Bọn Nhật-hồ nghe Triệu Thành nói, đều bật lên tiếng ồ. Đại-Bằng hỏi Thiếu-Mai:
- Phải chăng cô nương là con gái Hồng-Sơn đại phu?
- Quả đúng như thế.
Trung sứ giả Dương Đắc nói với Đại-Bằng:
- Bang chủ, chúng ta chẳng nên gây thù chuốc oán với võ lâm Đại-Việt. Hồng-Sơn đại phu ân đức trải khắp thiên hạ. Ông lại là một trong Đại-Việt ngũ long, võ công kinh thế hãi tục. Thuộc hạ nghe nói, trong đại hội Thăng-long mới đây, ông chỉ đánh có ba chưởng, khiến Nhật-Hồ lão nhân phải lùi bước.
Đại-Bằng hừ một tiếng:
- Dương đệ nói lạ. Hồng-Sơn đại phu không thể hơn võ lâm Đại-Việt. Võ lâm Đại-Việt không hơn hoàng đế Đại-Việt. Hoàng-đế Đại-Việt, lại không thể so sánh với Hoàng-đế nhà Tống. Chúng ta giết tên Triệu Thành, coi như khai chiến với triều Tống. Đến triều Tống ta còn không sợ; huống hồ gã Hồng-Sơn? Ta quyềt định: Nếu y thị nhập bản bang, ta tha cho. Bằng không ta giết luôn.
Thiếu-Mai thấy trên trời, có đôi chim ưng bay lượn. Biết ít nhất có người Khu-mật viện phục quanh đây, nàmg nghĩ thầm:
- Người ném ám khí đánh văng kiếm tên giáo chúng bang Nhật-hồ, ắt hẳn của Khu-mật viện Đại-Việt. Ta yên tâm, vì bất cứ rủi ro nào của ta, Khu-mật viện cũng giải tỏa được.
Tự tin vào Khu-mật viện Đại-Việt, nàng cười dòn tan:
- Tên Đặng kia! Mi có giỏi cứ chạm đến sợi tóc của ta đi! Bố ta sẽ tận diệt bọn mi đến con gà, con chó cũng không tha.
Đại-Bằng cười nhạt:
- Con nha đầu này! Chết đến gáy rồi mà con đem ông, cha ra đe dọa. Được, ta cho mi được nguyện.
Y hất hàm ra lệnh:
- Chu Bắc-sứ, giết tên Triệu Thành trước.
Triệu Thành than thầm:
- Không ngờ mạng ta cùng ở đây. Ta nhất tâm, nhất trí gìn giữ công nghiệp tổ tiên, tung hoành thiên hạ. Thế mà đêm nay chết tại hoang sơn này vào tay bọn Nhật-hồ dơ bẩn. Có điều ta không hiểu bọn Đại-Bằng tuân chỉ Lưu hậu giết ta, hay chính y khống chế Lưu hậu, rồi Lưu hậu yêu sách giết ta?
Thanh kiếm vung lên, lấp lánh dưới ánh trăng.
Thình lình, có tiếng phần phật, rồi một người từ bụi cỏ vọt lên cao, rơi xuống giữa đầu Chu Sát. Y kinh hoàng, y thu kiếm về, nhảy lùi liền bốn bước.
Người kia còn ở trên không đã phóng chỉ tấn công. Chỉ phong rít lên vi vu. Chu Sát vung kiếm đỡ. Chỉ thứ nhất chạm vào kiếm, làm tay y tê chồn. Chỉ thứ nhì choang một tiếng, kiếm của y bị gẫy làm ba bốn đoạn bay trên không, lấp lánh dưới ánh trăng.
Người ấy phóng chỉ thứ ba trúng miếng hộ tâm kính ở ngực y đến choảng. Y giật bắn người lên nhảy lùi liền bốn bước nữa.
Đến đây, người kia rơi xuống cạnh Triệu Thành, y vung tay một cái, Triệu Thành bật lên khỏi mặt đất. Ở trên cao, Triệu Thành thoáng thấy mùi thơm như hoa sen, rồi chân tay cử động được. Y lộn một vòng, đáp xuống đất, trước sự kinh hoàng của mọi người.
Bang chúng Nhật-Hồ kinh ngạc:
- Người này dùng thần công gì, mà giải được Ma-tý phấn của bản bang?
Chu Sát cười sằng sặc hỏi người kia:
- Thiên đường có nẻo mi không đến. Địa ngục không đàng đẫn xác vào. Mi ném ám khí cứu tên Dư Tĩnh, ta không thèm tìm, bầy ra kế giết tên Triệu Thành để mi phải xuất hiện. Mi là ai? Tại sao lại can thiệp vào việc của bang Nhật-Hồ chúng ta? Hãy khai đi rồi chết.
