Chương 37b
Công chúa Bảo-Hòa đứng trên đỉnh ngọn núi cao nhất Trường-sinh. Cạnh công chúa có đại sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử, Lưu Tường cùng một số đệ tử Tản-Viên. Bốn nàng Mai, Lan, Cúc, Trúc theo hầu bên cạnh. Vừa đúng giờ Dần, công chúa truyền đánh lửa rồi châm vào phong hỏa đài. Phút chốc lửa bốc lên cao tận mây, ánh sáng đỏ tươi chiếu rực bầu trời.
Quốc-sư Huệ-Sinh hỏi:
- Tiên cô ! Kế hoạch tiến quân của đạo Trường-sinh, Hoa-sen, Thượng-oai bần tăng đã biết rồi. Không biết giờ cuối cùng, tiên cô có thay đổi gì không?
Bảo-Hòa đáp:
- Kính Quốc-sư không có gì thay đổi cả. Đúng kế hoạch, thì đội võ sĩ phái Đông-a đã ẩn trong thành Liễu-châu từ trước, do chính chưởng môn Phụ-Quốc chỉ huy. Khi họ thấy ánh lửa phong hỏa đài, lập tức nhanh chóng đốt dinh Kinh-lược an vũ sứ, chuồng ngựa, mở bốn cổng thành ra cho đạo kị mã Hoa-sen với đội thú xung vào làm nát lòng quân Tống. Sau đó đạo kị mã, bộ binh tiến vào sau. Đám năm nghìn quân bộ, ba nghìn kị Tống sẽ bị bắt hết. Lê Văn dùng đám quân đó là phu khuân vác lương thảo cùng dụng cụ cho đạo Hoa-sen, rồi tiến lên Quế-châu. Tôi độ chừng khi Văn đệ tới Quế-châu thì Vương Duy-Chính mới biết. Nếu y tập hợp được binh sĩ thì Văn đệ phải đánh thành. Còn trường hợp y không tập trung được quân thì sẽ bỏ chạy về Linh-lăng. Văn đệ sẽ đuổi theo.
Nùng-Sơn tử là vai sư thúc chưởng môn Bảo-Hòa. Rất giỏi về khoa tướng mệnh, ông nói:
- Chưởng-môn trao nhiệm vụ chiếm núi Ngũ-lĩnh cho Lê vương gia thực đúng. Bần đạo coi tướng vương gia, là người trung hậu, bác học, đa năng, suốt cuộc đời tắm trong y đạo. Cứ việc sang Xiêm thì rõ. Nếu muốn, vương có thể đem công chúa về Đại-Việt ở. Nhưng vương nghĩ , tục lệ Xiêm định rằng con trai lấy vợ, phải giúp gia đình nhà vợ. Vì vậy vương đồng ý, đem ngay trăm y sinh sang Xiêm truyền y đạo. Rồi bây giờ ta đem quân đòi cố thổ, vương đi tiên phong.
Bảo-Hòa ghé vào tai đạo sư nói nhỏ:
- Tại đền thờ Quốc-tổ ở đỉnh Thiên-đài còn .... vì vậy đệ tử phải để Văn đệ lên đó. Vả đạo quân của Văn đệ có thể gặp đạo quân của Kinh-Nam vương Tự-Mai. Hai người này thân với nhau như tay phải với tay trái. Nên nếu binh tướng hai đạo lỡ đụng nhau, cũng dễ hóa giải.
