Hồi 14-2
Có người cho biết rằng Vu-Vạn-Đình sớm biết trước tình trạng sức khỏe của ông cách đây một năm nên dành hết thì giờ cố dàn xếp việc hội kiến với Càn-Long càng sớm càng tốt. Và có lẽ vì thấy thời gian cấp bách không kịp làm hết được tất cả những dự định cho nên Vu-Vạn-Đình buồn rầu mà sinh ra bệnh nặng.
Nhưng Văn-Thái-Lai lại cho Lạc-Băng biết thêm một lý do khác là ngoài việc trên, Vu-Vạn-Đình có một tâm sự rất là đau đớn là ông ta được tin người yêu quý nhất đời của mình đã sang một thế giới khác! Bình sinh, Vu-Vạn-Đình yêu quý người ấy hơn tất cả những gì quý giá trên đời. Nay được tin người ấy không còn nữa, Vu-Vạn-Đình cũng chẳng còn muốn sống làm gì nữa!..
Lạc-Băng kể đến đây thì ai nấy đều để ý thấy lệ rơi tầm tã từ tròng mắt của Từ-Thiện-Hoằng. Châu-Trọng-Anh cũng không nén được xúc động, mủi lòng mà sụt sùi. Lạc-Băng dùng tay lau mấy giọt nước mắt trên má rồi kể tiếp...
Giờ phút lâm chung, Vu-Vạn-Đình co gọi tất cả các đương gia đang có mặt tại Hồng Hoa Hội, tập trung hết chánh bộ hương chủ, nội ngoại tam đường để lại di ngôn, bảo tất cả phải tôn Thiếu-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách lên thay thế chức vị của mình chứ không thể cử bất cứ một ai khác, và bắt mọi người phải hứa với ông ta như thế. Vu-Vạn-Đình không nói rõ lý do tại sao, chỉ bảo rằng đây là một sự việc quan trọng, là phương pháp duy nhất để chế ngự nhà Thanh sau này. Nếu mọi người không chịu nghe lời ông thì Hán-tộc sẽ vĩnh viễn làm nô lệ cho Thanh-triều...
Châu-Trọng-Anh cắt ngang câu chuyện, lên tiếng hỏi:
-Trần thiếu-đà-chủ xưng hô thế nào với Vu tổng-đà-chủ?
Lạc-Băng đáp:
-Trần thiếu-đà-chủ là dưỡng-tử của Vu tổng-đà-chủ. Mà theo tất cả được biết thì Trần thiếu-đà-chủ là con của Hải-Ninh Tướng-Quốc Trần đại-nhân. Trần công-tử thiên tư đĩnh ngộ, phong thái siêu phàm, 13 tuổi thi đỗ Giải-Nguyên, 15 tuổi đỗ Trạng-Nguyên. Đại đăng-khoa chưa được bao lâu thì Vu tổng-đà-chủ đem Trần công-tử đến Hồi-Bộ Bắc-Sơn giao cho Thiên-Trì Quái-Hiệp rèn luyện võ nghệ. Việc này không những chỉ người của Hồng Hoa Hội biết thôi mà khắp chốn giang hồ cũng đều biết rất rõ. Nhưng có điều lạ lùng là vị Trần công-tử kia, tức đương kim Tổng-Đà-Chủ, là con của một vị Tể-Tướng trong triều, quyền uy chức trọng, khoa bảng, vinh hoa phú quý tột bậc mà không hiểu sao lại xin làm dưỡng tử của một vị võ lâm cao thủ, một lãnh tụ của một bang hội chống lại triều đình thì thật là một điều không ai có thể nghĩ ra nổi!
Châu-Trọng-Anh nói:
-Có lẽ có một bí mật nào đó. Văn tứ gia lẽ nào lại không biết?
