Nhật-Hồ lão nhân hướng Minh-Thiên chắp tay:
- Đại sư! Năm nay lão phu đúng một trăm tuổi. Không biết đại sư niên kỷ đã bao nhiêu?
Minh-Thiên đáp lễ:
- So về tuổi tác, khi tiên sinh thành danh, cùng với Đông-Nhật lão nhân lập lên nhà Hán, lúc ấy tiểu tăng chưa ra đời. Năm nay tiểu tăng sáu mươi tuổi.
Minh-Thiên lại vái liền hai vái:
- Tiểu tăng nghĩ niên kỷ, đức độ đã kém, đâu dám so với tiên sinh? Nhưng vì có lệnh của Bình-Nam vương, tiểu tăng đành cam thất lễ.
Nhật-Hồ lão nhân vui vẻ:
- Lão phu vắng bóng trên giang hồ hơn hai chục năm nay, bây giờ mới xử dụng lại võ công, không biết có chịu nổi mười chiêu của cao tăng đắc đạo không. Nhưng vì thể diện đất nước, lão phu đâu dám sợ nguy hiểm. Hôm nay, lão phu là chủ, đại sư là khách, lão phu xin nhường đại sư ra chiêu trước.
Tự-Mai nói nhỏ với Tôn Đản:
- Lão này thực đáng sợ. Cứ nghe lời nói cùng hành xử của lão, rõ ra đại tôn sư võ nghệ, đạo cao đức trọng. Có ai dám ngờ lão là một đại ma đầu, giết người không gớm tay. Kể cả Trung-quốc, Đại-Việt, số người mà Hồng-thiết giáo của lão giết, thây chất ắt cao hơn mấy chục ngọn Hoàng-liên sơn.
Trần Kiệt gật đầu:
- Suốt cuộc đời lão, lúc nào lão cũng ngọt ngào, từ ái, khoan thai. Kể cả lúc lão xử tử người ta, lão cũng nhỏ nhẹ như vậy. Thành ra nhiều người lầm lẫn, chết vì cái ngọt của lão.
Quảng trường im lặng đến không một tiếng động. Vì võ lâm đều muốn nghe, muốn kiến thức đại tôn sư của hai nước giao đấu.
Minh-Thiên biết, với thân phận của Nhật-Hồ, lão không thể xuất chiêu trước. Ông chắp tay:
- Xin thất lễ.
Tay phải nắm thành quyền. Tay trái xòe thành chưởng. Ông quay tròn đẩy về trước một chưởng. Chưởng chưa phát ra hết, mà mọi người trên đài muốn nghẹt thở.
Nhật-Hồ lão nhân khum tay như ưng vồ mồi, đẩy về trước một chưởng. Ầm một tiếng. Cả hai lảo đảo lui lại. Đại tôn sư của bang Hồng-hà Sử Canh. Bang Đông-hải Hùng Cơ. Phái Phật-thệ Chế Ma Thanh. Phái Vạn-tượng Phủ Văn. Phái Cửu-long Kim Sinh, vì công lực kém, phải nhảy xuống đài, để tránh áp lực làm bị thương.
Nhật-Hồ cất tiếng khen:
- Kim-cương ban nhược chưởng của phái Thiếu-lâm quả danh bất hư truyền.
Qua một chiêu đầu Minh-Thiên cảm thấy công lực của Nhật-Hồ thực khủng khiếp. Trong nhu có cương, trong cương có nhu. Trong chính có tà. Trong tà có chính. Bảo rằng tinh diệu cũng thực tinh diệu. Bảo rằng dũng mãnh cũng thực dũng mãnh. Trong tâm ông kinh hãi:
- Trước đây Đông-Nhật lão nhân Lưu Trí-Viễn, đơn chưởng qui tụ đệ tử lập ra nhà Hán, vang bóng một thời. Anh hùng Trung-Quốc không ai địch nổi. Thế mà lão già này lại là sư phụ của Trí-Viễn, quả thực lão không tầm thường.