Công chúa tiếp:
- Ưu điểm của ta là đánh thình lình, khiến chúng choáng váng không biết đâu mà phòng, mà chống. Các đạo khác thì đệ tử thiết kế. Còn đạo Phong-châu, Lạng-châu thì do nhị huynh Thiệu-Cực với Tôn Đản, Cẩm-Thi chỉ huy. Tài dùng binh của Tôn Đản e thế gian này chỉ Tự-Mai là bì kịp. Tài cai trị dân thì Kim-Thành, Cẩm-Thi e không thua công chúa Phùng Vĩnh-Hoa thời vua Trưng. Nhị huynh tài trí tuyệt vời, nên đệ tử để ảnh tự thiết kế. Hôm trước họp xong, lúc trở về chính ảnh vượt biên đến Liêm-châu, Khâm-châu nghiên cứu tình hình. Ảnh cho biết tại Khâm-châu Tống có một hạm đội, khoảng vạn rưỡi người. Ban ngày họ chia làm bốn thủy đội đi tuần tiễu, một thủy đội giữ cảng. Ban đêm thì tất cả về bến đậu. Binh sĩ lên bờ hết. Mỗi chiến thuyền chỉ để lại một, hai người canh gác. Thường đêm, chúng ngủ hết. Trong Liêm-châu có đạo binh 331, 332. Thường binh lính ở lẫn với dân. Sáng điểm danh một lần rồi cho về. Đêm có bốn đội, mỗi đội mười người canh bốn cổng thành. Vì vậy anh ấy quyết định đánh úp Khâm-châu, Liêm-châu.
Huệ-Sinh hỏi:
- Tướng trấn thủ Khâm-châu, Liêm-châu là ai?
Bảo-Hòa hỏi Bảo-Dân:
- Xin sư huynh cho biết.
- Trấn Khâm-châu là viên Huyện-lệnh Tiêu Chú. Y xuất thân là nho sinh, đậu tiến sĩ, văn mô, vũ lược, tài trí khó ai bằng. Nhưng hiện y đang lên Tuyền-châu coi việc đóng thuyền, nên tại Khâm-châu chỉ có viên Đề-điểm hình ngục trông coi. Còn tướng trấn thủ Liêm-châu là Tô Giám. Tô Gíam là người đọc sách, xuất thân tiến-sĩ, tuổi y còn trẻ, nhưng tài trí tuyệt vời. Vì y là người Quảng nên triều Tống không trọng dụng, bổ y coi châu Liêm. Kế hoạch thì anh Thiệu-Cực với Tôn Đản định như sau: chia quân làm hai đạo. Đạo đi đường bộ và đạo đi đường biển. Đạo đường bộ do anh Thiệu-Cực chỉ huy. Đạo đường biển do Tôn Đản, Cẩm-Thi chỉ huy.
Huệ-Sinh bằng lòng:
- Cặp Tôn Đản, Cẩm-Thi thực ngàn năm mới có một. Hồi đi sứ, tuổi họ còn trẻ, mà hành sự như những người già. Huống hồ bây giờ tuổi họ đã trung niên. Năm trước, trong cuộc Nam chinh, tiếng rằng Hoàng- thượng thân chinh, chứ thực ra hoàn toàn do Tôn đại hiệp tổng chỉ huy cả.
- Đản đã định rằng: đêm qua y đem tất cả thú rừng của Phong-châu, Lạng-châu xuống chiến thuyền. Thuyền vượt biển suốt đêm, sao cho sớm hôm nay tới cửa biển Khâm-châu. Trong khi đó Kim-Thành, Thuận-Tông chuẩn bị sẵn. Khi thấy Phong-hỏa đài cháy thì đội Tế-tác Tây-vu bên trong thành Khâm, Liêm mở tung cửa thành ra, đạo binh Lưu Tường, Tôn Mạnh ào vào chiếm thành. Còn Tôn Đản, Cẩm-Thi đánh úp chiếm hạm đội đậu trên bến. Đạo Phong-châu vượt biên tiếp ứng. Đạo Lạng-châu thì tiến thẳng về thành Quảng-châu. Anh Thiệu-Cực ước tính, sau khi chiếm thành Khâm-châu, Liêm-châu thì đạo binh Tôn Đản chia quân làm hai. Một cánh tiến về Tây tao ngộ với cánh của Trường-sinh, một cánh tiến về đánh Quảng-châu.
Công chúa phải ngừng lại, vì tín hiệu pháo thăng thiên tại Hoành-sơn, Củng-châu vọt lên trời, rồi toả ra mầu tím. Đám đệ tử Tản-viên reo lớn:
- Thành công rồi. Đã chiếm được Hoành-sơn, Củng-châu.