Lạc-Băng đáp:
-Điệt nữ dám quả quyết rằng cùng lắm Văn tứ ca cũng chỉ biết đại lược sơ qua thôi chứ không thể nào biết được rành rẽ. Vu tổng-đà-chủ còn một tâm sự định chờ gặp mặt Trần thiếu-đà-chủ sẽ nói, nhưng vì đường sá xa xôi, mặc dù Trần thiếu-đà-chủ đã cấp tốc lên đường nhưng vẫn không kịp. Biết không thể nào kịp gặp mặt dưỡng-tử trong giây phút cuối, Vu tổng-đà-chủ bèn ra chỉ thị cho chánh phó lục đường của Hồng Hoa Hội phải tuân theo di mệnh, cấp tốc dùng lễ ‘thiên lý tiếp long đầu’ đón Thiếu-Đà-Chủ lên Giang-Bắc để tiếp nhận chức Tổng-Đà-Chủ mà cùng tính việc quốc gia đại sự, chứ đừng vì việc ma chay của người mà làm trễ nãi. Còn việc tối mật thì như điệt nữ đã kể, Vu tổng-đà-chủ đã trối riêng với Văn tứ ca và dặn chỉ được nói riêng cho Trần thiếu-đà-chủ nghe mà thôi. Ngờ đâu Văn tứ ca dọc đường gặp nạn nên bí mật kia nay cũng chưa đến tai đương kim Tổng-Đà-Chủ được...
Nói đến đây, Lạc-Băng nghe cổ mình như nghẹn lại. Một lát sau nàng mới lên tiếng được:
-Nếu chẳng may Văn tứ ca có bề gì thì bí mật kia sẽ chẳng một ai biết được, và tương lai của Hán-tộc chúng ta sẽ ra làm sao đây!
Châu-Ỷ thấy vậy bèn khuyên:
-Văn tẩu tẩu chớ có bi lụy mà nói lên những điều bất tường như vậy. Văn tứ ca trước sau cũng được giải thoát mà thôi. Chúng tôi quyết liều chết để cứu cho được Văn tứ ca mới nghe!
Châu-Trọng-Anh lại hỏi tiếp:
-Chẳng hay Văn tứ gia bị thương ra làm sao?
Lạc-Băng lại tiếp tục kể...
Sau khi chia tay với Vu-Vạn-Đình, Văn-Thái-Lai cùng Lạc-Băng thẳng đường đi Túc-Châu theo lộ trình do ông ta phác họa. Chẳng ngờ khi hai người vừa vào đến khách điếm tạm nghỉ ngơi thì có mười mấy tên thị-vệ đại-nội, là những cao thủ võ lâm được triều đình tuyển dụng, đến chặn hai người lại trao ra tờ chiếu chỉ của Càn-Long bảo rằng chúng tuân theo thánh chỉ (#6) cần triệu thỉnh chàng về Bắc-Kinh có việc khẩn cấp. Văn-Thái-Lai nói với chúng rằng chàng đang phụng mệnh Vu tổng-đà-chủ, khi nào xong mới có thể tuân chỉ Càn-Long đến Bắc-Kinh được. Nhưng đám thị-vệ cậy vào võ công cao cường, lại đông người nên lên tiếng bắt buộc Văn-Thái-Lai phải tuân chỉ Càn-Long trước rồi mới được phụng mệnh Vu tổng-đà-chủ sau. Hai bên lời qua tiến lại rồi sinh ra ẩu đả.
Văn-Thái-Lai cùng Lạc-Băng hợp sức giết được bốn tên, đồng thời đả thương thêm bốn tên khác. Những tên còn lại biết địch không nổi hai người nên bỏ chạy. Tuy thắng trận ấy, nhưng trên mình Văn-Thái-Lai bị đến sáu bảy vết thương khá nặng.
Lạc-Băng không bị thương nên sau đó còn đủ sức bảo vệ Văn-Thái-Lai đi tiếp. Hai người biết không thể nào nấn ná thêm ở Túc-Châu được nữa mà phải làm cách nào vượt qua được phía bên kia Vạn-Lý Trường-Thành thì mới mong được an toàn.