Tuy miệng nói vậy để chữa thẹn. Nhưng chân tay y vẫn còn run run. Tiếng nói chưa tự nhiên.
Người kia hướng Lê Thiếu-Mai:
- Lê cô nương. Tôi không biết nói tiếng Tầu. Mong cô nương dịch cho.
Thiếu-Mai dịch lại. Người kia chỉ vào mặt Đặng Đại-Bằng:
- Người ném ám khí cứu Dư Tĩnh không phải ta. Mi giết quan chức triều Tống mặc mi, ta không lý gì tới. Song có ba lý do bắt buộc ta phải can thiệp vào vụ này. Lý do thứ nhất, mi nói lời khinh bạc võ lâm Đại-Việt, đương nhiên trong đó có sư phụ ta, có bố ta. Lý do thứ nhì mi khinh khi hoàng-đế Đại-Việt của ta, tội đó càng không thể tha thứ. Lý do thứ ba, ta là con dân Đại-Việt, không để cho bọn Nhật-Hồ giết người trên lãnh thổ tộc Việt.
Thiếu-Mai lại dịch.
Lập tức cả bọn bang chúng đồng cười lên sằng sặc, huýt sáo, chửi rủa. Đặng Đại-Bằng phất tay ra hiệu im lặng:
- Thiếu niên kia! Mi tên gì ? Ta thấy mi còn trẻ, chưa muốn giết mi. Bây giờ ta cho mi một cơ hội.
- Ta tên gì, mi không được phép hỏi. Còn mi nói cơ hội. Thế cơ hội gì?
- Nếu mi thắng được một trong ngũ sứ của ta. Ta tha cho mi đi. Bằng mi bại, mi phải nhập bản bang.
Người kia cười:
- Đặng bang chủ. Gì chứ đấu võ, ta sẵn sàng. Mi chỉ định ai đấu với ta đi.
Đại-Bằng chỉ Dương Đắc:
- Trung sứ dạy dỗ y mấy chiêu.
Người kia lột khăn che, lộ ra khuôn mặt rất trẻ. Mỹ-Linh hỏi Thiệu-Thái:
- Anh có nhớ người này là ai không?
- Không!
- Anh là Trần Thông-Mai, anh của thím Thanh-Mai. Ảnh kết huynh đệ với em cùng Kim-Thành, Trường-Ninh. Không biết anh ấy có thắng được tên Trung sứ không. Ban nãy tên Tây-phương sứ giả Bành Đức chỉ đánh có một chưởng, Đỗ phu nhân bị bại. Huống hồ võ công tên này cao hơn Bành Đức nhiều.
Bốn người vây xung quanh Triệu Thành rời chỗ ra xa.
Dương Đắc tới trước mặt Thông-Mai, y vận công, rồi hất hàm:
- Tên ôn con kia! Xuất chiêu đi.
Thông-Mai vận khí, tay phát Thiên-vương chưởng. Chưởng phong như có như không. Dương Đắc thấy chưởng kỳ lạ, y vung tay đỡ. Y đỡ vào quãng không. Thông-Mai đã chuyển chưởng lên trời, rồi nhảy lùi ba bước, đẩy vào người Thiếu-Mai đang nằm đưới đất. Thiếu-Mai bị trúng độc, không cử động được. Thấy Thông-Mai hướng chưởng vào người nàng. Trong chưởng có mùi thơm như hương sen, rồi chân tay linh hoạt như thường. Biết là thuốc giải độc. Nàng vọt người dậy, đứng bên Triệu Thành.
Dương Đắc đỡ hụt của Thông-Mai một chưởng, y nổi giận phóng chưởng tấn công chàng. Trong chưởng có mùi tanh hôi khủng khiếp. Đỗ Lệ-Thanh cũng đã nhận ra Thông-Mai. Mụ nhắc chàng:
- Trần công tử! Phải cẩn thận, Chu-sa ngũ độc chưởng đấy.
Thông-Mai vọt người lên cao tránh chưởng của Dương Đắc, ở trên cao, chàng phóng xuống chiêu Thiên-vương chưởng. Hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng. Thông-Mai lại vọt lên cao hơn nữa.
Thời vua Hùng, làng Phù-Đổng phát sinh một nhân tài võ học kỹ vĩ nhất Lĩnh-Nam. Người đương thời không biết ngài học võ với ai, học từ bao giờ. Chỉ biết ngài trầm ngâm cả ngày không nói với một câu. Vì vậy người ta đồn rằng ngài câm.
Khi triều Ân bên Trung-quốc mang quân xâm lược. Quân triều đình bị thua liền bốn trận. Giặc Ân vượt sông Trường-giang, tiến xuống Nam như vũ bão. Chúng thừa thế vựợt qua núi Ngũ-lĩnh đe dọa thủ đô Phong-châu. Vua tuyên chiếu cầu hiền rằng: Nếu ai đuổi được giặc, sẽ phong cho làm vua vùng núi Ngũ-lĩnh.