Từ xa xa, ánh lửa Phong hỏa đài bốc lên ngút trời. Đám đệ tử Tản-viên lại reo:
- Phong hỏa đài Tầm-châu cháy rồi, chắc Bình Nam đại tướng quân và quận chúa Đào Phương-Hồng đang công thành, nên Tống đốt phong hỏa đài cầu cứu.
Trời dần sáng, ánh nắng chứa chan chiếu trên đỉnh núi, chim hót líu lo. Những con chim ưng từ khắp mặt trận liên tiếp đưa thư về. Công chúa Bảo-Hòa, Quốc-sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-Sơn tử đọc thư, rồi chỉ thị, lại phải thông báo tin của đạo này cho đạo khác cùng gửi tấu chương về triều. Hoàng Tích cùng đội ưng binh làm việc không ngừng.
Vào khoảng giờ Ngọ, có chim ưng đem thư đến. Hoàng Tích cầm tù và thổi. Cặp chim ưng từ từ hạ cánh. Ông lấy thư trong ống dưới chân chim cung kính trình Bảo-Hòa:
- Thưa tiên cô, thư của chị Cẩm-Thi.
Bảo-Hòa mở thư ra đọc:
" Giờ Dần, trong thành Khâm-châu có ba tiếng pháo nổ, bốn cửa thành mở rộng. Lưu Tường chiếm thành trong vòng nửa giờ. Tất cả binh, tướng, các quan văn võ đều đầu hàng. Tại Liêm-châu, Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên chiếm thành dễ dàng. Tô Giàm trốn mất trong loạn quân. Đản với muội chiếm các chiến hạm không người thực dễ dàng. Trao việc cai trị cho các quan gốc người Quảng hay Việt. Quan, quân nhất nhất mỗi người đều được thăng một trật. Dân chúng được xá thuế trong nửa năm, ai thiếu thuế năm trước đều được tha hết. Thả hết tù. Yết bảng cho sĩ dân, ai đã đậu đạt, mà Tống triều không dùng, thì đến trình diện, sẽ được cử vào những chức vụ tùy khả năng. Bẩy nghìn dân binh cùng năm nghìn chính binh đầu hàng. Trộn lẫn dân binh, chính binh với binh Lạng-châu, thành đạo binh lớn".
Đến chiều lại có thư của Thiệu-Cực:
"...Anh hai với Kim-Thành, Thuận-Tông xuất quân đúng giờ Dần, đánh chiếm các đồn phía phải đạo Trường-sinh dễ dàng. Giờ Mùi thì tới Khâm-châu bắt tay với đạo của Tôn Đản. Bỏ kế hoạch tách làm đôi. Không tiến về Tây bắt tay với đạo Trường-sinh. Để Lưu Tường trấn Khâm-châu, Tôn Mạnh, Thanh-Nguyên trấn Liêm-châu. Kim-Thành tiến về Khai-bình, Giang-môn rồi đánh Phật-sơn. Ta với Tôn Đản, Cẩm-Thi dùng chiến thuyền của ta với chiến thuyền thu được của Tống, vượt biển đánh úp Quảng-châu chứ không đi đường bộ như dự liệu".
Bảo-Hòa đưa mắt nhìn Nùng-Sơn tử:
- Sư thúc. Từ trước đến giờ anh Thiệu-Cực với cháu thường xung đột nhau về việc dùng quân. Cháu thì cho rằng quân mình là quân mình. Không nên trộn lẫn với quân người. Nhưng anh Thiệu-Cực lại cho rằng quân Lưỡng-Quảng không tự coi là binh Tống, cũng chẳng tự coi là binh Việt, khi bắt được binh Quảng, cứ trộn lẫn hai người họ với một người mình, có thể tạo thành đội binh lớn. Bây giờ thêm Tôn Đản, Cẩm-Thi cũng đồng ý với anh hai. Cháu sợ đạo binh đó khó trung thành...