Đến Triệu-Gia-Bảo, hai người tìm một lữ quán tạm trú để Văn-Thái-Lai có cơ hội điều dưỡng thương thế. Nhưng tung tích của hai người lại bị đám ‘ưng khuyển’ hay được mà kéo đến quyết bắt cho được hai người. Qua nhiều trận ác chiến, Lạc-Băng cũng bị thương nặng. Sau đó, hai người gặp Lục-Phỉ-Thanh và được ông ta giới thiệu đến Thiết-Đảm-Trang tạm nương náu...
Lạc-Băng vừa kể xong chuyện thì Từ-Thiện-Hoằng nói:
-Văn tứ tẩu cứ yên tâm. Văn tứ ca dù ở trong hang hùm nhưng tánh mạng vẫn vững như bàn thạch. Căn cứ theo mọi dữ kiện mà nói thì Càn-Long muốn bắt sống Văn tứ ca. Vì thế, Trương-Siêu-Trọng và bọn ‘chó săn chim mồi’ dù bất cứ lý do gì cũng không dám hại đến Văn tứ ca đâu.
Châu-Trọng-Anh gật đầu nói:
-Lão phu rất đồng ý với Từ hiền điệt. Lời biện giải của hiền điệt quả thực không sao chút nào!
Bỗng nhiên Châu-Ỷ liếc mắt nhìn Từ-Thiện-Hoằng nói:
-Nếu mi toan tính, lo liệu giỏi như vậy thì sao không đến Triệu-Gia-Bảo mà dẹp tan bọn ‘ưng khuyển’ của triều đình kia đi thì Văn tứ gia đâu đến nỗi phải đến Thiết-Đảm-Trang của ta lánh nạn đến nỗi bị Trương-Siêu-Trọng bắt rồi để di họa đến cho gia đình ta như thế!
Thấy Châu-Ỷ không chịu buông tha cho Từ-Thiện-Hoằng, Châu-Trọng-Anh phải lên tiếng quát nạt bảo nàng thôi, thế nhưng Châu-Ỷ vẫn một mực ngoan cố, không chịu nghe lời ông. Thấy tình trạng không ổn, Châu-Trọng-Anh phải cố tìm đề tài khác để nói cho bớt căng thẳng. Nghĩ ra được một điều vui vui, ông ta hỏi Lạc-Băng rằng:
-Chẳng hay hiền thê của Trần tổng-đà-chủ là ai thế? Là con nhà trâm anh thế phiệt hay là một nữ hiệp giang hồ?
Lạc-Băng đáp:
-Theo điệt nữ được biết thì Tổng-Đà-Chủ chưa có người nâng khăn sửa túi.
Trong khi Châu-Trọng-Anh trầm ngâm suy nghĩ thì Châu-Ỷ hóm hỉnh vui cười nói với Lạc-Băng:
-Vậy thì chắc em thế nào cũng có ngày được uống rượu mừng Tổng-Đà-Chủ rồi phải không chị?
Châu-Trọng-Anh nghe nói liền mắng con gái rằng:
-Cái con này chỉ biết nói khùng nói điên! Việc nước, việc nhà, Trần tổng-đà-chủ lo chưa có giờ phút nào yên thân được thì còn thì giờ đâu để nói đến chút hạnh phúc cá nhân mà đòi uống rượu với không uống rượu!
Lạc-Băng cười nói:
-Chờ khi cứu được Văn tứ ca rồi, điệt nữ sẽ làm mai cho Ỷ muội một người chồng xứng đáng. Hy vọng Châu lão anh hùng sẽ hài lòng...
Châu-Ỷ nghe nói mắc cở chặn lại không cho Lạc-Băng nói tiếp:
-Nếu ai còn nói đến việc làm mai làm mối cho tôi nữa thì tôi bỏ đi ngay, không thèm đi chung nữa đâu.
Mọi người ai nấy đều cười rộ lên. Sau một lúc, Từ-Thiện-Hoằng lại một mình phá lên cười một mình.