Minh-Thiên tấn công liền bảy chiêu. Mỗi chiêu biến thành bẩy nữa hoá ra bốn mươi chín chiêu. Đây là một tuyệt kỹ đệ nhất của phái Thiếu-lâm, Minh-Thiên thắng khắp anh hùng thiên hạ nhờ chiêu này. Mỗi chiêu đánh ra, chưởng phong cực kỳ trầm trọng.
Nhật-Hồ lão nhân từng giao đấu với đủ hạng người Hoa, Việt. Tuy chưa biết chiêu chưởng này. Nhưng lão chỉ đỡ chiêu đầu đã hiểu được nguyên lý. Lập tức lão không đỡ nữa, mà phát ra bẩy chiêu cực kỳ thô kệch. Cứ mỗi chiêu lão phát ra, chạm vào chưởng phong của Minh-Thiên, lại bật lên tiếng ầm. Minh-Thiên phải lui một bước.
Khi hết bẩy chiêu, Nhật-Hồ quay tròn người, chưởng phong hai tay lão hóa ra thành đồng vách sắt. Minh-Thiên ngơ ngác, vì trên đời ông chưa từng thấy thứ võ công này bao giờ. Nhật-Hồ vừa quay tròn, vừa tiến lại, bất đắc dĩ ông phải đẩy một chiêu Kim-cương ban nhược chưởng vào người lão. Nhưng chưởng vừa ra, lập tức kình phong của ông, hợp với kình phong của lão hoá thành lớp chân khí mới đẩy ngược lại ông. Kinh hoàng ông vội thu chân khí lại, lão đã sát người ông. Ông phi thân lên cao, tránh thế tấn công kỳ quái. Ở trên cao, ông đá gió một cái, người rơi xuống giữa đài.
Dưới dài, Thanh-Mai hỏi Đỗ Lệ-Thanh:
- Đỗ phu nhân, võ công này phải chăng nằm trong Hồng-thiết kinh?
Đỗ Lệ-Thanh gật đầu:
- Thưa cô nương đúng thế. Chiêu vừa rồi gọi là Cuồng phong đại tuyết. Nguyên bên xứ Tây-vực, hàng năm tuyết rơi đến năm tháng. Khi tuyết rơi, gặp gió, thường biến thành lốc tuyết. Nếu Minh-Thiên đánh thẳng vào đó, sẽ bị khí hàn lãnh nhập cơ thể, chân tay tê liệt mà mất mạng. Chiêu này gồm năm biến. Nhật-Hồ mới xử dụng có bốn biến.
Trên đài Minh-Thiên đã phản công. Kim-cương ban nhược chưởng lấy yếu chỉ trong kinh Kim-cương thuộc Vô-nhân tướng thiền công. Nguyên Thiền-công nhà Phật có ba lọai gồm Vô-nhân tướng, Vô-ngã tướng, Vô-chúng sinh tướng. Cả ba hợp lại thành Vô-ngã tướng.
Khi xưa đức Thích-ca Mâu-ni, khi ngồi dưới gốc cây Bồ-đề tìm lẽ giải thoát, có không biết muôn vàn ma vương, quỷ dữ mà ngài mắc nợ với chúng từ bao kiếp trước kéo đến đòi nợ. Ngài đã tìm ra phép Thiền, để giải những nghiệp dĩ đó, rồi đi tới vô thượng chính đẳng chính giác tức đắc đạo. Sau ngài truyền cho đệ tử là Ma-ha Ca-Diếp. Từ Ma-ha Ca-diếp, truyền đến đời thứ tám là ngài Tăng-Giả Nan-Đà.
Ngài Tăng-giả Nan-Đà đến Lĩnh-Nam hoằng dương đạo pháp, truyền cho công chúa Trần Năng, Phật-Nguyệt và Trần Thị Phương-Chi trong khi bốn bà đang dự trận hồ Động-Đình. Từ sau trận đánh Hằng-sơn, Phật-Nguyệt với Trần Thị Phương-Chi bỏ đi tu rồi tuyệt tích. Còn Trần Năng, khi Bắc-bình vương Đào Kỳ với vương phi Phương-Dung tuẫn quốc, bà cùng Hùng Bảo bỏ vào Cửu-chân kháng chiến. Lúc thế nước tuyệt vọng. Bà đem khắc hết Vô-ngã tướng thiền công vào trong động Xuân-đài, về sau Bố-cái Đại-vương học được. Nay Khai-Quốc vương với Tự-Mai vô tình tìm ra, luyện nhưng chưa thành tựu.