Nùng-Sơn tử đáp:
- Công chúa hơi lo xa. Tôn Đản, Cẩm-Thi hiểu rất sâu về tâm tình người Quảng. Hơn nữa quốc công Thiệu-Cực cầm quân lâu, người hiểu rõ tình hình hơn ta. Nếu như đội quân hỗn hợp dùng để trấn Đại-Việt thì không nên. Còn như dùng trấn hay đánh Lưỡng-Quảng thì lại cần thiết. Vì khi quân, tướng người Quảng trấn đất Quảng họ hiểu dân tình hơn, lại nữa dân có cảm tưởng là người Quảng cai trị người Quảng chứ không phải người Việt cai trị họ.
- Đa tạ sư thúc minh thị.
Mãi đến tối mới có thư của đạo Hoa-sen. Bức thư hơi dài, Bảo-Hòa mở ra đọc:
"... Trên đường đi, dùng cờ Tống, vì vậy đội kị binh tới Liễu-châu thực dễ dàng. Vì không thông thuộc đường lối, nên tới nơi vào giờ Mão, thành đã mở cửa. Quân giữ thành thấy kị binh, chưa kịp phản ứng, thì thành đã bị chiếm. Tuyệt không thấy tế tác của sư huynh Phụ-Quốc hành động. Có cuộc giao tranh nhỏ giữa đội vệ sĩ của Cao Nhất với kị binh. Cao Nhất bị giết chết. Đã yết bảng an dân. Trao thành cho Trường-Ninh, Thiện-Lãm rồi tiến lên Quế-châu..."
Đính kèm có bản kê khai các thành mà hai đạo Hoa-sen, Thượng-oai chiếm được, cùng quân số Tống đầu hàng, danh sách các quan lại bị bắt. Một bản của công chúa Trường-Ninh kê khai chức vụ các quan Tống được giữ nguyên cùng danh tính những nhân tài mới ra trình diện, được bổ nhiệm.
Quốc-sư Huệ-Sinh khen:
- Lê Văn từng cai trị, trấn nhậm, đánh dẹp, nên bản báo cáo thực chi tiết. Còn các đạo kia họ chỉ báo binh tình thôi.
Bảo-Hòa truyền cho Hoàng Tích:
- Viết thư gửi cho Phụ-Quốc hỏi tin tức xem sao? Có biến cố gì không?
Hoàng Tích vội sai viết thư.
Đến đêm thì có một kị mã tới trình diện tổng hành dinh, xin yết kiến Trưởng đại-công-chúa. Quân canh dẫn vào. Bảo-Hòa nhìn ra thì là Vi Chấn. Vi Chân nói ngay:
- Thưa chị em về báo tin mừng của đạo Trường-sinh.
Rồi y thuật.
Đạo của Thuần-Anh, người ngậm tăm, ngựa buộc hàm. Đội kị mã đi trước, kế tiếp là đội thú. Thú đặt trong những cũi để trên xe. Từ chỗ xuất phát đến Hoành-sơn phải qua một khu rừng thưa. Khi qua hết khu rừng thưa thì đã thấy thành trước mặt. Thuần-Anh cho quân ẩn vào phía xa xa cách thành một quãng, vừa đủ để tránh con mắt binh canh.
Vừa nhìn thấy ánh lửa Phong hỏa đài, bà hô lên một tiếng, thú binh mở cũi, cầm tù và rúc lên. Đoàn thú gầm gừ đến chân thành. Khi còn cách thành hơn dậm, thì trong thành có tiếng reo hò, rồi lửa cháy đỏ rực. Bốn cánh cổng thành mở rộng. Thuần-Anh phi ngựa vào thành đầu tiên. Một đội võ sĩ hơn mười người hô lớn:
- Phu nhân đánh vào trung ương đi. Chỗ kia là dinh trấn thủ.
Thuần-Anh lao ngựa đi trước. Đoàn thú ào vào, tiếp theo đoàn kị mã, rồi tới bộ binh. Quân Trường-sinh đã đóng giữ bốn cửa thành. Quân canh đang ngủ, thình lình bị bắt trói. Họ ngơ ngơ ngác ngác không hiểu những gì đã xẩy ra. Toàn quân trong thành bị bất ngờ, vì đang ngủ lẫn ở nhà dân.