Châu-Ỷ giận lắm, hỏi rằng:
-Mày cười cái gì thế hả ‘chú em’? Coi chừng, đừng đụng đến ‘chị’ mà khổ đấy!
Từ-Thiện-Hoằng vẫn cười tiếp nói:
-Tôi cười gì thì mặc tôi! Mắc mớ gì mà cô em phải thắc mắc hả? Châu-Ỷ vốn tính tình ngay thẳng, trong bụng nghĩ sao thì nói vậy chứ chẳng chút giấu diếm:
-Chú mày cười gì tưởng ‘chị’ không đoán được sao? Hẳn chú mày nghĩ rằng chị Lạc-Băng định làm mai cho Tổng-Đà-Chủ Trần-Gia-Cách đi cưới chị làm vợ chứ gì? Chú mày đừng nghĩ thế mà lầm! Đừng tưởng được thiên hạ gọi là ‘Võ-Gia-Cát’ mà làm tài lanh nhé! Trần-Gia-Cách là con Tể-Tướng, chị đây là hạng thường dân. Đã đành rằng phụng không thèm sánh với gà, nhưng gà cũng chẳng bao giờ so với phụng đâu nhé!
Châu-Trọng-Anh nghe nói cũng phải phì cười. Ông chỉ ‘mắng yêu’ con gái mình vài câu là lắm lời nhiều chuyện. Lạc-Băng gật đầu nói:
-Ỷ muội thật có khí phách hơn người, lại ngay thẳng nghĩ sao nói vậy. Người như Ỷ muội thật là đáng quý.
Châu-Trọng-Anh nói:
-Con nhỏ của lão phu chỉ ‘bạ ăn bạ nói’ mà chẳng sợ ai cười! Chắc Từ hiền-điệt cũng phải cười thầm cái tính khí ‘bô lô ba la’ đó chứ chẳng không!
Mọi người cười nói vui vẻ rất khuya, sau đó tìm chỗ đánh một giấc để sáng sớm hôm sau lại phải hối hả chuẩn bị lên đường. Đến khi chuẩn bị đi ngủ thì Châu-Ỷ nũng nịu nói:
-Gia gia! Con đói bụng quá à!
Châu-Trọng-Anh phì cười nói:
-Có đói thì cũng phải ráng nhịn thôi chứ có gì để ăn đâu? Mai ráng mà lo đi sớm, đến Song-Tĩnh sẽ nghỉ chân và luôn tiện tìm quán ăn cơm luôn thể.
Sau đó, ai nấy đều nằm xuống ngủ ngon lành. Chỉ có Châu-Ỷ vì ‘kiến bò bụng’ (#7) nên cứ nằm trằn trọc mãi không ngủ được.
Châu-Ỷ nằm bên cạnh Lạc-Băng, thấy nàng đã bắt đầu ngáy nhè nhẹ. Có lẽ là nàng đã ngủ rồi. Vừa lúc ấy thì Từ-Thiện-Hoằng lại từ từ ngồi dậy. Châu-Ỷ để ý thử xem chàng ta làm gì thì thấy chàng đến gần chỗ cột mấy con ngựa. Châu-Ỷ càng lấy làm lạ cố ngước đầu dậy nhìn thử nhưng đêm tối quá nên không nhìn được gì. Nàng lại thấy Từ-Thiện-Hoằng mở cái gói trên yên ngựa lấy ra một vật gì đem lại chỗ chàng nằm ban nãy.
Không nhịn được, Châu-Ỷ rón rén đi lại chỗ Từ-Thiện-Hoằng rình thử. Nàng chợt nghe rõ ràng như chàng đang nhai một cách ngon lành. Châu-Ỷ tin rằng Từ-Thiện-Hoằng lấy vật thực đem theo ra ăn. Nàng không hiểu chàng đang ăn cái gì mà miệng cứ nhai rào rào, mà mùi thơm lại bốc lên phưng phức. Bụng đang đói như cào, Châu-Ỷ nhìn thấy Từ-Thiện-Hoằng ăn mà thèm đến ‘nhỏ rãi’.
