Bạch Cư Dị -124 tự Lạc Phu, hiệu Hương Sơn cư sĩ, người đất Hạ-lang. Đỗ tiến sĩ niên hiệu Trinh-nguyên, giữ chức Hiệu thư lang. Sau vì bị đố kị, ông phải biếm làm chức Tư-mã đất Giang-châu. Trên đường nhậm chức, một đêm thu, được bạn tiễn đưa qua bến Tầm-dương, giữa lúc đôi bên đang đối ẩm ly biệt, thì có tiếng dàn thanh thoát vọng đến. Ông hỏi: Tại sao bến sông vắng lại có tiếng đàn não nùng như vậy? Bạn kể cho biết tiếng đàn do một ca kỹ nổi tiếng ở đế đô, về già, lấy một người lái buôn trà. Người lái buôn xuôi ngược, vắng nhà luôn. Nàng ở lại trên bến sông một mình. Ông mời người ca kỹ sang cùng uống rượu, tâm sự. Nghe tâm sự nàng, ông cảm động khóc sướt mướt:
Tọa trung khấp hạ thùy tối đa,
Giang Châu Tư Mã thanh sam thấp.
Phan Huy Chú dịch:
Lệ ai chan chứa hơn người,
Giang-châu tư mã đượm mùi áo xanh.
Đào Kỳ bị lên cơn suyễn mê mê tỉnh tỉnh. Chàng chỉ biết rằng mình bị lão ăn mày vác lên trên vai chạy đi. Chàng nghe tiếng gió vù vù bên tai không ngừng. Thỉnh thoảng lại thấy người mình nhô lên thụp xuống. Sau cùng, chàng nghẹt thở, không biết gì nữa. Trong cơn mê, chàng thấy mình cùng Phương Dung dạo chơi trên một sườn đồi đầy hoa. Chợt quân Hán kéo đến bao vây, chàng cùng Phương Dung tả xung hữu đột cũng không thoát. Cùng quá, chàng kêu lên:
- Thôi, chúng ta đành theo gương An Dương vương vậy.
Phương Dung dùng kiếm đánh dạt quân Hán. Hai người lên đỉnh ngọn đồi, toan tự vẫn. Lưỡi gươm đưa lên cổ thì thấy lạnh toát rồi giật mình thức dậy. Chàng mở mắt ra thấy tối om không có ánh sáng. Chàng đưa tay sờ xoạng thì chạm vào hai tấm ván gỗ hai bên. Chàng sờ lên đầu, trước mặt đều thấy như vậy cả. Chàng phiêu phiêu tưởng tượng:
- Thì ra mình đã chết rồi. Người ta đã chôn mình trong lòng đất đây.
Chàng sờ xoạng thấy mình nằm trên một lớp hoa, cây cỏ khô mùi thơm ngào ngạt, rất dễ chịu. Chàng tin rằng mình chết rồi, người ta đã liệm mình với hoa cỏ.
Chàng cố gắng nhớ lại, nhưng chỉ lờ mờ thấy mình đi Cổ-loa với Thiều Hoa và Phương Dung, rồi gặp lão ăn mày. Chàng và lão đấu chưởng. Chưởng lực của lão thâm hậu hơn Nghiêm Sơn nhiều. Rồi chàng lên cơn suyễn, lão chụp chàng chạy đi.
Chàng suy nghĩ:
- Chắc sau đó ta chết. Sư tỷ đuổi theo lão ăn mày, tìm thấy xác ta đem về chôn. Sư tỷ thương ta, nên đã chôn ta với hoa khô, cỏ thơm thế này đây. Chắc lúc chôn ta, sư tỷ đau lòng lắm. Không biết sau này gặp cha mẹ ta, ai là người minh oan cho sư tỷ đây?
Chàng cố gắng co chân lên, nhưng không có lực. Chàng dùng tay bẹo lên mặt mình, thấy còn đau. Chàng nghĩ tiếp:
- Như vậy, mình chưa chết. Hà! Mình chỉ ngất đi thôi, người ta đã vội chôn mình rồi. Ta nằm đây điều tức một lúc, khí huyết lưu thông, ta sẽ phá quan tài, đội mồ sống dậy. Ha... ha... ta đợi nửa đêm về nhà, nhát sư tỷ mới được. Sư tỷ thấy sẽ khấn: Tiểu sư đệ, đừng nhát chị.