Thuần-Anh cho đội thú vây kín phủ tổng trấn. Dường như bên trong không có quân canh gác. Đội cảm tử phái Tản-viên tiến vào lục soát, bắt được vợ con, gia bộc, nhưng không thấy Đức Quang đâu. Thuần-Anh ra lệnh cho thư lại kiểm kê tài vật, thình lình bà cảm thấy khó thở, như có ai đánh trộm, rồi một kình phong chụp xuống đầu. Kinh hãi bà phát chiêu đỡ. Bộp một tiếng, cánh tay bà tê dại, tai kêu vo vo. Biết gặp cường địch, bà nhảy lui lại, thì người kia di chuyển thân hình theo sát. Kinh hoảng bà tung người lên cao, người kia hướng chưởng lên trời. Đám đệ tử Tản-viên hò hét, nhưng không nhảy vào can thiệp được.
Từ trên cao, Thuần-Anh phóng xuống một chưởng. Hai chưởng gặp nhau, bùng một tiếng, người bà bay bổng lên cao, kình lực mất hết. Người kia lại phóng một chưởng vào bà. Bà kinh hãi hét lên, nhắm mắt chờ chết, thì có tiếng hừ, rồi một người nhảy bổ vào người kia. Người kia đổi chiều chưởng hướng người nhảy bổ vào. Bùng một tiếng, người đó kêu thét lên, thân hình bị vỡ làm năm sáu mảnh. Trong khi đó Thuần-Anh đã đáp xuống an toàn. Bấy giờ bà mới nhìn rõ đối thủ của mình là một đạo sĩ đã già. Còn người tan xương nát thịt thì là một tên gia bộc trong phủ tổng trấn.
Tuy gặp nguy nan, nhưng không hổ là đại đệ tử của chưởng môn phái Mê-linh. Thuần-Anh bình tĩnh, tay rút kiếm cầm tay, rồi bái đạo sĩ:
- Thuần-Anh thuộc Trường-sinh, xin tham kiến đạo sư.
Đạo sĩ như không trả lời Thuần-Anh, mà hướng vào một nho sinh đứng xa xa:
- Vị nhân huynh kia, người là ai? Tại sao người cứ theo làm khó dễ bần đạo hoài như vậy? Ban nãy người túm một gia đồng ném vào bần đạo, cứu Nùng phu nhân bằng chiêu thức Sài-sơn, nhưng nội lực thì không phải.
Nho sinh lạnh lùng:
- Nam-Sơn đạo sư phái Hoa-Sơn quả có con mắt tinh đời. Vì lẽ riêng, tiểu sinh không thể nói tên ra được.
Nghe nho sinh nói, Thuần-Anh kinh hoảng:
- Lão này là một trong Hoa-sơn tứ lão, danh trấn Hoa-Việt cách đây hai mươi năm có khác, hèn gì võ công thực kinh nhân.
Nam-Sơn lão nhân cười nhạt:
- Dù tiên sinh không chịu xưng danh tính, nhưng võ lâm Đại-Việt bần đạo đã biết hết. Có lẽ võ công tiên sinh ngang với Đại-Việt ngũ long, người như vậy đâu có nhiều.
Quân hổ, báo đã vây kính lấy Nam-Sơn lão nhân. Lão hướng nho sinh:
- Tiểu đồ Đức Quang là đệ tử của đại sư huynh bần đạo. Y làm tổng trấn thành này. Đêm qua y bị trúng độc, nên sáng nay bị bắt. Bần đạo lớn mật xin tiên sinh tha cho y được không?
Nho sinh lắc đầu chỉ Thuần-Anh:
- Chỉ Nùng phu nhân mới có quyền, tiểu bối không thể chiều tiên sinh được. Tiểu bối không có chức tước gì mà ra lệnh cho Nùng phu nhân.
Thuần-Anh chợt nhớ ra điều gì, bà nghĩ thầm: thì ra thầy đồ Bắc-ngạn Thăng-long đây. Bà chắp tay hướng nho sinh:
- Đa tạ tiên sinh cứu mạng. Nếu cô phụ này không lầm thì dường như phu quân tôi cùng cháu Trí-Cao đã có duyên được tiên sinh cứu ở Bắc-ngạn, rồi Thăng-long thì phải?