Bấy giờ, ngài mới ứng nghĩa xin đánh giặc. Ngài ăn rất khoẻ, bằng năm, sáu người thường. Ngài dùng một thứ võ công kỳ lạ, thắng khắp anh hùng thiên hạ, được vua phong làm Nguyên-soái cầm quân đánh giặc. Ngay trận đầu ngài đã giết chết tướng Ân. Sau đó dùng hoả công đốt quân Ân, không một người sống sót về Bắc.
Hết giặc, vua ban thưởng, phong chức tước gì ngài cũng không nhận. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ sống ngài, phong làm Thiên-vương.
Ngài lên núi Sài-sơn qui ẩn, mở trường dạy học. Nhân ngài cỡi con ngựa đỏ như máu. Vì vậy, sau này dân chúng huyền thoại đi rằng từ lúc ra đời, ngài câm. Cho đến năm bẩy tuổi, vua cầu hiền đánh giặc Ân, ngài vươn vai một cái, lớn bằng người thường, rồi ăn một lúc hết mấy nồi cơm lớn, xin vua đúc giáo dài, cùng ngựa sắt, xung trận.
Đệ tử đời sau của ngài, qui tụ thành phái Sài-sơn. Trong những võ công ngài còn lưu truyền, có bộ Thiên-vương chưởng. Khi chưởng phát ra, như có như không, nhưng bao gồm sát thủ kỳ diệu vô song. Chưởng này đến thời vua Trưng, chưởng môn là Nam-hải nữ hiệp chỉ còn nhớ được mười tám trong bẩy mươi hai. Sau Bắc-bình vương Đào Kỳ, tìm ra bộ Văn-lang vũ kinh, trao cho bà. Phái Sài-sơn mới có trọn vẹn .
Trải gần nghìn năm Bắc thuộc, pho chưởng này, hiện Hồng-Sơn đại phu chỉ được truyền có hơn hai mươi chiêu. Nhưng ông là thiên tài võ học. Ông sáng chế, bổ khuyết những chiêu còn thiếu, mà thành anh hùng vô địch. Vì vậy Lê Ba, tuy là sư thúc, mà võ công thua ông. Lê tưởng võ công ông cao, vì giữ bí quyết Thiên vương mật dụ. Y dùng hết tâm não giúp ông trở thành chưởng môn phái Sài-sơn, rồi yêu cầu ông cho xem Thiên-vương mật dụ. Nhưng ông tuân lời di chúc tổ tiên, không cho y coi. Y khống chế phu nhân bằng Chu-sa độc chưởng. Bà cũng chịu chết, y không toại nguyện.
Bây giờ Thiếu-Mai thấy Thông-Mai xử dụng Thiên-vương chưởng kỳ diệu muốn hơn bố mình. Nàng kinh ngạc đến đờ người ra.
Dương Đắc giao một chưởng với Thông-Mai, y kinh hãi nghĩ:
- Tên ôn con này, tuổi chưa quá hai mươi lăm, mà sao công lực đến dường này?
Y lại xuất chưởng tấn công. Áp lực chưởng của hai người cực kỳ trầm trọng. Thiếu-Mai nói sẽ vào tai Triệu Thành:
- Không hiểu Trần sư huynh học ở đâu được Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Chưởng lực anh ấy cao không kém gì bố em. Trong khi phát chưởng, anh ấy bóp vỡ một viên thuốc giải Chu-sa ma-tý độc của bang Nhật-Hồ, vì vậy đại ca với em đang tê liệt, chân tay hoạt động được như thường.
Triệu Thành chỉ cho Thiếu-Mai:
- Võ công tên Dương Đắc này thực không tầm thường, có lẽ cao hơn bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt.
Trong khi ấy một toán người từ xa mới tới. Đặng Đại-Bằng hô lớn:
- Ngừng tay!
Dương Đắc nhảy lui lại. Giữa lúc đó Thông-Mai đã phát ra một Thiên-vương chưởng. Chàng không thu chưởng về, mà nhảy lùi liền bốn bước, hầu giảm hết áp lực, rồi hướng vào chỗ Minh-Thiên, Đông-Sơn lão nhân nằm.
Bình, bình hai tiếng. Minh-Thiên, Đông-Sơn lão nhân bật người lên cao. Ở trên cao, hai người thấy chân tay hoạt động được như thường. Cả hai đáp xuống cạnh Triệu Thành.
Đại-Bằng thấy nhóm mới đến có tám người. Y không coi vào đâu, lên tiếng hỏi:
- Các người là ai? Tại sao lại can thiệp vào việc của chúng ta?