Chàng bắt đầu vận khí, luyện lại tâm pháp của phái Cửu-chân. Chỉ một lúc sau, đã thấy người khỏe mạnh. Chàng dùng tay đẩy khẽ nắp quan tài và thấy ánh sáng lọt vào. Chàng lách mình nhảy ra. Khi nhìn lại, bất giác chàng mỉm cười: Chỗ chàng nằm không phải là quan tài. Đó là một cái hộp bằng gỗ đậy kín, đặt giữa nhà. Chàng quan sát căn nhà, thấy bày biện thô sơ, nhưng sạch sẽ. Đàng trước có một giàn thiên lý, hoa nở rất đẹp. Chàng bước ra sân chơi. Trước sân, một vườn hoa rộng mênh mông, trồng đủ thứ cây, cỏ, hoa lá, tiếng chim hót ríu rít. Chàng suy nghĩ:
- Đây là đâu? Ai đã bỏ ta vào hộp gỗ như vậy? Người bỏ ta vào hộp gỗ chắc không phải để hại ta. Nếu họ muốn hại ta, chắc đã cho ta một dao rồi. Vậy, họ cho ta vào hộp gỗ để làm gì? A, hay họ dùng thuốc để cứu ta đây? Đúng rồi. Họ cho ta vào thùng với đầy cây thuốc để ta thở hít như vậy, mới khỏi bệnh được.
Chàng trở vào nhà, thấy một cái tủ lớn, chia thành nhiều ngăn nhỏ. Chàng mở tung ra xem. Đúng như chàng đã nghĩ, trong các ngăn đầy những vị thuốc. Chàng nhìn khắp nhà, thấy chỗ nào cũng để đầy những cây, cỏ làm thuốc. Chàng định ra vườn, thì thấy một cô bé tuổi khoảng 14-15 chạy vào. Cô bé thấy Đào Kỳ thì kêu lên:
- Ngươi... ngươi sống lại rồi ư?
Đào Kỳ chú ý quan sát cô bé, thấy mắt cô ta đen, mặt trái xoan đầy vẻ hiền dịu, ngây thơ. Chàng tự nghĩ:
- Giá ta có một cô em bé như vậy, có phải vui biết mấy không?
Cô bé không thấy Đào Kỳ trả lời, lại hỏi:
- Ngươi... ngươi sống lại rồi ư?
Đào Kỳ cười:
- Không phải đâu. Ta chết rồi, chết từ lâu rồi. Khi ta xuống gặp Diêm-vương, người bảo ta phải về trần thế làm một việc, nên ta hiện hồn về nhát ngươi đây. Ngươi có sợ không?
Cô bé mở to mắt ra nhìn Đào Kỳ, rồi nói:
- Ngươi nói láo. Rõ ràng ngươi sống lại cho nên nắp quan tài gỗ của ngươi đã mở ra. Nếu ngươi hiện hồn về, xác ngươi vẫn phải nằm trong hộp gỗ chứ?
Đào Kỳ trêu cô:
- Ta chết thực rồi đấy chứ. Hồn ta tìm xác nhập vào, ta là quỷ nhập tràng đây. Người có sợ không?
Cô bé có vẻ hơi sợ:
- Ngươi đừng dọa ta. Quỷ nhập tràng thì chân tay cứng đơ, ngươi đã ngồi được ắt không phải quỷ nhập tràng.
Đào Kỳ đứng lên, bước lại gần cô bé, chân tay giả bộ cứng đơ như quỷ nhập tràng. Cô bé hoảng sợ, run run nói:
- Thì ra ngươi là quỷ nhập tràng thực à? Ngươi đừng hại ta. Ông ngoại ta chữa bệnh cho ngươi mấy tháng nay, không ngờ ngươi vẫn bị chết. Trong cơn mê, ngươi gọi tên Thiều Hoa, rồi Tường Quy, rồi Phương Dung. Toàn tên con gái không à. Ba người này là ai vậy?
Đào Kỳ làm bộ thè lưỡi nhát:
- Đó là ba con quỷ cái bạn của ta. Chúng ta hẹn nhau đến đây nhát ngươi.
Chợt cô bé cười hắc hắc:
- Ngươi nói láo. Rõ ràng ngươi sống đây, thế mà ngươi lại bảo rằng ngươi đã chết rồi. Ta thấy ngực ngươi nhô lên, thụp xuống, tức là ngươi thở. Quỷ nhập tràng không biết thở.
Cô bé dậm chân nói:
- Ông ngoại bảo chiều nay ngươi tỉnh lại là người sống, còn chiều nay người không tỉnh lại thì người chết. Sao người không nằm yên trong hộp gỗ để xông cho hết chất độc? Ông ngoại nói người bị trúng phấn độc của loại sâu đã mấy năm rồi. Chất độc này ghê gớm lắm, nếu để hai năm nữa, ngươi sẽ nghẹt thở rồi chết.
Đào Kỳ thấy cô bé nói năng dễ thương quá, nguồn vui dâng lên, chàng muốn làm quen với cô:
- Cô bé ơi, tên cô là gì vậy?
