Tự-Mai ngồi im từ nãy đến giờ. Chợt nó hỏi:
- Phò mã! Bao giờ tuyển võ đài?
- Chỉ còn hai tháng nữa?
- Theo Phò-mã, kỳ này những ai hy vọng thắng cuộc?
- Khó biết lắm. Có ít nhất mười người ghi danh. Còn phải chờ đến giờ chót.
Thân Thiệu-Cực chỉ vào Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm hỏi vua Bà Bắc-biên:
- Mạ mạ! Hai em này được mạ mạ nhận làm con nuôi. Vậy chúng có thể tranh võ đài làm châu trưởng không?
Thiệu-Cực khác hẳn Thiệu-Thái. Thiệu-Thái chậm chạp, mô phạm, đạo mạo. Ngược lại Thiệu-Cực tinh khôn linh lợi, phàm hành sự không câu nệ tiểu tiết, miễn thành công thì thôi. Thường ngày chàng gọi bọn Tôn Đản, Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, Lê Văn bằng danh tự: Năm thằng giặc trời, năm ông mãnh, năm ông thiên lôi. Nhưng đôi khi làm việc, chàng gọi chúng bằng em, rất ngọt ngào.
Câu hỏi của Thiệu-Cực làm mọi người tỉnh ngộ:
- Ừ nhỉ? Tại sao không cho hai đứa này tham dự?
Thân Thừa-Quý tiếp:
- Còn nữa, châu Bảo-lạc bên Đại-Việt, giáp với châu Lôi-hoả, Đặc-ma bên Tống. Cả ba châu hiện do họ Hoàng thống lĩnh. Thành ra họ Hoàng chân trong chân ngoài, nửa Tống, nửa Việt. Vì vậy Hoàng Sùng-Anh muốn rút lui. Y cũng tổ chức võ đài vào cùng ngày, tuyển người thay thế.
Khai-Quốc vương quyết định:
- Tất cả 207 khê động đều thuộc Đại-Việt. Chúng ta không thể để cho bọn biên thần nhà Tống làm lộng. Hôm nay, tôi quyết định như thế này.
Mọi người im lặng, nghe vương ban chỉ dụ.
Vương tiếp:
- Chúng ta có bẩy điều cần ghi nhớ.
Vương chỉ Hoàng Lư:
- Thứ nhất. Các châu bị Tống khống chế như Hợp-phố, Như-tích, Để-trạo thuộc Khâm châu, cùng các châu Vĩnh-an, Triều-dương, Miếu-sơn thống nhất làm một. Xin Hoàng huynh thống lĩnh cho.
Hoàng Lưu đứng dậy chắp tay lĩnh mệnh.
- Thứ nhì. Các châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh bị Ung châu khống chế hợp với các châu Tô-mậu, Na-dương, Đình-lập, An-châu bên Đại-Việt, thống nhất làm một. Xin Vi Thủ-Đan huynh thống lĩnh cho.
Vi Thủ-Đan đứng dậy lĩnh mệnh.
- Thứ ba. Các châu thuộc Tống khống chế như Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Tư-lăng trước do Vi Đại-An thống lĩnh. Các châu trên tiếp giáp với Lạng-châu, Quang-lang, Môn-văn, Vạn-nhai, trước do Thân Thừa-Phú thống lĩnh. Nay thống nhất tám châu, do Vi Đại-An thống lĩnh, Thân Thừa-Phú làm phó.
Tài, đức, võ công Vi Đại-An thua Thân Thừa-Phú xa. Dân chúng, tài nguyên của bốn châu thuộc y không thể so sánh với bốn châu của Thừa-Phú. Nay y được coi cả tám châu, được đặt lên trên Thừa-Phú, y mừng vô vùng, vội chắp tay tạ Khai-Quốc vương.
Trong khi đó, Thừa-Phú lại hiểu rằng:
- Mình cầm quân toàn vùng Bắc-biên, mà thống nhất đất mình với Đại-An, có khác gì đem đất y cho mình?
Vì vậy Thừa-Phú vui mừng hiện lên nét mặt.
- Thứ tư. Châu Quảng-nguyên, Tư-lãng, Thượng-dung, Hạ-dung, Thất-nguyên, Ân-tình thuộc Đại-Việt thống nhất với châu Thái-bình do Tống khống chế trao cho lão sư Nùng Dân-Phú thủ lĩnh.
Nùng Dân-Phú cung tay hành lễ.
Khai-Quốc vương tiếp:
- Thứ năm. Ai muốn kết tội Lưu Nguyên thế nào thì kết. Cô-gia quyết định đem các châu bị Tống khống chế là Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Qui-hoá, Lôi-hoả, Đặc-ma thống nhất với châu Bảo-lạc bên Đại-Việt, trao cho Lưu Nguyên thống lĩnh.