Vật thực mà Từ-Thiện-Hoằng đang ăn là một thứ bánh rất ngon, có tiếng nhất ở Túc-Châu mà chàng mua ở Hạnh-Hoa tửu lâu cùng với một rượu đem theo.
Từ-Thiện-Hoằng vừa ăn vừa nhai tóp tép, thỉnh thoảng lại buông tiếng khen ngon làm cho Châu-Ỷ càng thêm ‘nhức nhối’ cái dạ dày. Nàng khó chịu vô cùng. Nhìn chàng ăn ngon lành thì chịu không nổi, mà không lẽ lại chịu hạ mình đến xin!
Mùi thơm của bánh chưa hết thì lại đến mùi rượu ngon Túc-Châu đập vào mũi của Châu-Ỷ. Biết rằng có đứng đén qụy gối cũng chẳng được Từ-Thiện-Hoằng mời ăn uống gì nên nàng lại thui thủi một mình về chỗ mình nằm lại như cũ.
Ác làm sao, mùi bánh với mùi rượu cứ tiếp tục bay tới mũi Châu-Ỷ mãi. Liếc mắt nhìn sang, lại thấy Từ-Thiện-Hoằng cứ ăn xong một miếng bánh lại đưa bình rượu lên tu một cái ra vẻ ngon lành vô cùng. Giá mà không có ác cảm với Từ-Thiện-Hoằng có lẽ Châu-Ỷ cũng đánh liều sang xin một vài cái bánh và ít hớp rượu rồi. Nhưng với người mình ghét mà phải mở miệng ra cầu lụy thì thật là chuyện không thể nào làm được! Do đó mà Châu-Ỷ đành nuốt nước miếng mà chịu trận.
Thấy Từ-Thiện-Hoằng hết khen bánh ngon lại khen rượu thơm, Châu-Ỷ không còn chịu đựng nổi nữa nên ngồi vùng dậy lớn tiếng nói:
-Đã nửa đem canh ba rồi mà sao chú mày còn thức uống rượu mà không chịu để yên cho người ta ngủ? Bộ muốn phá đám hả?
Từ-Thiện-Hoằng cười nói:
-Sao mà ngộ vậy không biết? Người ta có bánh ngon thì cứ ăn, có rượu ngon thì cứ uống! Còn cô em muốn ngủ thì cứ ngủ chứ ai bảo thức làm gì? Ai cũng có quyền tự do của chính mình, muốn làm gì thì làm chứ có đụng chạm gì nhau đâu? Nhưng thôi, cũng được! Để chiều ý cô em, ta không uống nữa!
Từ-Thiện-Hoằng sau đó để bầu rượu xuống đất, nằm ngáy pho pho như đã ngủ ngon giấc từ bao giờ. Bầu rượu không đậy nắp tỏa lên bay vào mũi Châu-Ỷ như khiêu khích.
Thì ra lúc dùng bữa tại Hạnh-Hoa tửu lầu ở Túc-Châu ban chiều, Từ-Thiện-Hoằng để ý nhìn, thấy Châu-Ỷ cũng thuộc loại tửu lượng khá, hơn hẳn Lạc-Băng rất xa. Rượu ở Túc-Châu vốn thơm ngon có tiếng, hễ ai đã uống qua một lần là khó mà quên được. Vì vậy, Từ-Thiện-Hoằng mới nghĩ ra một kế để phá Châu-Ỷ một phen chơi. Chàng bí mật nói với tửu bảo gói riêng cho chàng một hũ rượu thượng hảo hạng và chừng hơn một chục bánh nhân thịt thật ngon lành rồi giấu vào một chiếc túi buộc bên yên ngựa. Chàng tin rằng tối nay thế nào Châu-Ỷ cũng đói bụng dọc đường và chàng sẽ có cơ hội thi hành ‘kế ranh’ của mình.