Cô bé đáp:
- Tôi đố anh biết tên tôi là gì đấy.
Đào Kỳ thấy trên tay nàng cầm mấy bông hoa quỳnh, hương thơm ngào ngạt. Trên đầu nàng dắt một bông hoa quế (hồng) chưa nở. Chàng suy nghĩ muốn tìm một câu gì đùa với cô bé cho vui, bèn nói:
- Cô bé xinh đẹp thế này, chắc tên cũng đẹp lắm. Cô ôm hoa quỳnh, giắt hoa quế, vậy tên cô là Quế Quỳnh hay Quỳnh Quế phải không?
Cô bé trợn mắt lên ngạc nhiên:
- Anh thực giỏi, đã đoán ra tên tôi. Tôi là Quỳnh, em tôi là Quế, chúng tôi là hai chị em sinh đôi. Hôm nay chị tôi theo ông ngoại ra chợ. Còn tôi ở nhà coi chừng anh. Ông ngoại dặn rằng khi anh tỉnh dậy thì múc cháo cho anh ăn. Vậy anh vào nhà để lấy tôi lấy cháo cho mà ăn.
Cô bé bước thoăn thoắt vào bếp lấy bát múc cho Đào Kỳ một bát cháo, bưng ra để trước mặt chàng:
- Cháo đây, anh ăn đi.
Đào Kỳ cầm thìa múc cháo ăn. Chàng thấy một mùi thơm kỳ lạ bốc lên mũi. Chàng ăn một thìa cháo, hương thơm tỏa khắp người. Chàng cố gắng tìm hiểu xem đây là cháo gì, nhưng nghĩ mãi không ra. Cháo trắng, có những hạt hình trám nhỏ xíu như hạt bắp, chàng ăn thấy bùi, béo ngậy xông lên mũi. Chàng hỏi cô bé:
- Cô Quỳnh ơi! Cháo gì mà ngon vậy?
Quỳnh lắc đầu nói:
- Tôi không biết. Ông ngoại cùng với mấy người nữa, thêm chị em tôi lặn lội trong rừng đến mấy ngày mới tìm được hai trăm tổ sâu, rồi lấy con nhộng trong tổ sâu ngâm với thuốc một ngày nữa, sau mới nấu cháo cho anh ăn đó.
Đào Kỳ cảm thấy ớn da gà:
- Thì ra mình ăn sâu non mà không biết. Chắc con nhộng sâu này có thể chữa bệnh được cho mình đây, nên họ mới nấu cháo cho mình ăn.
Chàng ăn liền một lúc hết cả nồi cháo, rồi hỏi Quỳnh:
- Này em bé này, thế ông em tên gì vậy?
Quỳnh lắc đầu:
- Tôi gọi anh là anh, sao anh cứ gọi tôi là cô bé vậy? Tôi có còn bú mẹ đâu mà gọi là cô bé?
Đào Kỳ nghe sư tỷ nói nhiều lần rằng, con gái tuổi 14-15 đã khôn lắm rồi. Đứng trước các chàng trai, các cô thường muốn được coi như là người lớn. Muốn cho các cô vui lòng, phải coi các cô như đã trưởng thành rồi.
Đào Kỳ xin lỗi:
- Tôi xin lỗi cô nương, năm nay cô nương bao nhiêu tuổi, lệnh ngoại tổ cao danh quý tánh là gì?
Quỳnh tươi mặt lên:
- Tôi mới 15 tuổi. Ngoại tổ tôi ấy à? Tôi không biết tên ông là gì, tôi chỉ quen gọi là ông thôi. Ông ngoại tôi năm nay già lắm rồi, đến bảy mươi là ít đấy, bởi bác Cả tôi cũng đã ngoài năm mươi rồi.
Quỳnh dẫn Đào Kỳ ra vườn chơi. Khu vườn nhà này trồng toàn cây thuốc, rộng có đến chục mẫu. Bướm, ong bay lượn, chim hót ríu rít trên cành. Quỳnh dẫn Đào Kỳ đi chỉ hết hoa này đến quả kia. Tới một cây ổi, trái to bằng nắm tay, cô bé hỏi:
- Này, anh có muốn ăn ổi không?
Đào Kỳ ngạc nhiên nghĩ thầm: Sao cô bé này biết ta thèm ổi? Nhưng chàng không hỏi, chỉ gật đầu. Cô bé chỉ một quả ổi trên cành cao, tuy da xanh nhưng đã ngả màu trắng:
- Da ổi bao giờ cũng xanh và đét. Khi ổi chín, da hơi biến thành trắng và mọng lên. Vì vậy, quả nào đã mọng là sắp chín đấy.