Người cầm đầu chắp tay xá một xá:
- Đệ tử phái Tiêu-sơn nước Đại-Việt, họ Lý tên Long-Bồ xin tham kiến bang chủ Nhật-hồ Trung-Quốc.
Lập tức bang chúng Nhật-hồ đồng phát ra tiếng kinh ngạc:
- Úi chà
- Ối trời ơi.
- Suýt!
Người mới đến chính là Khai-Quốc vương. Mỹ-Linh thấy đi cạnh ông còn có Thanh-Mai, Bảo-Hòa, cùng năm ngư nhân. Nàng kinh ngạc:
- Không biết năm ngư nhân là ai, mà lại đi theo chú hai?
Đặng Đại-Bằng đáp lễ:
- Đặng mỗ ở Trung-nguyên, nghe võ lâm Hoa-Việt đồn rằng ai chưa gặp Khai-Quốc vương, đừng vội xưng anh hùng. Lại nữa đại hội Thăng-long vừa rồi, người được anh hùng Lưỡng-Quảng, Đại-lý, Đại-Việt, Chiêm-thành, Chân-lập, Lão-qua, Xiêm-la tôn lên làm thủ lĩnh. Tưởng Lý Long-Bồ ba đầu sáu tay thế nào, thì ra cũng tầm thường thôi.
Bảo-Hòa lắc đầu:
- Đặng bang chủ! Bang chủ có nghe lầm không? Cậu hai của tiểu nữ chỉ nhân danh đệ tử đời thứ nhì phái Tiêu-sơn tham kiến bang chủ, chứ không nhân danh vua, quan gì cả.
- Vậy cậu người, với các người hãy đi chỗ khác, không nên can thiệp vào việc của ta mà mang họa.
Bảo-Hòa chỉ vào bọn Triệu Thành:
- Bang chủ nên biết Bình-Nam vương-gia tuân chỉ Thiên-Thánh hoàng-đế đi sứ Đại-Việt. Bang chủ cũng đừng quên đây thuộc lãnh địa tộc Việt. Khai-Quốc vương hiện lĩnh chức Phụ-quốc thái-úy, người không thể để cho bất cứ ai phạm đến sứ đoàn trên đất Việt. Vì vậy người mới nhờ Trần công tử can thiệp, không để quý bang hại Bình-Nam vương gia cũng như Dư an phủ sứ.
Đặng Đại-Bằng hừ một tiếng:
- Đây thuộc Quảng-Đông lộ, rõ ràng nằm trên lãnh địa Trung-quốc, nào có thuộc lãnh địa Đại-Việt. Khai-Quốc vương không có tư cách gì can thiệp vào.
Giọng nói của y đã có vẻ khách khí.
Bảo-Hoà cau mặt lại, lắc đầu:
- Đặng bang chủ lẩm cẩm quá đi. Chính người vừa nói rằng anh hùng tôn Khai-Quốc vương làm thủ lĩnh Lưỡng-Quảng, thế mà người lại quên ư? Đã là thủ lĩnh, đương nhiên phải có thẩm quyền cùng trách nhiệm chứ?
- Anh hùng tám nước tôn y lên làm thủ lĩnh, chứ không phải trời sai y xuống làm vua.
Thiếu-Mai nghĩ thầm:
- Mình nghe nói, Đặng Đại-Bằng là con người siêu việt, văn võ toàn tài. Thế mà hôm nay đây y cũng không dám bắt bẻ việc anh hùng tôn Khai-Quốc vương làm thủ lĩnh. Đã vậy ta mượn cuộc tiếp xúc này, nêu chính nghĩa tộc Việt cho mọi người biết.
Nàng bước ra, xá một xá:
- Đặng bang chủ, người vốn là một danh sĩ, tài trí trùm hoàn vũ, mà lý luận như vậy ư? Phàm các bậc đế vương dựng nghiệp, bao giờ cũng ứng lòng dân mà hành sự. Ứng long dân tức hợp ý trời vậy!
Chu Sát cười khẩy:
- Dân là dân, trời là trời. Lòng dân ý trời đâu phải là một. Lý luận của cô nương là lối lý luận của Nam-man, không phải của bậc trí Trung-nguyên ta. Ta không nghe.
Thiếu-Mai tuy được Hồng-Sơn đại phu dạy dỗ chu đáo. Nhưng ông vốn chống Trung-quốc, nên kiến thức Trung-quốc ông dạy nàng không làm bao. Bây giờ phải đối đầu với những con người siêu việt bậc nhất đất Tống, nàng phân vân chưa biết phải nói sao, bắt đầu từ đâu, thì tiếng Mỹ-Linh rót vào tai nàng:
- Chị Thiếu-Mai! Mỹ-Linh đây. Em theo dõi tất cả biến chuyển tại đây. Chị cứ theo lời em nhắc, đối phó với bọn này. Chị đừng quên tên Đặng Đại-Bằng, Chu Sát, Dương Đắc đều xuất thân danh sĩ, chuyên nhai văn nhấm chữ, rất khó đối phó. Nào, chị nói đi.