Thiền-công Vô-ngã tướng còn chép trong bộ Lĩnh-Nam vũ kinh, mà Mỹ-Linh đã luyện thành.
Hai loại thiền công này vẫn tồn tại. Trong khi tại Tây-trúc đã tuyệt tích. Kể từ Phật Thích-ca, đến đời thứ hai mươi tám bên Tây-trúc, ngài Bồ-đề Đạt-ma cỡi thuyền đến Lĩnh-Nam truyền đạo. Ngài Bồ-đề Đạt-Ma lại chỉ học được loại thiền công Vô-nhân tướng. Sau khi ở Lĩnh-Nam ít lâu, ngài sang Trung-nguyên, lập ra phái Thiếu-lâm. Cho nên yếu chỉ thiền công mà Minh-Thiên dùng tức Vô-nhân tướng công. Về sau tổ thứ ba của phái Thiếu-lâm tên Tăng-Sán, đã nhân luyện thiền, rút yếu chỉ trong kinh Kim-cương, chế ra ba mươi sáu chiêu Kim-cương ban nhược chưởng.
Cứ bình tâm mà xét, bất cứ cao thủ của phái nào, dù cao đến đâu, cũng không thể đấu với Nhật-Hồ lão nhân. Bởi vì lão thành một thiên tài võ học. Hơn nữa lão đã có một trăm năm công lực. Võ công của lão vốn rút từ Hồng-thiết kinh, một kinh của tà ma bên Tây-thiên. Với công lực đó, từ mấy chục năm nay, không ai đỡ nổi của lão mười chiêu. Trước đây, chỉ có Vạn-Hạnh thiền sư đấu ngang tay được với lão mà thôi. Nay thêm Minh-Thiên chịu được mấy chục chiêu, đã tạo một kỳ tích. Vì Thiền-công của ông thuộc Phật gia, có thừa tính chất hoá giải bất cứ ma nghiệp, ma công nào. Cho nên mỗi chiêu Nhật-Hồ đánh ra, đều bị Kim-cương chưởng hoá giải hết.
Những cao thủ nhìn cuộc đấu, đều nhận thấy công lực, chiêu số của Nhật-Hồ tinh diệu, hùng mạnh hơn Minh-Thiên nhiều. Mỗi chiêu lão đánh ra như núi lở, như thành nghiêng, nhưng chạm vào chưởng Minh-Thiên, lại biến mất.
Đấu được hơn trăm hiệp, thình lình Nhật-Hồ lão nhân đánh ra một chiêu rất hung hiểm. Đám cao thủ phái Tản-viên la lớn:
- Ác ngưu nan độ.
Bình một tiếng. Minh-Thiên bật lui liền ba bước, mặt đỏ gay. Trong khi Nhật-Hồ lão nhân thản nhiên như không. Thấy thành công, lão tỉnh ngộ, phát chiêu nữa đến vù một cái. Minh-Thiên nghiến răng đỡ. Ầm một tiếng, ông bật lui liền ba bước, người lảo đảo.
Đám đệ tử phái Mê-linh lại kêu lên:
- Thiết kình phi chưởng.
Nguyên Nhật-Hồ lão nhân có rất nhiều giáo chúng thuộc đủ mọi môn phái qui phục. Trong khi đàm luận, lão học được một số chiêu thức võ công Đại-Việt. Bây giờ vô tình lão đem xử dụng lại thắng thế.
Lão nghĩ thầm:
- Chưởng của mình do hai vị thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh chế ra không thể thắng nổi Kim-cương ban-nhược chưởng của bọn tà ma Phật từ Tây-trúc truyền qua. Trong khi chưởng của Lĩnh-Nam, lại thắng dễ dàng là tại sao? À phải rồi, tất cả võ công cổ của Lĩnh-Nam đều do lòng tin vào thần quyền nhảm nhí tức một loại tà ma. Ta xử dụng mà đắc thế chẳng qua lấy tà chọi tà.