Cô nhặt một viên đá nhỏ bằng hạt nhãn búng đánh véo một cái, trúng cuống trái ổi. Cuống bị tiện đứt, trái ổi rơi xuống. Cô bắt lấy, đưa Đào Kỳ:
- Anh ăn đi, ngon lắm đấy.
Đào Kỳ cầm trái ổi hít hà, thấy thơm ngát. Chàng cắn một miếng kêu rau ráu, mùi ổi vừa thơm, vừa ngọt tỏa khắp miệng.
Cô bé nói:
- Ổi phải ăn khi còn ương ương, chứ chín rồi ăn nó mất hết vị ngon. Khi chín, thịt ổi sẽ nhão. Phải ăn ổi khi còn cứng vừa chua, vừa ngọt mới thú.
Đào Kỳ vừa ăn ổi, vừa cố tìm chiêu số võ công của cô bé. Chàng thấy thủ kình của cô bắn ổi vừa rồi giống hệt thủ kình của lão ăn mày. Vậy, lão ăn mày bắt chàng không phải vì muốn hại chàng, mà mang chàng về đây để chữa trị. Nhưng lão là ai? Đây là đâu?
Chàng hỏi Quỳnh:
- Quỳnh cô nương, tôi đến đây đã lâu chưa?
Quỳnh tính đốt ngón tay, nói:
- Ba tháng rồi. Sáng nay ông tôi đi xa, dặn tôi ở nhà coi anh. Ông tôi nói chiều nay mới về.
Khi Đào Kỳ ăn hết quả ổi, cô bé lại búng viên sỏi nữa, một trái khác lại rơi xuống.
Đào Kỳ cầm quả ổi, nói:
- Cám ơn cô nương. Võ công của cô nương cao lắm nhỉ! Nếu không, sao chỉ một cái búng, viên sỏi kêu véo một cái như vậy? Cô tập võ lâu chưa?
Quỳnh gật đầu:
- Tôi tập võ từ năm lên sáu tuổi, do ông ngoại tôi dạy. Tôi cũng không biết võ công tôi cao hay thấp, vì tôi chưa có dịp đấu với người ta. Này anh, tên anh là gì vậy?
- Tôi họ Đào, tên là Kỳ.
- Thế anh có biết võ không? Sư phụ anh là ai?
- Có chứ. Tôi cũng tập võ từ thuở nhỏ như cô. Bố tôi là sư phụ của tôi.
- Thế anh có đấu với ai bao giờ chưa?
Đào Kỳ gật đầu. Cô bé thích chí reo lên:
- Ừ! Nếu vậy, bao giờ anh khỏi bệnh, tôi sẽ đấu với anh.
Có tiếng xe ngựa kêu lách cách, cô bé reo lên:
- A! Ông ngoại đã về.
Cô chạy ra mở cổng. Chiếc xe ngựa chạy vào trong sân. Trên xe, một cô bé giống Quỳnh như hai giọt nước, khó có thể phân biệt được. Đào Kỳ biết đây là Quế. Hai cô chỉ khác nhau một điều: Quỳnh mặc áo vàng, còn Quế mặc áo hồng. Trên xe còn có lão ăn mày mà Đào Kỳ đã có dịp giao đấu ít hiệp.
Lão trông thấy Đào Kỳ thì mừng lắm, nói:
- Đào công tử, ngươi tỉnh rồi à?
Đào Kỳ chắp tay hành lễ:
- Đa tạ lão bá cứu mạng cho tiểu bối.
Lão ăn mày vẫy tay nói:
- Giữa đường thấy người bị nạn, ra tay cứu giúp, đó là y đạo vậy.
Lão kéo Đào Kỳ vào nhà rồi nói:
- Bệnh của công tử rất phức tạp. Đầu tiên, công tử tập võ công của phái Cửu-chân, thiên về cương dương. Nội công Cửu-chân lại luyện ở dưới sông, biển, thành ra trong cái dương có cái âm. Sau đó, công tử lại luyện võ công của Tản-viên. Võ công Tản-viên gốc ở Sơn Tinh. Sơn Tinh là người trên núi, luyện nội công thiên về dương cương. Như vậy, trong cái dương còn có cái dương nữa. Rồi không biết cơ duyên nào, công tử lại luyện võ công của phái Long-biên. Phái Long-biên thiên về âm nhu. Thế là ba thứ võ khác nhau ở trong cơ thể của công tử. Công tử không biết thành ra cứ sử dụng. Khi thì âm, khi thì dương. Rút cục tam âm, lục mạch bị thương cả. Kịp đến khi công tử bị hít phải phấn tằm độc, phấn chạy vào phổi. Công tử biết dùng tía tô xông lên, tự cứu được mạng, nhưng tằm độc vẫn còn trong cơ thể. Phấn tằm độc dính vào phổi không khu trục ra được, nên thỉnh thoảng phổi tấy lên, công tử bị suyễn. Đúng ra, nếu công tử chuyên tập một thứ võ, có thể chống chọi được ba năm mới nguy. Đàng này, công tử lại tập tới ba thứ võ công khác nhau... cơ thể rối loạn, khi trúng độc, không biết nguy hiểm ngừng ngay để tìm thầy chạy chữa. Công tử lại đi đấu chưởng với người, thành ra suýt bỏ mạng.