Rồi nàng rót vào tai Thiếu-Mai:
- Chu sứ! Được! Tôi xin vì Chu sứ, mà lý luận trên cơ sở thánh nhân Trung-nguyên. Chu sứ nên biết rằng theo tư-tưởng-gia Trung-nguyên thì Cha là trời của con. Trời là trời của cha. Không có trời mà sinh ra là việc chưa từng có vậy.
Hải Thanh lắc đầu:
- Bịa đặt. Bịa đặt ngây ngô.
Thiếu-Mai hỏi Dư Tĩnh:
- Dư an phủ sứ. Tiên sinh cho biết ý tưởng tiểu nữ vừa trình bầy xuất phát từ đâu đi. Hải hữu-hộ pháp không tin đấy.
Dư Tĩnh đáp:
- Câu đó, Lê cô nương dẫn trong sách Thuận-mệnh của Đổng Trọng-Thư đời Hán. Nguyên văn như sau "Phụ giả, tử chi thiên dã. Thiên giả, phụ chi thiên dã. Vô thiên nhi sinh, vị chi hữu dã".
Chu Sát lắc đầu:
- Tư tưởng gì mà lẩm cẩm vậy. Ông trời xa xôi thế kia, mà bảo rằng đẻ ra người, thực ngây ngô qúa.
Thiếu-Mai biết Chu Sát bắt đầu yếu thế, nàng nghe Mỹ-Linh nhắc, tiếp:
- Đổng còn nói rõ Trời, người tương thông. Nguyên văn "Thiên nhân tương dữ". Có nghiã người bẩm thụ được tính của trời. Cho nên đạo trời, chính là đạo người. Quan niệm đó đâu phải đến Đổng mới có? Trong kinh Thi có câu: Trời sinh ra dân, có hình phép, dân giữ tính thường, muốn có đức tốt. Nguyên văn như sau:
Thiên sinh chi dân,
Hữu vật, hữu tắc.
Dân chi bỉnh di,
Hiếu thị ý đức .
Chữ dân trong câu trên giống như chữ nhân trong Ngũ-kinh. Vì người bẩm thụ tính trời, nên trời và người quan hệ với nhau, mà người phải lấy phép tắc làm khuôn mẫu. Phải coi thiên đạo là nhân đạo. Phải ăn ở cho hợp với đạo trời. Đức thánh Khổng ít bàn về trời. Song ngài cũng nhận được rằng trời là đấng chủ tể của vũ trụ, xếp đặt mọi việc, và có luật thiên nhiên, mà người phải theo.
Nàng hỏi Đặng Đại-Bằng:
- Đặng bang chủ. Có đúng thế không?
Đặng Đại-Bằng tuy có kiến thức siêu việt, nhưng y chưa ra khỏi Trung-quốc. Y coi Đại-Việt chỉ là Giao-chỉ man di mọi rợ. Không ngờ hôm nay, y gặp một thiếu nữ lý luận đanh thép, thông kinh điển Trung-quốc. Nghe Thiếu-Mai hỏi, y gật đầu.
Mỹ-Linh lại rót vào tai Thiếu-Mai. Thiếu-Mai tiếp:
- Kìa Lão-tử. Ông không hoàn toàn chủ trương Thiên nhân tương dữ, nhưng ông nghĩ rằng Người bắt chước đất. Đất bắt chước trời. Mặc-tử tin trời mạnh hơn. Ông cho rằng trời là đấng tối cao, có uy quyền, như gia trưởng trong nhà, như vua trong nước. Người phải thuận ý trời, như con thuận ý cha, dân thuận ý vua. Sau Khổng, Lão, Mặc đến Mạnh-Tử, ông giảng ý nghĩa thiên nhân tương dữ rõ ràng hơn:
...Phát huy cùng cực cái tâm mình, thì biết được cái tính của mình. Biết được cái tính của mình, thì biết được trời.
Nàng hỏi Dư Tĩnh:
- Dư tiên sinh, nguyên văn thế nào, tiểu nữ quên mất rồi. Dường như sách Trung-dung cũng có nói đến điều này thì phải.
Dư Tĩnh nghĩ thầm:
- Cô này đã dẫn được, giải được, không lẽ không thuộc nguyên văn? Chẳng qua, cô mượn mình làm chứng mà thôi.