Nho sinh đáp lễ:
- Đúng thế. Phu nhân khỏi đa lễ. Ta đã hứa với Trí-Cao rằng lúc nào cũng ở bên cạnh y cùng đạo Trường-sinh để giúp đỡ. Đêm qua Nam-Sơn lão nhân Nam du ghé Hoành-châu thăm Đức Quang. Ta đoán ra, thế nào phu nhân cũng gặp hung hiểm, nên ta ẩn ở đây sẵn, may đâu vừa kịp ra tay cứu phu nhân.
Thuần-Anh cung tay nói với Nam-Sơn lão nhân:
- Kẻ cô quả này xin tuân lệnh đạo sư không giết Đức Quang, mà chỉ xin giữ y lại cho đến khi chiếm xong Lưỡng-Quảng, sẽ thả y về.
Nam-Sơn lão nhân thở dài, nói với nho sinh:
- Bây giờ bần đạo phải tranh thắng với Nùng phu nhân để cứu sư điệt. Không biết tiên sinh có còn làm khó dễ bần đạo không?
Nho sinh cười:
- Xin đạo sư tùy tiện.
Nam-Sơn đạo sư nói với Thuần-Anh:
- Bần đạo biết rằng xử dụng võ công với phu nhân là vô phép. Nhưng bất đắc dĩ.
Nói rồi lão rút kiếm ra chiêu Hoa-sơn, giống như hành lễ vậy. Thuần-Anh nghĩ thầm:
- Trước đây nghe vua bà Bình-Dương khó nhọc lắm mới thắng nổi Đông-Sơn lão nhân với mụ Tăng Tuyết-Minh. Không biết mình có chịu nổi lão này không?
Bà cũng rút kiếm ra chiêu Hoa-khai kiến Phật của Long-biên kiếm pháp giống như hành lễ, rồi chuyển lên hướng vào cổ lão. Lão nhảy lui lại ba bước rồi phóng một chiêu như ánh chớp vào cổ bà. Thuần-Anh đảo kiếm đưa vào ngực lão. Lão lộn người đi hai vòng, rồi mới trả đòn.
Kiếm pháp Hoa-sơn vốn lấy mau thắng chậm, kiếm pháp Long-biên cũng cùng một nguyên tắc, nên chi người đứng ngoài không còn phân biệt được Thuần-Anh với Nam-Sơn nữa. Khi xử dụng cả hai loại kiếm pháp, đều tổn hao rất nhiều công lực. Cho nên được trên trăm hiệp, thì Thuần-Anh bắt đầu kém thế, vì công lực thấp hơn. Bà cứ phải lùi dần.
Cặp cọp mun là linh vật của rừng núi Trường-sinh, chúng thấy chủ mẫu gặp nguy khốn thì gầm lên rồi song song nhảy vào vồ Nam-Sơn lão nhân. Lão nhân kinh hãi vội nhảy lui lại tránh thế vồ, thì một con nằm rạp xuống nhảy vào chụp chân lão. Một con nhảy lên vồ vào ngực lão. Lão tung mình lên cao tránh, thì kiếm của Thuần-Anh lại đưa vào hạ bàn. Không hổ là Hoa-sơn tứ lão. Nam-Sơn lão nhân phóng một chưởng xuống đầu hai con hùm, còn tay kia vung kiếm đỡ chiêu của Thuần-Anh.
Nhưng cặp cọp mun được huấn luyện rất chu đáo về võ công Mê-linh, khắc chế võ công Hoa-sơn, vì vậy chúng né tránh dễ dàng, rồi nhảy vọt lên vồ lão. Lão kinh hoàng, mượn đà đỡ kiếm của Thuần-Anh vọt ra xa. Lão vừa đáp xuống thì đôi cọp lại chuyển mình đuổi theo. Lão vội tung mình ra sân, nhưng lão bị đàn beo vây kín như thành đồng vách sắt.
Lão đeo kiếm vào lưng rồi xuất chưởng. Chưởng của lão đẩy bay tung bốn con beo một lúc, vòng vây có chỗ hở, lão lách mình chạy ra ngoài thành.