Nhật-Hồ lão nhân theo Hồng-thiết giáo từ nhỏ. Lão tin tưởng tuyệt đối vào tôn giáo của mình. Mà quan niệm của Hồng-thiết giáo, tất cả tôn giáo khác đều thuộc tà ma ngoại đạo, phải giết hết. Ai càng giết nhiều giáo chúng ngoài Hồng-thiết giáo, khi chết về với thế giới Mã-Mặc, Lệ-Anh sẽ càng mau trở thành thần, thành thánh. Lão u mê như vậy, nên lão giết người lại coi như một nhiệm vụ.
Hôm nay, lão thấy võ công Hồng-thiết của mình rõ ràng cực kỳ cao thâm. Cực kỳ tinh diệu, lại không thắng nổi Kim-cương ban-nhược chưởng. Trong khi lão chỉ dùng mấy chiêu tạp nhạp của Đại-Việt lại thắng Minh-Thiên dễ dàng. Lão quy vào Hồng-thiết là võ công Thánh không thể thắng võ công nhà Phật, một thứ võ công tà ma. Phải dùng võ công Lĩnh-Nam, cũng một thứ tà ma mới thành công. Tức dĩ độc, trị độc.
Lão tiếp tục phát những chiêu thức lẻ tẻ của các phái, bằng công lực cực kỳ cao thâm. Đến chiêu thứ mười, Minh-Thiên bay tung xuống đài. Ông oẹ một tiếng, miệng phun ra máu. Ông nghiến răng, ngồi dậy, điều tức, mửa ra một búng máu nữa. Là cao tăng đắc đạo, thắng bại đối với ông không quan trọng. Ông khoan thai lên đài chắp tay:
- Lão nhân! Bần tăng chịu thua lão nhân.
Nói rồi ông định bước xuống đài. Bỗng thấp thoáng, một người từ dưới đài nhảy lên, chính là Thiếu-Mai. Nàng móc trong bọc một bình thuốc, đổ ra bốn viên, hai tay dâng lên cho Minh-Thiên:
- Đại sư! Tiểu nữ xin cúng dàng bốn viên thuốc này. Đại sư dùng ngay đi, e không bị nội thương nặng.
Minh-Thiên cầm lấy mấy viên thuốc bỏ vào miệng. Ông chắp tay tạ Thiếu-Mai:
- Đa tạ tiểu cô nương.
Ông xuống đài, tư thái nhẹ nhàng, tựa như không thiết tha đến sự thua được vừa rồi. Qua cuộc đấu, rõ ràng ông chiến đấu vì Tống, có hại cho Đại-Việt. Nhưng tư thái đạo mạo, thanh thản của một cao tăng đắc đạo đã khuất phục quần hùng.
Sư thái Tịnh-Tuệ hướng vào Triệu Thành:
- Triệu thí chủ. Khi thí chủ nhận cho hai bên Tống, Việt đấu ba trận. Nếu bên Việt thắng hai, sứ đoàn phải quỳ gối làm lễ đủ tám lễ trước bàn thờ anh hùng đất Việt. Sau nữa không được bàn đến việc niên hiệu, quốc danh nữa. Nay Đại-Việt thắng, xin các vị giữ lời hứa cho.
Mặt Triệu Thành xám như tro. Y vẫy tay gọi thủ hạ lên đài. Trần Tự-An, Đoàn Huy thắp hương trao cho sứ đoàn. Triệu Thành cùng cả bọn quỳ gối lễ đủ tám lễ. Lễ xong y nói:
- Khi xưa ngài Đào Kỳ được vua Quang-Vũ nhà Hán phong tước Hán-trung vương. Nay tại hạ được phong Bình-Nam vương, thuộc hàng con cháu. Hán-trung vương làm đại công thần nhà Hán. Tại hạ lễ trước bàn thờ ngài để tỏ lòng hiếu kính bậc tiền bối. Hy vọng sau này đất Giao-chỉ sẽ còn nhiều anh hùng vì Trung-quốc ra sức, để tiếp nối sự nghiệp của Hán-trung vương.