Đào Kỳ bội phục vô cùng. Lão ăn mày chỉ chẩn mạch đã biết được rõ những võ công chàng đã tập, quả lão không phải người thường. Lão nói tiếp:
- Quan trọng nhất là cách đây mấy ngày, công tử vừa đấu chưởng với một đại cao thủ bật nhất, bậc nhì của người Hán, rồi sau đó uống rượu vào... và cuối cùng đấu chưởng với lão già này, nên độc chạy sâu vào tam âm, lục mach. Không biết lão có chữa được không. Công tử, ngươi đấu chưởng với cao thủ người Hán tên gì vậy? Không ngờ trong hàng ngũ quân Hán cũng có một đại cao thủ như thế.
Đào Kỳ nói:
- Hán quan đó là chồng của sư tỷ vãn bối.
Lão ăn mày thở dài:
- À, thì ra thế. Tại sao công tử lại đấu chưởng với y? Phải chăng hai người xung đột ý tưởng?
Đào Kỳ thấy không thể dấu diếm lão ăn mày được, chàng bèn lược thuật qua vụ cứu Ngũ-kiếm cho lão nghe. Lão gật đầu:
- Đúng là mưu thâm. Ngũ-kiếm là người của giặc. Thắng Ngũ-kiếm đã là anh hùng rồi. Đàng này, không những đã thắng Ngũ-kiếm, còn biến Ngũ-kiếm thành kẻ thù của giặc, tức đã thắng giặc hai lần.
Bé Quế hỏi lão ăn mày:
- Ông ơi, tại sao lại thắng hai lần?
Lão ăn mày nói:
- Coi như Ngũ-kiếm bằng 500 quân, ta cũng cần 500 quân mới đánh lại họ. Ta được Ngũ-kiếm thành ra có tới 1,000 quân, có phải ta có lực lượng gấp đôi địch không?
Đào Kỳ kính cẩn nói:
- Tiểu bối không dám thỉnh cao danh lão bá?
Lão ăn mà cười:
- Cao danh à? Lão không có tên đâu. Lão chuyên nghề chữa bệnh, người ta gọi lão là Đại-phu. Nhưng lão hay đi ăn mày, nên người ta ghép tên lão thành Khất đại phu, tức ông thầy thuốc ăn mày.
Đào Kỳ à lên một tiếng:
- Ngay khi cháu bị trúng độc, đệ tử của lão bá là Trần Năng đã đi thỉnh lão bá ở núi Tản-viên, nhưng không gặp lão bá. Cháu đã đi khắp nơi dò tin tức lão bá, không ngờ bá lại ở đây.
Lão già đó tên thật là Trần Đại Sinh, sư huynh của Lê Đạo Sinh. Tuy võ công lão rất cao, nhưng ít giao dấu với người đời, nên nào ai biết bản lãnh của lão. Lão nghiên cứu y khoa rất tường tận, dùng y đạo cứu đời. Lão thường dùng một người, một lừa, lang thang khắp nơi chữa bệnh cho người. Ai trả tiền, lão không nhận. Nhưng ai mời ăn, đãi rượu, lão không từ chối. Vì vậy, người đời kính trọng lão, đặt cho lão tên hiệu là Khất đại phu. Đại phu là ông thầy thuốc, Khất là ăn mày. Tiếng tăm, đạo hạnh của lão vang lừng Lĩnh Nam, cả đến những vùng Kinh-châu, Tứ-xuyên của Trung- nguyên cũng biết danh lão.
Đào Kỳ không ngờ, mình tìm lão khắp nơi, không biết tin tức gì, đến lúc nguy kịch, thì gặp lão, đấu chưởng với lão, được lão đem về đây trị bệnh. Chàng thắc mắc:
- Hồi nãy lão bá nói đến tam âm, lục mạch, cháu không hiểu là gì, xin lão bá dạy dỗ cho.
Khất đại phu gật đầu:
- Cơ thể người ta do âm và dương kết hợp lại. Các bộ phận trong người cũng chia thành âm, dương. Những bộ phận đặc là âm, gồm có: can, tỳ, thận, phế, tâm và tâm bào. Những bộ phận rỗng thuộc dương, gồm có: tam tiêu, đại trường, tiểu trường, bàng quang, đởm và vị. Trong sáu bộ phận âm phân ra thái âm, thiếu âm, khuyết âm. Trong sáu bộ phận dương cũng phân ra thái dương, thiếu dương và dương minh.