Thuần-Anh hú vía, bà cho đàn sói đi lùa hết đám tàn binh trong thành, phân loại rồi kiểm kê tài vật. Mọi việc xong xuôi, thì có thân binh báo:
- Vua Bà giá lâm.
Thuần-Anh cùng các tướng vội dàn quân, rồi ra ngoài thành đón vua bà Bình-Dương. Vua Bà vẫy tay miễn lễ rồi hỏi:
- Sao, sư bá đấu với Nam-Sơn lão nhân được mấy hiệp?
Thuần-Anh hỏi ngược lại:
- Thần chỉ chống với lão được hai trăm hiệp. Nếu không nhờ đôi cọp mun thì mất mạng rồi. Sao vua Bà biết?
Bình-Dương mỉm cười:
- Đêm tiểu bối với phò mã Thiệu-Thái đánh úp Ninh-châu 0, bắt sống Vĩnh Cơ, rồi tiếp viện cho đại sư bá. Giữa đường gặp Nam-Sơn lão nhân, thì biết lão định cứu Đức Quang mà không thành.
Thuần-Anh kinh hãi nghĩ thầm:
- Rõ ràng trong kế hoạch thì mình đánh Hoành-châu, sau đó đánh Ninh-châu, mà nay lại chính vua Bà đánh. Từ trước mình cứ cho rằng điều binh giỏi nhất là tiên cô, mưu kế là Thiệu-Cực, võ công là Thiệu-Thái, đạo đức là Bình-Dương. Không ngờ bây giờ vua bà Bình-Dương cũng điều binh nữa.
Vua Bà như đoán được ý nghĩ của Thuần-Anh:
- Sư bá đừng ngạc nhiên. Khi công chúa Bảo-Hòa với tiểu bối thiết kế đã ước định như vậy. Tính công chúa Bảo-Hòa cực kỳ cẩn thận, có đâu để Thuần-Khanh đánh Củng-châu, trong khi phía sau lưng bị Ninh-châu đe đọa?
Phò-mã Thiệu-Thái truyền lệnh:
- Nùng phu nhân thế mà giỏi. Phu nhân khẩn đem quan tiếp ứng cho Thuần-Khanh, việc tổ chức cai trị Hoành-châu, Ninh-châu chúng tôi xin lo liệu. Dường như tế tác của ta trong thành Củng-châu bị tê liệt thì phải.
Đến đó có chim ưng đem thư lại. Phò mã mở ra coi thì ra tin của tế tác tại Biện-kinh.
"... Tin đại quân Bắc tiến đã về đến triều. Triều đình cho rằng đây là cuộc đụng chạm giữa các biên thần phía Nam. Tin Khâm-châu, Liêm-châu, Hoành-châu, Liễu-châu thất thủ làm cho nhà vua cực kỳ bối rồi. Triều đình khẩn triệu Tam-anh, Ngũ-hổ sai xuống trấn Kinh-châu. Một mặt mời Kinh-Nam vương về triều để giải quyết vụ xung đột Nam thùy".
Vừa lúc đó tế tác báo:
- Đạo quân đánh Củng-châu trúng phục binh, hiện đang bị vây trên ngọn đồi Nam-sơn.
Thiệu-Thái kinh hãi nói:
- Nùng phu nhân mau đem quân tiếp cứu Thuần-Khanh. Chúng tôi sẽ điều quân tới sau.
Thuần-Anh vội đem đội thú binh cùng kị mã đi trước, để bộ binh lại cho phó tướng.
Đường Ninh-châu đi Củng-châu không xa. Chỉ sau hai giờ sức ngựa thì đạo binh Thuần-Anh đã thấy xa xa khói bốc lên từ một ngọn đồi. Trên đồi, quân Trường-sinh núp vào các tảng đá, cùng với thú rừng dàn thành phòng tuyến. Dưới đồi, quân kị, quân bộ reo hò, nhưng không tiến lên được. Thuần-Anh than:
- Con bé Thuần-Khanh thực giỏi, với chỉ ba nghìn quân, mà chống với ba nghìn bộ, hai nghìn kị của Tống được gần một ngày rồi mà phòng tuyến vẫn chưa loạn.