- Thứ sáu. Đối với triều Tống, ta hoàn toàn mềm dẻo, tiến cống, dùng hậu lễ, lời khiêm tốn, để giữ hoà hiếu. Còn đối với bọn biên thần hung hăng. Một mặt ta thẳng tay dùng sức mạnh khiến chúng ghê sợ. Mỗi khi một viên quan mới tới, cần điều tra tính tình y ra sao? Quê quán ở đâu? Nếu trị chúng tại biên giới khó khăn, ta sai người về kinh phao vu chúng ăn hối lộ, để các quan trong triều dèm pha chúng.
Tôn Đản dưa tay xin nói. Vương hỏi:
- Em có ý kiến gì?
- Đối với bọn kinh tởm này, chúng ta có nên cho người vào thành ám sát vợ con chúng hay không? Có nên cho người về quê chúng đào mồ cuốc mả cùng giết cha mẹ chúng hay không?
Khai-Quốc vương cúi đầu suy nghĩ. Chợt vương ngửng đầu dậy, tỏ vẻ cương quyết:
- Ta lấy võ đạo thời Lĩnh-Nam: Cái thân còn không tiếc. Tiếc chi cái tiếng vô danh hão. Nếu cần, ta làm bất cứ việc gì, miễn giữ được nước.
Cử toạ vỗ tay rung động hội trường.
Vương tiếp:
- Thứ bẩy. Mọi việc, đều đo triều đình Bắc-biên tự quyết. Trừ những gì quá sức, mới phải tấu về Thăng-long.
Vua Bà Bắc-biên đứng lên nói:
- Các Khê-động của ta nằm suốt một giải phía Tây-Nam Quảng-Tây lộ đều bị Tống chiêu dụ, đe dọa mà theo họ. Trong thời gian qua, chúng ta đã mất 57 khê động. Con dun đạp mãi cái đầu phải quằn. Ta không thể chịu được nữa. Với bẩy điểm Khai-Quốc vương ban ra, tôi quyết định như thế này.
Mọi người hồi hộp, im lặng theo dõi.
- Tư-mã Bắc-biên Thân Thừa-Phú điều Tiền-đạo yểm trợ Động-chủ châu-mục Hoàng Lư. Châu mục Hoàng Lư cho mời tất cả thủ lĩnh khê động thuộc Tống, Việt tới họp, ban bố chính sách, yêu cầu động Hiệp-phố, Như-tích, Để-trạo về với Đại-Việt. Ai không tuân, ta cho quân tiến vào, truất phế động chủ xuống, lập người khác lên thay.
Hoàng Lư hỏi:
- Nếu quân Tống đóng gần đó can thiệp thì sao?
- Động chủ khỏi lo. Việc xâm lấn mình do bọn hiếu chiến trong triều Tống. Đứng đầu là Lưu hậu với Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng. Vì vậy bất cứ việc gì biên quan cũng phải tấu về cho An-vũ sứ Quảng-Tây. An-vũ sứ Quảng-Tây chuyển về triều. Triều đình nghị sự xong rồi ban lệnh. Tấu chương đi, lệnh trở về ít nhất bốn tháng. Trong bốn tháng đó, biên quan Tống muốn dùng vũ lực thì ta đã tổ chức xong nội trị các khê động mới chiếm lại. Họ muốn can thiệp phải dùng trọng binh. Với chức An-vũ sứ, họ không đủ khả năng. Vả nếu biên thần Tống làm liều xua quân can thiệp, thì cánh Tiền-đạo của ta sẽ phản ứng.
Bà ngừng lại suy nghĩ, rồi tiếp:
- Thiệu-Cực điều Tả-đạo đến đóng tại phía Nam châu Thiên-long, Cổ-vạn, Tư-minh, yểm trợ cho châu mục Vi Thủ-Đan. Châu-mục Vi Thủ-Đan cũng làm tương tự như châu mục Hoàng Lư.
Bà chỉ lên bản đồ:
- Khu Thái-bình, tôi nghĩ lão sư Nùng Dân-Phú dư sức ép châu trưởng trở về với Đại-Việt. Chỉ có khu Vình-bình, Tây-bình, Tư-lăng hơi khó. Tôi đã sai Thân Bảo-Hòa cùng Trần Thông-Mai tiến quân vào từ hôm qua. Mọi việc tốt đẹp.
Nùng Dân-Phú thắc mắc:
- Tôi mới nhận được tin lạ, rất quan trọng, xin tâu cùng vua Bà.
- Xin lão sư cứ nói.