Nghĩ vậy y trả lời:
- Ý trên, lấy trong thiên Tận-tâm, sách Mạnh-Tử, nguyên văn như sau "Tận kỳ tâm giả, tri kỳ tính dã. Tri kỳ tính, tắc tri thiên mệnh". Còn sách Trung-dung ư? Có, nói như sau:
"...Thiên mệnh chi vị tính. Xuất tính chi vị đạo. Tu đạo chi vị giáo".
Ghi chú
Nghĩa là: Mệnh trời ban cho là tính, thuận tính gọi là đạo. Sửa đạo cho hợp gọi là giáo.
Lê Thiếu-Mai lại nhắc lời Mỹ-Linh:
- Đặng giáo chủ. Lê sứ! Xét như thế dù Hoa, dù Việt, thì ý dân là ý trời. Khai-Quốc vương được anh hùng tôn lên làm vua tộc Việt tức thuận lòng trời, ứng lòng người vậy.
Chu Sát tự hào mình người nhai văn, nhấm chữ, giỏi nhất Trung-nguyên, chỉ vì khinh địch, bị Mỹ-Linh bẻ gẫy. Y đánh trống lảng, hướng vào Triệu Thành:
- Bình-Nam vương gia, Vương-gia thân làm Phụ-chính đại thần. Vương-gia hiện diện ở đây, mà để cho bọn Nam-man nhận Lưỡng-Quảng làm lãnh thổ Đại-Việt, còn ra thể thống gì nữa. Vương-gia chỉ ngồi dưới Thiên-Thánh hoàng-đế, uy trùm Hoa-hạ, vũ trấn man di, mà phải nhờ bọn Nam-man che chở, rồi cúi đầu nhường đất Lưỡng-Quảng cho chúng ư?
Ngư nhân mũ đỏ cười khành khạch, y rung tay một cái, cần câu có một chùm những hạt chì chụp lên đầu Chu Sát. Chu Sát vung tay đỡ, nhưng y vẫn bị hai viên chì trúng người. Một viên trúng huyệt Hạ-quan ở gần mang tai, một viên trúng cùi chỏ. Tay y tê liệt, miệng bế, không mở ra được nữa. Ngư nhân lạng người tới tát cho y hai cái:
- Ta cho mi hai cái bạt tai, để chừa thói hỗn láo, dám gọi chúng ta bằng danh Nam-man.
Mọi người kinh hãi, không hiểu võ công ngư nhân dùng là võ công gì, mà chỉ một chiêu khiến Chu Sát tê liệt toàn người.
Ngư nhân mũ đỏ tiếp:
- Hoa hay Việt, trước đây đều là con cháu vua Thần-nông. Nam, Bắc cùng huyết tộc. Chỉ vì bọn tham tàn như mi, mới khiến Hoa, Việt có chiến tranh. Trọn đời, ta ghét nhất những đứa phân chia gây thù hận Hoa, Việt.
Y cười nhạt:
- Chu Bắc-sứ! Có phải Chu Bắc-sứ nói rằng người xin quy phục Tống triều chăng?
Chu Sát nghe ngư nhân mũ đỏ hỏi, y nổi giận cành hông, định há mồm mà há không được, thành ra giống như y gật đầu.
Ngư nhân mũ đỏ tiếp:
- Bắc sứ cải tà qui chính như vậy thực phải. Khổng-tử nói: Hữu quá tắc cải. Nhà Phật dạy "Khổ hải vô bờ, hồi đầu thị ngạn". Chu sứ qui phục triều đình, thực phúc cho dân Trung-quốc biết mấy!
Ngư nhân mũ đỏ nói với Triệu Thành:
- Vương-gia! Bắc-sứ xin quy phục, vậy Vương-gia cho Bắc-sứ một chức quan, để ấm mồ tổ tiên đi chứ?
Triệu Thành đã bị năm ngư nhân phá phách suốt mấy ngày. Y hiểu năm ngư nhân không hề ác ý với y. Huống hồ bây giờ chúng đi với Khai-Quốc vương, cứu y khỏi tai nạn. Cho nên y cũng hùa theo ngư nhân:
- Dưới tay danh tướng, ắt có cường binh. Thiếu hiệp là tùy tùng Khai-Quốc vương có khác, thông tuệ dị thường.
Y nói với Chu Sát:
- Chu huynh, bằng vào võ công, cô-gia sẽ tâu lên Thiên-tử, phong cho Chu huynh làm Chiêu-thảo-sứ trấn ngự biên cương.
Chu Sát bị đánh bế hàm, nói không được, lại bị ngư nhân, rồi Triệu Thành trêu chọc. Y tức muốn điên lên được.