Sư thái Tịnh-Huyền nói:
- Bần ni nhân danh võ lâm Đại-Việt kính mời các vị ở lại thụ lộc, uống chén rượu nhạt. Không biết các vị có nhận cho không?
Triệu Thành lắc đầu. Y nói với Nhật-Hồ:
- Tiên sinh! Vãn bối xin phép tiên sinh được nói mấy câu với Nam-bình vương Lý Công-Uẩn.
Nhật-Hồ lão nhân gật đầu:
- Dĩ nhiên được. Triệu đại hiệp không thể nhân đanh Bình-Nam vương ra lệnh cho võ lâm Đại-Việt. Nhưng vẫn có thể nhân danh sứ thần triều Tống, nói với Đại-Việt hoàng đế.
Triệu Thành vận khí vào đơn điền nói lớn:
- Nam-Bình vương gia. Khi vua Thái-tông bản triều còn tại thế, người hằng băn khoăn về đất Giao-chỉ này, nơi rồng nằm hổ phục. Niên hiệu Thiên-phúc thứ nhì (981), thiên triều nghe lời sàm tấu của bọn biên thần, sai Hầu Nhân-Bảo, Tôn Toàn-Hưng, Quách Quân-Biện mang quân sang đánh Giao-chỉ. Vì vậy mới xẩy ra trận Bạch-đằng, Chi-lăng. Sau người cho điều tra, biết rằng bị sàm tấu, đã ra lệnh chém bọn chúng, rồi sắc phong cho Lê Hoàn làm Giao-chỉ quận vương. Suốt bao năm, Lê Hoàn trấn phương Nam, làm cho dân chúng ấm no, giặc cướp không còn. Hàng năm sai sứ sang triều kiến, lễ số không thiếu. Vì vậy tiên hoàng không ngớt lời khen y, gia phong chức tước.
Ngừng lại một lúc, y tiếp:
- Công đức của Lê Hoàn khiến tiên hoàng dự định cải Giao-chỉ thành nước An-Nam. Đến đời Chân-tông niên hiệu Cảnh-đức thứ nhì (1005) giữa lúc triều đình định sai sứ sang sách phong, thì Lê-Hoàn chết. Sau đó các con tranh nhau. Cuối cùng Ngoạ-triều lên nối ngôi, tàn ác quá đáng, nên Thiên-triều không thể phong cho làm vua một nước.
Y hắng rặng một tiếng, rồi tiếp:
- Long-Đĩnh chết. Bấy giờ vương gia đang làm Tả-thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, tự lên kế ngôi thay Long-Đĩnh. Thiên-triều nhiều lần sai sứ sang dục vương gia tìm con cháu nhà Lê tái lập chính thống. Nhưng vương gia đều thượng biểu rằng con cháu nhà Lê không còn ai. Thiên triều cũng tin vậy, phong cho vương gia tước Nam-Bình vương, tạm quyền trị nước. Thế mà vương gia tiếm xưng đế hiệu Thuận-Thiên, quốc hiệu Đại-Việt. Như vậy thực quá lắm.
Y chỉ vào Hồng-Sơn đại phu:
- Năm trước đây, Thiên-Thánh hoàng-đế cử tiểu vương đi sứ, mục đích tìm con cháu nhà Lê. Hay đâu trời không phụ lòng người, tiểu vương tìm được Nam-Quốc vương Lê Long-Mang, chính là nhân vật kỳ vĩ, võ công vô địch thiên hạ, ơn đức trải khắp Hoa-Việt. Tiểu vương về tâu lại, ắt hẳn Thiên-triều sẽ phong cho Nam-Quốc vương làm hoàng đế, quốc hiệu vẫn còn tên Đại-Việt. Niên hiệu tùy Nam-Quốc vương chọn.