- Từ hơn tháng nay một số biên quan Tống gặp không biết bao nhiêu tai bay vạ gió. Kẻ tự nhiên trúng độc lăn ra chết, người thì bị ám sát. Cũng có kẻ con bị giết, vợ bị bắt cóc đi. Lại có kẻ nhà cửa ở quê quán bị cháy rụi. Mà những viên quan đó đa số thuộc phe Lưu hậu, chủ chiếm Đại-Việt. Như viên tướng chỉ huy trại Thái-bình của Tống không hiểu tại sao bị gian nhân ám sát ngay tại trại quân. Y bị chưởng lực cực kỳ bá đạo đánh, cơ thể còn nguyên, trong khi tạng phủ nát nhừ. Tướng chỉ huy trại Hợp-phố cũng bị ám sát bằng chưởng lực, xương bị nát ra như bột. Hai tướng này đều thuộc phe chủ xâm lăng ta. Quân sĩ trong hai đồn đều cho rằng gian nhân do An-vũ sứ Quảng-Tây sai giết, để cử người thân thay thế.
Khai-Quốc vương gật đầu:
- Họ giết lẫn nhau như vậy càng hay cho ta.
Dưới chỗ ngồi, Lê Văn hỏi sẽ Tự-Mai:
- Anh nghĩ sao?
- Chú khờ qúa. Chưởng lực bá đạo như vậy chỉ bà Bảo-Hòa mới có. Tuy hôm nay anh cả mới quyết định về chính sách Bắc-cương, mà thực ra anh đã cho bà Bảo-Hòa với ông Thông-Mai thi hành trước rồi. Tôi sợ giờ này tất cả các biên thần chủ xâm lăng Đại-Việt không bị bị giết chết, thì vợ con cũng bất toàn.
Lê Văn lắc đầu:
- Hơi ác.
- Đối với bọn cướp nước, ác gì mình cũng phải làm.
Buổi họp chấm dứt, theo thông lệ vua Bà Bắc-biên hỏi cử tọa:
- Ai có cao kiến gì khác không?
Tự-Mai đứng dậy xin phát biểu.
Các thủ lĩnh Bắc-biên đến họp, họ hơi ngạc nhiên khi thấy năm đứa trẻ từ Thăng-long lên cũng được ngồi tham dự. Hỏi ra được biết chúng là em kết nghĩa của Khai-Quốc vương với Vương-phi. Họ cho rằng nhờ thế Vương, đám trẻ được nâng lên. Nào ngờ trong khi họp, chúng kiến giải sự việc minh mẫn, phát trình bày có căn bản vững chắc, lý luận mạch lạc. Bây giờ thấy Tự-Mai phát biểu ý kiến, họ lắng tai nghe.
Vua Bà Bắc-biên hỏi:
- Trần công tử có cao kiến gì?
- Hồi nãy Khai-Quốc vương đang ban chỉ dụ, cháu không dám xen vào. Bây giờ cháu xin đưa ra một số chi tiết về chính sách của ta đối với Tống. Ý kiến này chỉ phụ với ý kiến của Vương mà thôi.
Đa số thủ lĩnh Bắc-biên đều đã dự đại hội đại hội Thăng-long, họ đã thấy võ công Tự-Mai rất cao cường, lại can đảm, mưu trí khác thường. Vì vậy họ đều lắng tai nghe.
Tự-Mai nói thực lớn:
- Nhiều người trong chúng ta thường coi người Hoa như những kẻ thù truyền kiếp. Nhất là gần đây, Hồng-thiết giáo nêu khẩu hiệu bài Hoa. Hễ đi đến đâu có người Hoa, lập tức thẳng tay chém giết. Bọn du thủ du thực nhân đó đốt nhà cướp của Hoa-kiều thực tàn nhẫn vô cùng. Họ không cần biết đến người Hoa phải tha phương cầu thực, sang kiều ngụ ở bên ta chẳng qua vì phải trốn tránh bọn vua quan tàn ác. Họ chăm chỉ làm việc, nên ít lâu sau trở thành giầu có. Hồng-thiết giáo thù hận họ về việc này. Ngu! Thực ngu hết chỗ nói. Họ làm việc, xây nhà, phá rừng tuy tư hữu của họ. Nhưng tài sản ấy có phải của Tống đâu? Chung qui vẫn của Việt mình. Rút cục, họ chỉ ăn ngày có hai bữa cơm. Giết họ thực ngu!
Hầu như cả hội trường đều phát ra tiếng ồ, rồi tiếng huýt sáo phản đối:
- Giết. Phải giết hết bọn chệt, bọn Tàu-ô, bọn Xạ-phang, bọn ghẻ Tầu. Giết không tha một đứa.
Vua Bà Bắc-biên xua tay ra hiệu cho mọi người im lặng:
- Hãy để Trần công tử nói hết đã.
Tự-Mai vốn giống bố về lòng can đảm, tính ngang tàng. Nó nói lớn hơn:
- Tôi ở miền xuôi, thường nghe đồn rằng, mỗi khi quân Tống vượt biên sang cướp phá. Các Động-chủ, Châu-trưởng lại xua quân sang giết người, đốt nhà, cướp của để trả đũa. Người nào càng làm mạnh, càng chém giết trả thù nhiều, càng được các động chủ, châu trưởng khác kính phục. Có đúng thế không?