Bà cầm kiếm hô lên một tiếng, đạo quân của bà chia làm hai, đánh vào hai hông đồi. Quân thú đi trước, quân kị, bộ theo sau. Quân Tống thấy bên địch có viện binh, lập tức lùi lại bầy thành trận thế.
Thuần-Khanh đứng trên cao, cầm cờ đỏ phất, đội binh thú, với đám xe bắn đá đổ đồi, sức mạnh như thác cuốn. Quân Tống bị ba cánh quân đánh một lúc, lập tức đổi tiền đội ra hậu đội, rồi rút lui.
Thuần-Anh cầm cờ chỉ một cái, quân Trường-sinh đẩy xe bắn đá đi trước, có đội cọp hộ tống, đuổi theo. Đuổi được một quãng, thì Thuần-Khanh nói:
- Mẹ mau cho quân ngừng lại, vì e có phục binh.
Miệng nói, tay nàng chỉ lên trời: Xa xa, trong thành Củng-châu, mấy cặp chim ưng từ trên cao đâm bổ xuống, rồi lại bay lên. Tín hiệu đó, có nghĩa rằng trong thành có nhiều quân.
Thuần-Anh hỏi:
- Tình hình ra sao?
- Tế tác của mình bị lộ, cho nên đêm trước, Toàn Huy cho bắt hết, rồi y tương kế tu kế: cho phục quân trong thành. Lúc con đem quân tới, thấy trong thành có lửa cháy, có tiếng reo, rồi cửa thành mở rộng. Con cho quân đánh vào, thì bị trúng phục binh. Con vội vàng dùng thú cản đường, rồi rút về đồi Nam-sơn cố thủ. Toàn-Huy đem quân đuổi theo. Quân của y đông gấp đôi quân mình, nên con cố thủ rồi sai chim ưng báo về cho tiên-cô với sư phụ. Toàn Huy tuy là quan văn, nhưng y quả có tài dùng binh. Y đánh lên núi mấy lần, nhiều lúc con tưởng đã nguy rồi.
Hai mẹ con kiểm điểm lại binh mã, rồi tiến về phía thành Củng. Vừa đi được một quãng, thì gặp đội quân Tống hàng ngũ rối loạn đang chạy ngược lại. Thuần-Khanh phất cờ cho quân dàn ra chuẩn bị nghinh chiến. Không ngờ đám quân Tống kinh hoảng bỏ chạy vào rừng. Thuần-Khanh cho quân đuổi theo, bao vây bắt đám tàn binh.
Thuần-Anh bảo con:
- Như vậy quân Toàn Huy vỡ rồi. Vậy con tiếp tục bắt tàn binh, để mẹ đánh Củng-châu.
Bà đem đội kị binh phi khẩn cấp đến thành Củng. Tới nơi, cửa thành Củng đóng kín, trên cách địch lâu, không một bóng người. Thuần-Anh định ra lệnh cho xe bắn đá đánh thành, thì một chiếc pháo thăng thiên vút lên bầu trời rồi nổ đánh đoàng một cái. Lập tức trên thành gươm giáo sáng ngời, quân đồng xuất hiện. Một tướng cung tay hướng xuống thành:
- Nùng bá-mẫu, sao tới trễ quá vậy. Cháu tuân lệnh tiên cô chiếm thành này lâu rồi.
Thuần-Anh nhìn lại thì ra Vi Chấn, cạnh y có lá cờ bay phất phới với hàng chữ Hữu thiên ngưu vệ thượng tướng quân, Na-dương hầu .
Cổng thành Củng-châu mở rộng, Thuần-Anh cho quân tiến vào. Vi Chấn cung kính ra đón bà trước cửa dinh tổng trấn. Vào trong dinh, bà kinh ngạc vô cùng, khi thấy Toàn Huy đang ngồi làm việc cùng một số thư lại để ban bố lệnh miễn thuế cho dân. Toàn Huy đứng dậy thi lễ với Thuần-Anh:
- Tiểu sinh xin tham kiến phu nhân.
Thuần-Anh ngớ cả người ra.