Ngư nhân mũ đỏ nói:
- Chu Chiêu-thảo sứ. Mừng Chiêu-thảo sứ thoát khỏi vũng lầy, về làm tôi triều đình. Tuy Chu tướng-quân đã quy phục triều đình, song vấn đề tướng-quân nêu ra thực không đúng. Thân quận-chúa vừa nói Lưỡng-Quảng thuộc lãnh địa tộc Việt, chứ có nói thuộc Đại-Việt đâu? Chu tướng-quân phải hiểu rằng tộc Việt với Đại-Việt khác xa lắm. Cho nên Bình-Nam vương gia mới không nói gì, chứ người đâu có nhường đất cho Đại-Việt?
Dương Đắc chỉ mặt ngư nhân mũ đỏ:
- Ban nãy người dùng yêu pháp bắt Lưu tứ đệ của ta đi. Bây giờ mi lại hại tam đệ. Lại đây, lại đây, chúng ta đấu với nhau trăm chưởng.
Thông-Mai bước ra cười khanh khách:
- Tên họ Đặng kia. Vừa rồi mi to mồm khinh khi võ lâm Đại-Việt. Để ta tiếp tục đấu với tên Dương Đắc cho xong lời ước. Nào!
Thông-Mai vung chưởng tấn công. Dương Đắc cười nhạt:
- Ta há sợ mi sao?
Y vung chưởng đỡ, bình một tiếng, Thông-Mai lui một bước. Tuy thắng thế, mà Dương Đắc cảm thấy như có gì bất ổn ở trong chưởng của đối phương. Y tấn công tiếp chưởng nữa. Thông-Mai đỡ, lui về sau ba bước, chàng đếm:
- Hai.
Dương Đắc lại tấn công. Mỗi chiêu y phát ra, Thông-Mai lùi một bước, miệng đếm. Tay y lại cảm thấy nặng chĩu thêm lên . Đến chiêu thứ mười, Thông-Mai nhảy lui lại, phất tay:
- Mi chết rồi, ta không đấu với mi nữa.
Dương Đắc cảm thấy tay nặng nề, y đưa lên xem: Hai bàn tay y tím ngắt như người bị trúng Chu-sa độc chưởng. Thình lình y kêu lên tiếng ối rồi hét lên be be như con dê.
Đại-Bằng móc trong bọc ra viên thuốc, nhét vào miệng Dương Đắc. Dương Đắc bớt đau, y ngồi xuống vận công. Đại-Bằng hất hàm hỏi:
- Vị thiếu niên kia, thì ra người cũng biết xử dụng Hồng-thiết độc công đấy. Ngươi là đệ tử của cao nhân nào, mà ta mắt kém, không nhìn ra.
Thông-Mai lắc đầu:
- Ta họ Trần tên Thông-Mai. Võ công của ta do bố ta truyền dạy. Phái Đông-a thuộc danh môn chính phái, đến xử dụng ám khí có chất độc còn bị cấm, huống hồ độc chưởng. Vừa rồi, Dương trung sứ dùng độc chưởng tấn công ta. Ta chỉ nhân đó đẩy trả về y mà thôi.
Tả hộ pháp Phong Hoa nói với Đặng Đại-Bằng:
- Bang chủ! Gã này là tên Trần Thông Mai, con cả của Trần Tự An, chưởng môn phái Đông-a bên Đại-Việt. Trước đây gã bỏ đi tu, cầu phúc cho mẹ. Gã mới hoàn tục.
Từ Đặng Đại-Bằng cho đến bang chúng đều bật lên tiếng úi chà, rồi ối, rồi ái chu cha.
Nguyên vì danh tiếng phái Đông-a, cùng Trần Tự-An vang rền khắp Hoa, Việt.
Hữu hộ pháp Hải Thanh hỏi:
- Trần đại công tử! Ta nghe võ lâm truyền tụng rằng họ không sợ Thiên-Lôi, cũng chẳng ngán Hà-Bá, mà không dám gây hấn với phái Đông-a. Có đúng thế không? Ta lại nghe nói đại-hiệp Tự-An võ công kinh thế hãi tục, tính cao ngạo, bác học đa năng, thường ôm gối ngồi cao. Thế mà đại công-tử lại lăn mình vào làm tùy tùng cho Lý Long-Bồ. Tiếc ơi là tiếc!
Lê Thiếu-Mai dịch lại. Thông-Mai định trả lời, Bảo-Hòa bước ra chắp tay xá Hải Thanh:
- Hải phu nhân! Tiểu nữ nghe phu nhân thuộc loại kiến thức cao đệ nhất Trung-nguyên, cớ sao kiến giải sự việc như thế? Đại hiệp Tự-An tài ba gì chăng nữa, cũng thuộc hàng sĩ phu Đại-Việt, có trách nhiệm với sự hưng vong của đất nước. Đại hiệp không ưa công danh, do tính thích tiêu dao tự tại. Chứ đâu phải không thích công danh, mà buông tay hết cả.