- Đúng thế!
- Như vậy là lấy bạo tàn thay bạo tàn, trái ngược với chủ đạo tộc Việt.
Nùng Dân-Phú cười nhạt:
- Trái đạo là thế nào! Từ trước đến giờ, bọn biên trấn chúng tôi lấy đường lối ấy làm phương châm bảo quốc. Công tử cho rằng sai ư? Chúng tôi xin rửa tai nghe công tử dậy bảo.
Vi Đại-An cũng nói:
- Như vậy ý Trần công tử muốn chúng tôi cứ ngồi nhìn quân Tống sang cướp của, giết người, hiếp đàn bà con gái, rồi đưa cổ cho chúng chặt đầu bêu lên cây, phơi gan ruột ra cho quạ mổ, cho thú ăn thịt chắc?
Mọi người vỗ tay vang dội.
Tự-Mai thấy người người phản đối. Nó càng thêm can đảm, tự nhủ thầm:
- Hôm nay ta mà không giảng giải rõ chủ đạo tộc Việt cho những người này, e rằng Đại-Việt sau hơn trăm năm nữa, không còn.
Nó dơ tay vẫy mọi người:
- Xin các vị bớt nóng nảy.
Mọi người im lặng trở lại.
Tự-Mai vận nội lực nói thực lớn:
- Trước khi nói về chủ đạo tộc Việt. Tôi xin bàn về việc quân Tống sang cướp phá đã. Tôi đã ăn ngủ tại Khu-mật viện gần năm nay. Bao nhiêu tin tức về triều Tống, tin tức Nam-biên đại thần trấn vùng Lưỡng-Quảng, cùng quân sĩ của họ, tôi theo dõi rất kỹ. Tôi cũng nghiên cứu kỹ tấu chương của họ gửi về triều, cùng chỉ dụ của triều đình ban xuống cho biên thần. Tôi lại cũng đọc chỉ dụ bản triều gửi cho quý vị, cũng như tấu chương của quý vị gửi về. Tôi tìm ra được một khiếm khuyết lớn của chúng ta trong chính sách Bắc-biên.
Thanh-Mai thấy em lý luận vững chắc,
nhưng nàng có cảm tưởng nó sẽ bác bỏ bẩy chỉ dụ của chồng. Nàng ngồi nghe mà trong lòng lo lắng.
Tự-Mai tiếp:
- Trước kia tôi không rõ. Tôi chỉ kể từ khi Hoàng-thượng lên ngôi. Tính đến nay trải mười tám năm. Trong mười tám năm có sáu mươi sáu lần quân Tống vào cướp phá. Trong sáu mươi sáu lần đó, ba mươi hai lần do các Trại-chủ, Động-chủ Tống có hiềm khích với trại chủ, châu trưởng bên Việt. Nguyên do, đôi khi chỉ vì con chó chạy lạc, con bò ăn lúa của nhau mà ra. Thảng hoặc, con em chơi với nhau rồi cãi cọ, đưa đến đánh nhau. Phụ huynh hai bên không biết răn đe con, đem quân đánh giết loạn lên. Đây thuộc lỗi hai bên.
Các Động-chủ, Châu-trưởng thấy điều Tự-Mai nói không sai chút nào. Họ nhìn nhau, có vẻ ngượng ngập. Tự-Mai biết đã giảm được khí thế hùng hổ của họ. Nó tiếp:
- Trong hai mươi bốn lần còn lại, có mười bẩy lần do võ quan Tống dung dưỡng quân sĩ ăn cướp. Biên thần đã trách phạt người chỉ huy. Nhưng họ tấu về triều rằng quân ta sang cướp, binh Tống phải đánh đuổi. Đây hoàn toàn lỗi về phía Tống. Chỉ có bẩy lần, biên thần Tống đa sự, đem quân vào đất Việt thu thuế, bị chúng ta đánh đuổi. Bẩy lần đó mới đúng lỗi về Tống.
Nó thở dài:
- Nếu các vị khéo léo đôi chút, tôi nghĩ giờ này Tống không dám có ảo vọng chiếm Đại-Việt.
Vi Thủ-An hỏi:
- Công tử bảo khéo léo. Thế nào là khéo léo?
- Các vị nên chia Trung-nguyên làm ba loại người. Một là triều đình. Hai là Biên-thần. Ba là dân chúng. Từ trước đến giờ, chủ trương xâm chiếm Đại-Việt ta, hoàn toàn do triều đình Trung-nguyên, hoặc biên thần, chứ dân Hoa, không bao giờ có ý đó. Vì họ đâu ngu dại gì mà lăn mình vào chỗ chết, hoặc bỏ nhà theo quân làm phu khuân vác? Từ Tần Thủy-Hoàng đánh Âu-lạc do tham vọng thống nhất Thiên-hạ, đến Quang-Vũ diệt Lĩnh-Nam vì sợ Lĩnh-Nam mạnh, quay lên chiếm Trung-nguyên. Tống đánh ta, do đám quan lại hiếu sự mà ra. Từ sau trận Chi-lăng, tất cả những rắc rối ở Bắc-biên, đều do biên thần Tống hiếu sự. Có đúng thế không?
