trói Hồng-Hạc, bây giờ con giam Hạc ở đâu?
Nhật-Tông cung kính:
- Thưa mẫu hậu, chị Kim-Thành chỉ nói Dương tiểu thư sẽ được giải giao cho quan Hình-bộ để xét xử. Thần nhi không biết hiện tiểu thư ở đâu.
Nhà vua gọi thái giám:
- Nhà ngươi trình với quan Cần-chính điện đại học sĩ ban chỉ khẩn cấp gửi lên Phong-châu, truyền ân xá cho Dương Hồng-Hạc ngay.
Nhà vua hỏi Nhật-Tông:
- Công việc bình Nùng Tồn-Phúc ra sao rồi?
Nhật-Tông tâu tỷ mỷ từng chi tiết một. Nhà vua sa sầm nét mặt lại:
- Như vậy họ Nùng vẫn còn hận triều đình, nên mới để Trí-Cao với Thuần-Anh ở lại, thế là ra dạ bất trung. Ý hắn muốn mặc cả với ta rằng: phải phong thưởng cho hắn, tạ lỗi với hắn hẳn? Bằng không con hắn với tộc Nùng sẽ nổi lên chống triều đình? Ta mà tỏ ra khiếp nhược, thì tương lai khó có thể trị đám khê động. Được, thử xem ta có trị được hắn không?