Đào Kỳ gật đầu:
- Thế mà từ trước tới nay, cháu chỉ biết có âm dương mà thôi.
Khất đại phu tiếp:
- Tất cả những bộ phận trong người, nối với bên ngoài bằng những đường kinh. Trên tay có ba kinh âm, ba kinh dương. Dưới chân cũng có ba kinh âm, ba kinh dương. Như vậy, tổng số là tam âm.
Đào Kỳ hiểu ra:
- Cộng cả ba âm, ba dương thành sáu mạch, bởi vậy mới gọi là lục mạch.
Khất đại phu giảng thêm:
- Trên cơ thể còn những đường nối các kinh lại với nhau, nhưng không thuộc bộ phận nào trong người, đó là nhâm mạch, đốc mach, dương kiêu, âm kiêu, dương duy, âm duy, xung và đới, cộng lại thành kỳ kinh bát mạch. Lắm lúc lão nghĩ, làm sao trong võ học cũng phải đặt trên cơ sở y lý mới tiến xa được. Hiện giờ từ Trung-nguyên cho tới Âu-Lạc ta, chưa có ai hợp được y học với võ học. Lão mới thí nghiệm, thấy thành công. Như đốc mạch là tổng hợp các kinh dương. Lão làm cho chân khí trên các kinh dương và đốc mạch lưu thông. Rồi khi ta đấu chưởng với người khác, vận chân khí ra các kinh dương ở tay, khi đó, phóng chưởng sẽ mãnh liệt vô cùng.
Nói xong, Khất đại phu lấy viên đá nhỏ búng một cái bay về phía trước, rít lên veo véo, trúng vào cây chuối đánh bộp một cái, rồi rơi xuống. Ông bảo Đào Kỳ:
- Ngươi bóp ngón tay giữa ta một cái.
Đào Kỳ bóp thử thấy cứng vô cùng. Khất đại phu hít một hơi khí rồi cầm viên sỏi búng đến véo một cái, viên sỏi trúng vào cây chuối đàng trước, chui phập vào trong. Ông bảo Đào Kỳ:
- Ngươi bóp tay ta thử xem.
Đào Kỳ bóp ngón tay giữa của ông. Chàng thấy có luồng điện rung rất mạnh, rồi hất chàng bắn lui lại một bước. Đào Kỳ lắc đầu không hiểu.
Khất đại phu nói:
- Cái búng thứ nhất của ta chưa vận chân khí ra ngón tay, nên kình lực không mạnh. Ngươi bóp tay ta không sao. Cái búng thứ nhì ta đã vận chân khí, nên kình lực mạnh, ngươi bóp tay ta bị chân khí phản công, hất ngươi ra xa.
Đào Kỳ ngạc nhiên hỏi:
- Thế nghĩa là thế nào?
Khất đại phu giảng:
- Từ tiền cổ đến giờ, võ lâm luyện võ, chỉ biết vận chân khí ra chân, ra tay tấn công người, hoặc vận chân khí vào đơn điền, rồi từ đó chuyển sang từng kinh một, thấy không có gì khó khăn cả. Sau ta thử vận chân khí vào một kinh thì thấy chân khí mạnh như vũ bão. Ta mới tự giải thích rằng: Chân khí của toàn người, nếu vận ra chân, tay chiến đấu thì vừa lâu, vừa khó, lại không mạnh. Nếu ta vận vào từng kinh một, thì lại có thừa. Vừa rồi ta vận khí từ kinh tam tiêu ra ngón giữa, ngươi đã thấy qua kết quả.
Nói rồi, không đợi Đào Kỳ có đồng ý hay không, ông chỉ lên đồ hình trên tường với những đường kinh và kỳ kinh bát mạch. Nhờ có trí nhớ tốt, ông nói đến đâu, Đào Kỳ thuộc đến đó. Ông nhấn mạnh:
- Nhâm mạch là nơi tổng hội các kinh âm, khí của sáu kinh âm đổ về đó như nước các sông đổ ra biển. Đốc mạch là nơi tổng hội của các kinh dương. Dương khí của sáu kinh dương đều luân lưu qua.
Đào Kỳ hỏi:
- Như vậy đốc mạch và nhâm mạch có thông với nhau được không?
Khất đại phu như gặp người tri kỷ, ông hứng trí quá, giảng:
- Có chứ. Nhâm, đốc mạch giao hội nhau ở huyệt Trương cường, gần hậu môn. Đó là chỗ giao nhau bên dưới. Chúng còn giao hội nhau ở huyệt ngân giao tại môi trên. Vận chân khí hai mạch này thông với nhau, là hòa hợp được âm, dương.