Phò mã Thân Thừa-Quý rất cảm tình với phái Đông-a, với Tự-Mai. Ông hỏi:
- Xin công tử cho biết, bằng chủ đạo tộc Việt, ta phải ứng phó ra sao?
- Thưa phò mã, Khai-Quốc vương đã ban chỉ dụ rồi. Đối với triều Tống, ta cần mạnh. Mạnh để cho cái ông con trời trong đầu vua quan Tống phải kinh sợ. Ta lại dùng nhu, tuế cống đầy đủ, lời lẽ nhũn nhặn. Như vậy có nghĩa: Ông với tôi là anh em. Ông để tôi yên, ông có bạn tốt ở phương Nam. Ông muốn gây sự, ông sẽ có kẻ thù đủ sức mạnh đối phó với ông.
Nó nói lớn hơn:
- Đối với biên thần Tống, như Khai-Quốc vương ban chỉ dụ. Ta chia họ làm hai. Những người chịu để ta yên, ta hậu lễ, lời hòa, giao hảo với họ. Còn đối với bọn hiếu sự gây truyện, ta thẳng tay. Họ cho quân lấn đất, cướp phá, ta phản công thực mạnh. Chúng đánh một chiêu, ta đánh mười chiêu. Chúng bắn một mũi tên, ta bắn trăm mũi. Ta cho cao thủ nhập thành giết họ, giết cả vợ con, tôi tớ, chó mèo, gà vịt. Ta cho người về quê, giết bố mẹ họ hàng, đào mồ cuốc mả lên. Như vậy mỗi khi một biên quan Tống tới trấn nhậm, họ thấy gương trước mà kinh sợ. Nhưng...
Nó im lặng để mọi người chờ đợi, rồi tiếp:
- Tuyệt đối không đụng chạm đến dân chúng. Dân chúng vô tội. Vả dân Nam-biên Tống đều thuộc tộc Việt cả. Ta không thể tàn sát họ. Tàn sát họ trái với chủ đạo tộc Việt.
Vi Thủ-An hỏi:
- Đối với những vụ các khê động thuộc Tống vào cướp phá, chúng tôi phải đối phó ra sao?
Tự-Mai chỉ vào bản đồ biên cương Tống-Việt:
- Bỏ vấn đề Bắc-biên xưa của ta tới hồ Động-đình. Chỉ kể biên giới thuộc Giao-chỉ cũ thôi. Biên giới Giao-chỉ tới Quế-lâm, kể từ sông Tả-giang trở xuống. Sau vua Ngô dựng lại tự chủ, ngài chỉ giữ được vùng núi rừng, khê động phía Bắc. Còn vùng đồng bằng từ các khê động tới Tả-giang trống trải, không giữ được. Thế nhưng từ đó tới giờ, Tống cho người đến các khê động đe dọa, dụ dỗ. Ngày nay phân nửa khê động theo Tống. Họ theo Tống là bất đắc dĩ, chứ bản tâm họ nào muốn bỏ tộc Việt, theo tộc Hán? Các vị có đồng ý với tôi rằng dân chúng từ hồ Động-đình tới Bắc-biên này, tuy thuộc Tống. Có nơi nói tiếng Hán, có nơi nói tiếng Việt. Nhưng họ đều là người Việt không?
- Đúng thế!
- Quả vậy!
- Họ là người Việt. Thế nhưng mỗi khi có va chạm với quan quân Tống, các vị xua quân qua cướp phá, chém giết họ. Vậy có phải các vị chém giết đồng bào, chém giết người Việt, trái hẳn chủ đạo tộc Việt không? Các vị chém giết họ. Họ trút oán lên đầu các vị. Họ càng phải trung thành với quan quân Tống. Họ xích lại gần Tống để được bảo vệ. Trong khi đó quan quân Tống khoan khoái trong lòng: Bọn Việt chúng bay cứ chém giết nhau đi, thù hận nhau đi. Ta ngồi cao ôm gối sung sướng.
Hội trường im lặng, không một tiếng động. Tự-Mai tiếp:
- Đối với các cuộc đụng chạm giữa các khê động. Tôi xin các vị nhịn nhục, dùng ôn hòa giải quyết với nhau. Chứ các vị cứ chém giết nhau, phân ra khê động Tống, khê động Việt. Thực sự đều là người Việt, còn gì đau lòng hơn? Cứ đà này, dần dà nay mất một khê động, mai mất một khê động. Ít năm sau, 207 khê động thuộc Tống cả. Bấy giờ họ chỉ cần một đạo quân, có thể vào Thăng-long. Họa vong quốc lại đến, lần này không thể phục hồi được nữa.