Y ngừng lại nghỉ để thở mấy hơi rồi tiếp:
- Vậy tiểu vương nghĩ Nam-Bình vương nên trả ngôi chính thống cho họ Lê. Vạn nhất vương không trả, cái gì sẽ xẩy ra? Võ lâm Giao-chỉ sẽ nổi dậy chống vương. Phái Sài-sơn dĩ nhiên chống vương. Phái Đông-a đã hai đời thân Lê. Đương kim Thiên-trường ngũ kiệt vốn bạn cũ của Hồng-Sơn đại phu, ắt phái Đông-a thành đạo quân chính kéo về Thăng-long. Chiêm-thành, Chân-lap, Lão-qua sẽ đem quân vào. Đại quân Thiên-triều ở hai lộ Quảng hơn trăm vạn vượt biên tiến sang. Như vậy liệu vương gia có giữ nổi không? Việc đó tùy vương gia xử trí.
Triệu Thành để ý, thấy Hồng-Sơn đại phu có vẻ rửng rưng với lời nói của y. Y chửi thầm:
- Thằng Lê Long-Mang này kiến thức không tầm thường, lại thêm con vợ đẹp như tiên của nó luôn công kích Thiên-triều. Có khi y đổi ý kiến cũng nên. Đã vậy ta bốc lão già hiếu danh Nhật-Hồ lên cho bọn Nam-man đánh nhau chơi, có như thế ta mới tiến quân sang được.
Nghĩ vậy y cúi đầu trước bàn thờ lễ tám lễ rồi tiếp:
- Thưa các vị anh hùng con cháu Bắc-bình vương. Qua ba trận đấu vừa rồi, tiểu vương thấy võ công Giao-chỉ thịnh hơn bao giờ hết. Giao-chỉ xứng đáng thành Đại-Việt. Người cai trị Đại-Việt không phải quận vương, mà phải thành hoàng đế. Đại-Việt hoàng đế chỉ có thể là Nam-Quốc vương. Nếu vì lý do nào đó, các vị không tin tưởng vào Nam-Quốc vương, phải cử lấy một vị đại tôn sư võ lâm lên thay. Thiên-triều cũng sẽ phong làm Đại-Việt hoàng đế, và tránh khỏi chiến tranh. Thôi, tiểu vương xin lui. Sau hai ngày nữa, tiểu vương sẽ đến Cổ-loa xem duyệt binh, chờ kết quả quyết định của Nam-Bình vương cùng các vị tôn sư võ lâm.
Nói rồi y định xuống đài, thấp thoáng bóng xanh, Thanh-Mai nhảy lên, đứng cạnh y. Y giật mình lùi lại, miệng lắp bắp:
- Trần cô nương. Từ Thiên-trường cách biệt, cô nương vẫn mạnh chứ?
Miệng nói, mà tim y đập rộn ràng. Dưới ánh nắng hè, da mặt Thanh-Mai hồng hào, tươi đẹp như một bông hoa lan mới nở, đang khoe sắc. Quần hùng thấy thế khinh thân của nàng vừa mau, vừa nhẹ, tỏ ra nội công thâm hậu vô cùng. Khi nhìn rõ thấy vẻ đẹp sắc sảo của nàng, giới trẻ bật lên những tiếng suýt xoa. Thanh-Mai chắp tay thi lễ:
- Tiểu nữ Trần Thanh-Mai, đệ tử phái Sài-sơn, xin kính cẩn ra mắt Triệu vương gia.
Triệu Thành kinh ngạc:
- Trần cô nương! Rõ ràng cô nương thuộc phái Đông-a, hơn nữa là ái nữ của vị chưởng môn danh trấn thiên hạ, cớ sao lại xưng làm đệ tử phái Sài-sơn?
Thanh-Mai cười rất tươi:
- Dĩ nhiên, gia nghiêm làm chưởng môn phái Đông-a. Nhưng tiểu nữ được Hồng-Sơn đại phu ưu ái thu làm đệ tử. Không những thu làm đệ tử, mà được coi như ái đồ của người. Vương gia có biết tại sao không? Trong mười đại đệ tử của người, tiểu nữ vốn nhỏ tuổi nhất, vì vậy cũng được sư phụ cưng chiều.