Đào Kỳ góp ý kiến:
- Nếu hợp được như vậy, công lực sẽ tăng lên không biết đâu mà lường được. Trong cơ thể có khí âm, khí dương. Phái Tản-viên, Cửu-chân, Hoa-lư thiên về dương cương. Phái Long-biên thiên về âm nhu. Người luyện nội công chỉ chuyên một thứ. Dương sinh ra không có âm để tựa. Âm sinh ra không có dương để hòa hợp, vì vậy, tập thì nhiều, nhưng sau đó, chân khí mất đi đến bảy tám phần. Cho nên phải luyện một thời gian lâu lắm mới có kết quả. Nếu biết hòa hợp âm dương thì thời gian luyện công một năm sẽ bằng mười năm.
Khất đại phu há hốc miệng ra hỏi:
- Tiểu hữu, ngươi... ngươi cũng biết y học à?
Sự thực Đào Kỳ không biết gì về y học. Ngày nọ ở Thái-hà trang, chàng nghe Lục Mạnh Tân giảng về học thuyết âm, dương trong kinh Dịch. Rồi từ đó chàng hội hợp được chân khí âm dương của Tản-viên với chân khí âm của Long-biên mà công lực luyện tập một năm bằng mười năm. Bây giờ, được Khất đại phu giảng về kinh mạch, chàng suy nghĩ và phát biểu ý kiến, nên ông kinh ngạc đến ngơ ngẩn, xuất thần.
Đào Kỳ chợt reo lên:
- Nếu lão bá có thể vận chân khí đưa tất cả khí của sáu kinh âm vào nhâm mạch, nhâm mạch như cái hồ chứa âm kình. Khi đấu với người, lão bá vận chân khí tự nhâm mạch ra bất cứ một kinh âm nào để đánh địch, thì một chiêu mạnh bằng sáu chiêu. Còn lão bá vận chân khí sáu kinh dương vào đốc mạch, khi đấu với đối thủ, lão bá truyền chân khí ra một kinh dương tấn công, đối thủ làm sao chịu nỗi?
Khất đại phu giật mình:
- Ngươi... ngươi... đã luyện qua phép này rồi à?
Đào Kỳ thản nhiên:
- Cháu suy luận mà nghĩ như thế, rồi bàn rộng thêm. Ngày trước Sơn Tinh chế ra Phục ngưu thần chưởng chỉ toàn dương cương. Sau Vạn-tín hầu là người học chưởng pháp đó, nhưng ngài là người tập võ âm nhu, nên chưởng thành nhu. Bởi vậy Phục ngưu chưởng khi thì nhu, khi thì cương, nhưng hai tay phải đánh dương cương của Sơn Tinh, hay âm nhu của Vạn-tín hầu. Nếu như tay trái đánh âm nhu của Vạn-tín hầu, rồi bất thình lình vận khí trong người: tay phải vận âm chưởng, tay trái vận dương chưởng, luân lưu như vậy sẽ thành anh hùng vô địch. Hiện nay, tiểu bối chỉ có thể vận âm kình, dương kình rời rạc, chứ chưa liên tục được. Thời gian vận như vậy rất chậm chạp.
Nghĩ một lúc, chàng tiếp:
- Nếu tiền bối có thể vận chân khí lưu thông từ đốc mạch sang nhâm mạch và từ nhâm mạch sang đốc mạch, khi phát chiêu âm hay dương mạnh bằng 12 chiêu thường.
Khất đại phu gật đầu:
- Tiểu hữu nói đúng đó. Như trong cơ thể tiểu hữu, nào là nội công Tản-viên, nào là Long-biên, nào là Cửu-chân. Chân khí hỗn độn, chạy loạn cả lên, cho nên bệnh mới nặng. Nếu bây giờ tiểu hữu chuyển tất cả chân khí âm nhu về nhâm mạch, chân khí dương cương về đốc mạch, sau đó cho hòa hợp với nhau, thì bệnh khỏi được mà công lực cũng sẽ mạnh kinh hồn.
Đào Kỳ tỉnh ngộ:
- Từ trước đến giờ, ta chỉ có thể sử dụng nội công Cửu-chân, Long-biên, Tản-viên rời rạc, nếu bây giờ tập trung cả lại, ví như ta có 5 độ Cửu-chân, hợp với 5 độ Long-biên thành 25 độ. Hợp thêm 5 độ Tản-viên, ta sẽ có tới 125 độ.
Đào Kỳ đứng dậy, chắp tay thưa:
- Tiểu bối xin kính cẩn nghe lão bá dạy dỗ.