Vua Bà Bắc-biên hướng Tự-Mai:
- Đa tạ Trần công tử đã dùng chủ đạo tộc Việt giảng giải, chỉ cho rõ đường lối giải quyết xung đột với Tống. Kể từ nay, tôi xin các vị lấy lời Trần công tử làm khuôn mẫu trong việc biên phòng.
Cho đến nay, trải hơn nghìn năm, người sau đọc sử Tống, Lý đều không hiểu nổi chính sách Bắc-biên của Đại-Việt. Vì về phương diện ngoại giao, triều Lý tiến cống rất hậu. Sứ thần sang Tống gồm toàn người văn mô vũ lược, lời lẽ mềm dẻo, lễ cống hậu hĩnh. Trong khi các quan biên trấn Đại-Việt tỏ ra cực kỳ cương quyết. Hơi có đụng chạm, quân Việt phản ứng khốc liệt.
Chỉ độc giả Anh-hùng Bắc-cương biết rõ sách lược đó do ai thiết lập. Thiết lập trong trường hợp nào.
Hôm đó Vương dự tiệc đãi động chủ 207 khê động.
Tối trở về cung vua Bà Bắc-biên. Thanh-Mai hỏi Thiệu-Cực:
- Cháu cầm lực lượng Tế-tác Bắc-biên. Cháu cho mợ biết rõ hơn về việc tuyển người thống lĩnh thay thế Lưu Nguyên cùng Hoàng Sùng-Anh.
Thiệu-Cực đưa mắt hỏi mẹ. Công chúa Lĩnh-Nam Bảo-Hoà nói:
- Mợ có ý định gì về việc này chăng?
- Em nghĩ, hai đứa trẻ Thuận-Tông, Thiện-Lãm, chị truyền lệnh đưa về Thăng-Long nuôi cho ăn học. Phí tổn do chị đài thọ. Chúng nghiễm nhiên trở thành con chị. Là con chị, chúng có toàn quyền dự cuộc tranh tài, tuyển người thống lĩnh thay thế Lưu Nguyên cùng Hoàng Sùng-Anh.
Vua Bà Bắc-biên đưa mắt hỏi Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
- Các con học võ đến đâu rồi? Mạ mạ nghe Lãm được đạo sư Nùng-Sơn tử thu làm đồ đệ. Thuận-Tông được Thái-cô Tịnh-Huyền dạy dỗ. Lâu nay mạ mạ không có thời giờ gần các con để hỏi cho rõ.
Hà Thiện-Lãm thấy mẹ nuôi cực kỳ oai phong, nhưng bà lại ôn nhu với nó còn hơn mẹ đẻ. Nó cảm động lắm:
- Sư phụ dạy con căn bản nội công Tản-viên, cùng tất cả quyền cước. Sau này chị Bảo-Hoà dạy con Phục-ngưu thần chưởng. Gần đây con được anh Tự-Mai dạy con quyền pháp Đông-a cùng nội công Đông-a.
Thuận-Tông đáp:
- Con được sư phụ dạy võ công Mê-linh. Người dạy cả tiễn thuật phái Hoa-lư xưa nữa. Gần đây anh Đản dạy con võ công Cửu-chân. Chị Mỹ-Linh dạy kiếm thuật.
Phò mã Thân Thừa-Quý gật đầu:
- Hay lắm. Các con áp dụng đúng cổ nhân dạy Học thầy không tầy học bạn. Ở Bắc-biên này, thiếu niên ngang tuổi với các con đều luyện võ. Võ công của họ có hai loại. Một là của phái Tây-vu. Hai là của Trung-quốc. Thế này, nếu đối thủ xử dụng võ công Trung-quốc, để cho Thuận-Tông xuất hiện. Vì võ công Tông thuộc phái Mê-linh, khắc chế võ công Trung-quốc. Còn họ xử dụng võ công Tây-vu, để Thiện-Lãm xuất thủ. Vì võ công Tản-viên ưu thắng nhất trong các võ công Đại-Việt. Ngày mai, hết hạn ghi danh tranh tài. Vậy Thiệu-Cực dẫn hai em đi ghi danh ngay mới kịp.
Vua Bà Bắc-biên hỏi Tự-Mai:
- Trần công tử. Hôm đại hội Thăng-long, tôi được chứng kiến võ công của công tử không phải tầm thường. Vậy công tử thử giảo nghiệm võ công Thiện-Lãm, Thuận-Tông xem công lực chúng đến đâu rồi.
Bà nói với Thanh-Mai:
- Trong chúng ta đây, võ công em cao nhất. Phụ thân em nổi tiếng bác học, võ học Đại-Việt em hiểu hết. Vậy em điều khiển cuộc khảo nghiệm này dùm chị.