Triệu Thành thấy Thanh-Mai lên đài, y biết thế nào cô gái xinh đẹp này cũng gây sự với mình chứ không sai. Y hỏi:
- Không biết cô nương có điều chi dạy bảo? Kể từ ngày gặp gỡ cô nương lần đầu, tại hạ thấy không gian như thu hẹp lại, trăm hoa kém tươi. Tại hạ những tưởng về Trung-nguyên, cử mai mối, đem xe vàng đón cô nương làm vương phi. Thế nhưng... thế nhưng cô nương cứ theo làm khó dễ tại hạ hoài, đạo lý ở chỗ nào?
Thanh-Mai dõng dạc nói:
- Triệu vương gia ơi, tiểu nữ không hề làm khó dễ vương gia. Bình tâm mà xét, trong thiên hạ, vương gia chỉ ngồi dưới có Thiên-Thánh hoàng-đế, mà ngồi trên trăm triệu người, uy quyền biết mấy. Võ công kiến thức vương gia lại xuất chúng. Đương nhiên vương gia trở thành nguồn ước mơ của các thiếu nữ thiên hạ. Khi vương gia mới gặp tiểu nữ. Vương gia đã tỏ ý cầu thân. Tiểu nữ có phải gỗ đâu mà không cảm động?
Nàng ngừng lại chỉ vào Hồng-Sơn đại phu:
- Huống hồ cứ như lời vương gia nói, vương gia sang đây mục đích vì sư phụ của tiểu nữ, hưng diệt, kế tuyệt. Vương gia đã đến Vạn-thảo sơn trang cùng Thiên-trường tặng lễ vật lớn cho sư phụ cùng gia nghiêm tiểu nữ. Với bằng ấy lý do, đời nào tiểu nữ dám vô phép với vương gia, mà vương gia bảo rằng tiểu nữ làm khó dễ?
Nàng đưa mắt nhìn Đoàn Huy, rồi tiếp:
- Có điều tiểu nữ sinh làm gái Việt. Vương gia ơi, gái Trung-quốc lấy chồng, chỉ biết có chồng. Chồng là nhất. Nhưng gái Việt lại khác. Gái Việt yêu nước hơn yêu chồng. Chồng đứng thứ tư, sau nước, sau sư phụ, và sau song thân.
Cả quảng trường vỗ tay vang dội, hết tràng này đến tràng khác.
Người người tán tụng:
- Đệ tử danh gia có khác. Nói năng đúng đạo lý. Hành xử đâu ra đấy.
- Truyện! Một kiến thức của ông bố đã làm nghiêng thiên hạ rồi. Huống hồ thêm kiến thức của Hồng-Sơn đại phu!
- Người ta đồn nàng là một trong Thuận-Thiên cửu hùng thì phải. Em kết nghĩa của Khai-Quốc vương. Nghe đâu Thuận-Thiên hoàng đế định phong làm Vương phi Khai-Quốc vương đấy.
- Nếu hoàng-cung có một Vương-phi như vậy thực phúc đức quá. Nghe đâu phen này Hồng-Sơn đại phu được Thiên-trường đại hiệp hỗ trợ về đòi lại ngôi vua. Thế không biết nàng theo sư phụ với bố hay theo nghĩa huynh.
- Chắc theo sư phụ. Nàng vừa nói: Gái Việt coi trọng nhất nước thứ đến sư phụ. Chồng đứng thứ tư kia mà.
- Cứ chờ xem!
Thanh-Mai đợi cho tiếng vỗ tay ngưng, nàng tiếp:
- Suốt hơn năm qua, mỗi bước chân đi của vương gia, tiểu nữ hằng theo dõi. Vì vậy, hôm nay vương gia tới đây, ngỏ lời với anh hùng về ngôi chính thống của Đại-Việt, tiểu nữ bắt buộc phải lên tiếng.
Triệu Thành kinh hoảng:
- Con nhỏ này kiến thức thực bao la, trí mưu không thua ai. Mình không cẩn thận e nguy với nó. Bất cứ nó nói gì, ta cứ chối biến là xong.