Khất đại phu nói chậm rãi:
- Nào bây giờ tiểu hữu ngồi xếp chân luyện công nhưng mắt thì nhìn vào đồ hình các kinh mạch này đi.
Đào Kỳ xếp chân lại, nhìn lên đồ hình.
Khất đại phu nói:
- Trong con người có ngũ khí phát ra từ ngũ tạng, đó là tâm, can, tỳ, phế và thận. Khi thức làm việc, ngũ khí nảy sinh, chạy khắp cơ thể. Bây giờ tiểu hữu nhắm mắt dưỡng thần, bỏ hết ý nghĩ ra ngoài, đó là Giải trừ tạp niệm. Khi những ý tưởng rời cơ thể, con người như ngủ đi. Khi con người ngủ đi như vậy, ngũ khí sẽ không luân lưu nữa, mà chạy trở về gốc của nó là ngũ tạng. Ta tạm dùng danh từ cho cách vận khí này là Ngũ khí triều nguyên, nghĩa là năm khí trở về gốc.
Ông nói đến đâu, Đào Kỳ làm theo tới đó. Chàng cảm thấy người khoan khoái nhẹ nhàng, không bút nào tả siết. Tuy rằng chàng biết mình ngồi vận công, có Khất đại phu bên cạnh, nhưng ý tưởng như quên hết đi. Một lúc sau, chàng mở mắt ra, thở đánh phào một cái. Chân khí chạy rần rật khắp người.
Khất đại phu giảng:
- Khi luyện công, tiểu hữu phải nhớ làm sao cho tinh, khí, thần thăng bằng. Tinh là tinh khí là vật chất, là xác thịt. Thần là tư tưởng, là trí nhớ, là hiểu biết. Khí là chân khí vậy. Tinh thuộc âm, nếu tinh thịnh quá thì người nặng nề. Nếu thần mạnh quá thì người căng thẳng, hay cáu, hay giận. Nếu khí mạnh quá thì người bứt rứt, khó chịu. Khí và thần thuộc dương. Vậy phải cho tinh, thần, khí thăng bằng. Tinh, thần, khí là ba bông hoa quý của cơ thể, nên ta gọi phương pháp thăng bằng tinh, thần, khí là Tam hoa tụ đỉnh.
Ông tiếp:
- Bây giờ chúng ta vận chân khí cho thông các kinh mạch đã. Khi 12 kinh thông rồi, ta sẽ vận khí lưu thông ở kỳ kinh bát mạch. Chúng ta bắt đầu từng kinh một trước. Kinh đầu tiên là Thủ thái âm phế kinh. Thủ thái âm phế kinh, khởi từ phế, chạy xuyên qua vị, màng cách xuống đại trường, rồi đi ngược lên, xuất ra nách, theo mặt âm của tay, tận cùng bằng huyệt thiếu thương ở ngón cái.
Ông nói tới đâu, Đào Kỳ vận tới đó. Cuối cùng, chân khí dồn ra ngón tay cái. Ngón tay cái của chàng muốn rung lên. Chàng lại nhắm mắt, cho Ngũ khí triều nguyên, thì thấy ngón tay bớt căng.
Khất đại phu tiếp:
- Bây giờ tới Thủ khuyết âm tâm bào kinh, khởi từ Tam tiêu xuất ra mặt Âm của tay, tận cùng bằng huyệt Trung xung ở ngón giữa.
Đào Kỳ lại làm theo. Khất đại phu tiếp:
- Tiếp tục tới Thủ thiếu âm tâm kinh, khởi từ tâm thông xuống tiểu trường, xuất ra ở nách, tận cùng bằng huyệt Thiếu xung ở ngón út.
Đào Kỳ làm theo.
Khất đại phu cho Đào Kỳ vận đi vận lại suốt ba kinh âm ở tay, từ lồng ngực ra tay, từ tay về lồng ngực, chuyển vào nhâm mạch. Xong ông lại bắt chàng tiếp tục vận khí từ lồng ngực, xuống bụng, ra đầu ngón chân của ba kinh âm dưới chân: Túc thái âm tỳ kinh, Túc khuyết âm can kinh, Túc thiếu âm thận kinh.
Đào Kỳ luyện trong hơn một tháng thì thông hết 12 kinh và thông cả nhâm, đốc mạch.
Một hôm Khất đại phu dẫn chàng ra một khu rừng, rồi bảo chàng:
- Bây giờ chúng ta áp dụng vào việc sử dụng ngoại công. Tiểu hữu, ngươi ngồi ngay ngắn lại đi, và làm theo lời ta nói.
Ông hô lên:
- Giải trừ tạp niệm.
Đào Kỳ làm theo.
Ông lại hô:
- Ngũ khí triều nguyên...Tam hoa tụ đỉnh.