Thanh-Mai vâng dạ lĩnh mệnh.
Bà nói với Tự-Mai:
- Trần công tử. Công tử khảo nghiệm Thiện-Lãm trước cho.
Từ lúc đến Bắc-biên, Tự-Mai phải ngồi cấm khẩu. Vì khi nói, nó không biết xưng hô với vua Bà Bắc-biên ra sao. So với Thiệu-Thái, Bảo-Hoà, nó thuộc hàng con cháu. So với Thanh-Mai, nó thuộc vai em. Bây giờ bị vua Bà Bắc-biên hỏi, nó luống cuống không biết xưng hô thế nào?
Thanh-Mai hiểu em mình là con két. Bất cứ hình phạt nào nó cũng không sợ. Nó chỉ ngán bị phạt ngồi tĩnh tâm. Khi tới Bắc-biên, thấy em ngồi im, nàng đã đoán ra cái khó khăn của nó trong cách xưng hô. Nàng nghĩ thần:
- Càng tốt. Như vậy nó khỏi xạo, nhức đầu.
Bây giờ thấy em luống cuống, nàng gỡ rối cho nó:
- Tự phải coi mình ngang vai với anh Thiệu-Thái. Chứ không được trèo cao!
Được chị giải thoát, Tự-Mai khoan khoái. Nó vẫy Thuận-Tông, Thiện-Lãm:
- Nào bây giờ Lãm đấu với anh trước.
Tự-Mai, Thiện-Lãm hướng vào cử toạ hành lễ rồi đứng thủ thế.
Thanh-Mai hô:
- Xuất thủ!
Thiện-Lãm lùi một bước, nó xuất chiêu Ác ngưu nan độ tấn công. Tự-Mai chuyển thân dùng Đông-a chưởng pháp đỡ. Bộp một tiếng. Thiện-Lãm bật lui ba bước. Khí huyết đảo lộn. Nó biết Tự-Mai mới xử dụng có ba thành công lực. Bằng không nó đã bị bật tung lên cao rồi. Tự-Mai tấn công liền ba chưởng.
Đến đó, có thân binh hành lễ với vua Bà Bắc-biên:
- Khải tấu vua Bà. Có một vị ni sư pháp danh Tịnh-Huyền xin cầu kiến.
Từ vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã cho tới Khai-Quốc vương, đều thất kinh. Thanh-Mai hô lên:
- Ngừng tay!.
Rồi nàng vẫy chúng theo vua Bà ra tiếp cô mẫu Tịnh-Huyền. Tới cổng thành, vua Bà hô lớn:
- Thần nhi xin tham kiến cô mẫu.
Sư thái Tịnh-Huyền vẫy tay không cho mọi người hành đại lễ. Bà tiến lên nắm tay vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã rồi hướng Khai-Quốc vương:
- Ta biết các con đang hội họp, nên dẫn Kim-Thành, Trường-Ninh ngao du cho rộng kiến thức.
Phía sau sư thái, Quận-chúa Kim-Thành, Trường-Ninh tiến lên hành lễ với vua Bà Bắc-biên, Thân phò-mã, Khai-Quốc vương, cùng Vương-phi Thanh-Mai.
Tịnh-Huyền vuốt tóc phò mã Thân Thừa-Quý như mẹ vuốt tóc con, dù ông tuổi đã bốn mươi:
- Song thân con đâu? Cô muốn gặp.
Thân phò-mã kính cẩn:
- Hôm trước đây, có thư của quyền chưởng môn phái Tản-viên báo cho biết: Lực lượng phái Hoa-sơn do Hoa-sơn tứ lão cầm đầu, sẽ viếng thăm tổng đàn phái Tản-viên, cùng lễ thánh Sơn-Tinh. Sau đó tới đây lễ Hồ tiên cô cùng chư thánh Tây-vu. Vì vậy song thân con lên tận biên giới đón cho phải đạo võ lâm với nhau.
Tịnh-Huyền hỏi lại:
- Từ trước đến giờ, võ lâm Trung-quốc có tới hành hương như vậy bao giờ chưa?
- Thưa cô-mẫu, rất thường. Năm trước phái Nga-mi, rồi phái Không-động. Ngược lại võ lâm Đại-Việt cũng thường hành hương tổng đàn các võ phái Trung-nguyên.
Thanh-Mai thấy quầng mắt Kim-Thành, Trường-Ninh hơi thâm. Biết chúng đang lo nghĩ về việc vương phi Khai-Thiên mất tích. Nàng tiến lên nắm tay hai cháu:
- Hai cháu đừng lo. Vương mẫu hai cháu hiện rất an toàn. Với võ công Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đi bên cạnh bà, không dễ gì ai hại nổi Vương-mẫu đâu.
Thân phò-mã trình bầy với sư thái Tịnh-Huyền về mọi việc đang diễn ra.