Nàng chỉ Thông-Mai:
- Còn Trần đại-công tử có mặt tại đây hôm nay, không phải làm tùy tùng cho Khai-Quốc vương, mà theo giúp muội phu, giữ đại nghĩa thiên hạ.
Hải Thanh ngơ ngác:
- Muội phu?
Bảo-Hòa chỉ Thanh-Mai:
- Khai-Quốc vương phi, chính là em gái của Trần đại-công tử. Bình sinh Trần đại-công tử cực kỳ sủng ai Khai-Quốc vương-phi. Nên khi nghe vương-phi theo vương gia đi sứ Đại-Tống, Trần đại-công tử cùng đi để giúp em gái.
Thông-Mai móc ba viên thuốc giải độc bóp vỡ tan ra, rồi bước đến bên Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Địch Thanh. Chàng vung tay phóng ra ba Thiên-vương chưởng. Bình, bình, bình, chân tay ba người cử động được, vội đứng dậy, đến bên Triệu Thành.
Địch Thanh chỉ mặt Đặng Đại-Bằng:
- Bọn Nhật-Hồ nhà mi chỉ giỏi dùng độc ám toán. Vương gia ta lấy lượng cả bao dung người, mà người nhân đó dùng độc hại chúng ta. Lại đây, ta đập mi nát thây ra mới được.
Đại-Bằng cười:
- Chúa tôi mi mới nếm chút Chu-sa ma-tý phấn, mà đã ngã lổng chổng rồi. Ta còn nhiều thứ thuốc khác, mi muốn nếm cứ lại đây.
Nghe Đại-Bằng nói, trên từ Triệu Thành cho tới Địch Thanh đều ớn da gà. Họ không biết phải đối phó sao cho phải bây giờ. Đánh thì lại ngại độc chưởng. Mà lui, thì còn gì danh dự Khu-mật viện Đại-Tống.
Khai-Quốc vương hướng Triệu Thành:
- Vương-gia! Hôm nay tiểu vương làm chủ, Vương-gia làm khách. Bọn Nhật-Hồ phạm đại giá Vương-gia, trăm lỗi đều do anh em tiểu-vương cả. Xin Vương-gia để tiểu-vương dẹp đám tà ma này.
Triệu Thành đang lưỡng lự chưa biết giải quyết sao, thì Khai-Quốc vương nhảy ra lãnh dùm. Y mừng quá:
- Đa tạ vương gia.
Nói xong y chợt tỉnh ngộ:
- Mình đáng chết thực. Tên Long-Bồ nói vậy có nghĩa đất Lưỡng-Quảng thuộc lãnh địa của y. Mình đồng ý, chẳng hóa ra công nhận chủ quyền của y ư?
Nhưng đã trót. Vả lại dù y muốn ra tranh phong với bọn Nhật-hồ, e chỉ mất mạng vô ích. Y đành im lặng.
Khai-Quốc vương hướng vào Đặng Đại-Bằng cùng đám bang chúng:
- Cô-gia nhắc lại, các vị vốn thuộc dân Tống. Hiện nay trên có thánh thiên-tử trị vì. Các vị không bảo nhau làm lợi cho nước, cũng đừng làm hại. Bình-Nam vương lấy lượng cả thu dụng các vị, mở cho các vị đường sống, rõ ràng hành vi của đấng tể thần. Thế mà các vị lấy ơn làm oán tung phấn độc hại người.
Vương nghiêm giọng:
- Đây thuộc lãnh địa tộc Việt. Cô-gia theo gương Bình-Nam vương-gia. Cô-gia cho các vị suy nghĩ một lúc. Ai về quy phục Tống triều, sẽ được giải Chu-sa ngũ độc chưởng vĩnh viễn ngay tại đây. Bằng chống lại, sẽ bị bắt giải lên quan nha chiếu luật xử tội.
Phong Hoa suy nghĩ một lúc rồi hỏi Khai-Quốc vương:
- Họ Phong này nghe nói, trong kỳ đại hội Thăng-long vừa rồi, Hồng-thiết giáo Đại-Việt đã giải tán, thành lập Lạc-long giáo. Tân giáo chủ, một thiếu niên, võ công vô song, vốn là đệ tử Phật Di-Lặc, nên trị tuyệt Chu-sa Nhật-Hồ độc chưởng cho giáo chúng. Không biết có đúng không?
Khai-Quốc vương hướng về chỗ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái nằm vẫy tay:
- Hai cháu ra đây!
Mỹ-Linh, Thiệu-Thái đứng dậy, sửa quần áo ngay ngắn, đến trước Khai-Quốc vương quỳ gối hành đại lễ:
- Cháu xin bái kiến thúc phụ.
- Cháu xin bái kiến cữu phụ.