Bà mỉm cười:
- Được đấy. Nào Tự-Mai tiếp tục khảo nghiệm võ công Thiện-Lãm, Thuận-Tông.
Tự-Mai lại phát chiêu tấn công Hà Thiện-Lãm. Thiện-Lãm ung dung trả đòn. Đấu được trên năm mươi hiệp, Thanh-Mai hô:
- Ngừng tay!
Hai người lui lại hành lễ, rồi về chỗ ngồi. Thanh-Mai đưa mắt nhìn vua Bà:
- Chị thấy thế nào?
- Võ công Thiện-Lãm tiến mau thực. Hiện khắp vùng này khó kiếm ra đối thủ của chúng. Có điều khê động của mình vốn hỗn tạp vừa Hoa, vừa Việt. Chị sợ biên thần nhà Tống sẽ sai người của họ len lỏi vào tranh dành. Để hỏi Thiệu-Cực mới rõ được.
Thân Thiệu-Cực đứng hầu phía sau. Chàng cung kính hành lễ, rồi đáp:
- Thưa mợ, tin tế tác của mình ghi nhận, Tống cho sáu thiếu niên trà trộn vào tranh tài.
Khai-Quốc vương hỏi:
- Sáu người đó gốc tích ra sao?
-- Thưa cậu, hai người xuất thân phái Thiếu-Lâm tên Đào Bật, Quách Quỳ. Tuổi chúng khoảng mười sáu, mười bẩy. Võ công chúng thuộc loại hiếm có. Chúng do Khu-mật viện sai xuống.
Nghe đến tên Quách Quỳ, bọn Tự-Mai đưa mắt nhìn nhau, cùng gật đầu.
- Hai người kế tiếp tên Khúc Chẩn, Triệu Tiết, do biên thần Vương Duy-Chính đưa ra. Chúng thuộc phái Hoa-sơn. Võ công chúng tương đương với bọn Quách Quỳ. Hai người nữa tên Yên Đạt, Tu Kỷ, chúng thuộc phái Võ-đang. Hai tên này do Lưu-hậu sai xuống.
Khai-Quốc vương hỏi vua Bà Bắc-biên:
- Chị nghĩ sao?
- Theo chị biết ba toán của Lưu hậu, biên thần cùng Khu-mật viện không biết nhau. Vì vậy ta phải tính kế sao cho tụi chúng chém giết lẫn nhau. Khi chúng mệt mỏi, cho người bên mình xuất hiện, mới hy vọng thắng thế. Thôi! Ta khảo nghiệm võ công Thuận-Tông đã.
Thanh-Mai bảo Thuận-Tông:
- Đến lượt em. Em xuất chiêu đi.
Lê Thuận-Tông hành lễ rồi đứng đối diện với Tự-Mai. Thanh-Mai hô:
- Xuất chiêu!
Thuận-Tông phát chiêu Loa-thành nguyệt ảo trong Cửu-chân chưởng pháp tấn công trước. Tự-Mai nhảy lui tránh. Nó trả bằng một chiêu võ công Thiếu-Lâm. Nó đánh cầm chừng, mục đích cho sư đệ hiển lộ hết bản lĩnh. Được trên trăm chiêu. Thanh-Mai hô:
- Ngừng tay!
Hai người lùi lại, hành lễ rồi về chỗ.
Thanh-Mai hỏi vua Bà:
- Chị xem bản lĩnh hai đứa như vậy có đủ không?
- Hiệm trên vùng Bắc-biên, các thiếu niên ngang tuổi với chúng, không ai vượt nổi chúng. Tuy nhiên ngoài vòm trời này, còn vòm trời khác. Khó có thể đoán nổi.
Khai-Quốc vương gọi Thiệu-Cực, Thanh-Trúc lại gần, ban chỉ dụ:
- Việc phái Hoa-sơn hành hương tổng đàn phái Tây-vu, Tản-viên. Ý cháu thế nào?
Thiệu-Cực nghe cậu hỏi, mắt chàng sáng lên:
- Ông nội với mạ mạ cho rằng lẽ thường. Còn con. Con cầm đầu Khu-mật viên Bắc-biên con nghĩ khác. Phái Hoa-sơn đã chuẩn bị cho hai thiếu niên tranh chức động trưởng của ta. Như vậy họ đương nhiên đối đầu với Đại-Việt. Việc hành hương này, chỉ với mục đích dọ thám tình hình mà thôi.
- Đúng thế. Cháu mượn cớ dẫn năm ông mãnh cùng Kim-Thành, Trường-Ninh vãng cảnh, rồi thăm thú tình hình Tản-lĩnh xem sao. Trước khi đến đây, cậu sai chim ưng đem thư lên Tản-lĩnh triệu Đào Nhị, Tam-Bách đến hội, mà giờ này họ chưa tới. Cậu nghĩ núi Tản có sự.