Quả nhiên không ngoài sự tiên liệu của Từ-Thiện-Hoằng, sau khi chuyện trò xong, sửa soạn đi ngủ thì Châu-Ỷ lên tiếng than đói bụng. Chờ cho Châu-Trọng-Anh và Lạc-Băng ngủ rồi, và lắng tai nghe Châu-Ỷ vẫn trằn trọc, Từ-Thiện-Hoằng mới lấy bánh ra ăn và rượu ra uống.
Châu-Ỷ sau đó chịu không được, rón rén ra nhìn trộm Từ-Thiện-Hoằng ăn bánh uống rượu. Nhất cử nhất động của Châu-Ỷ, Từ-Thiện-Hoằng đều trông thấy hết nhưng cứ giả vờ như không biết gì cả. Đến khi Châu-Ỷ chịu không nổi nữa lên tiếng gây gổ, chàng mới đặt bình rượu xuống mà nằm ngáy. Chàng cố ý để bình rượu mở nắp để trêu tức Châu-Ỷ cho nàng thèm.
Châu-Ỷ cố nhắm mắt ngủ, nhưng mùi rượu cứ bốc lên mãi nên không làm sao nằm yên được. Nàng ngồi dậy đến chỗ Châu-Trọng-Anh ngủ. Lúc ấy trời trong sao tỏ nên Châu-Ỷ trông thấy bên gối của ông ta có ‘hai sợi’ thiết-đảm sáng ngời hào quang. Một ý nghĩ nảy ra trong đầu, Châu-Ỷ rón rén lấy một sợi thiết đảm cầm tay đi đến chỗ Từ-Thiện-Hoằng đang nằm. Đưa sợi thiết-đảm lên cao, Châu-ỷ giáng xuống một cái thật mạnh ngay bầu rượu của Từ-Thiện-Hoằng một cái vỡ tan tành, rượu đổ ra thơm ngát cả một khoảng. Lúc đó, Châu-Trọng-Anh vẫn ngáy vang như sấm, còn Lạc-Băng thì khẽ trở mình nói mớ vài câu.
Châu-Ỷ chưa hết giận, miệng lẩm bẩm:
-“Có thế mới vừa bụng ta! Cho hết uống!”
Đập vỡ bình rưoơu xong, Châu-Ỷ liền kéo sợi thiết-đảm trở về. Nhưng nàng bỗng có cảm tưởng như ở đầu kia như có sức vô hình kéo trở lại. Để ý nhìn kỹ, Châu-Ỷ thấy Từ-Thiện-Hoằng đang nắm chặt lấy đâu kia của sợi dây thiết-đảm kéo lại. Châu-Ỷ gồng hết sức cố kéo thi với Từ-Thiện-Hoằng. Bỗng nhiên, chàng đứng dậy đưa tay giật một cái thật mạnh, Châu-Ỷ không giữ được thăng bằng, ngã chồm ra phía trước ôm chầm lấy Từ-Thiện-Hoằng. Châu-Ỷ thét lên một tiếng, nhảy qua một bên rồi dùng sức tiếp tục kéo nữa. Từ-Thiện-Hoằng không chịu nhường, chàng ghì mãi sợi dây cho đến khi Châu-Ỷ chịu buông rời ra thì thôi.
Châu-Ỷ nghĩ mà lo, lỡ chẳng may mọi người thức dậy mà trông thấy cảnh cô nam quả nữ giằng co như thế này thì thật là ê mặt nên chi bằng để đến sáng mai mách lại với thân phụ là hơn. Nghĩ vậy, Châu-Ỷ liền buông sợi thiết-đảm ra, trở lại chỗ mà nằm ngủ, trong lòng vô cùng hậm hực. Lạc-Băng lúc đó chợt trở mình cười lên mấy tiếng khúc khích nhưng mắt vẫn nhắm nghiền như có lẽ là đang mơ thấy điều gì vui thú trong giấc mộng. Du vậy, Châu-Ỷ cũng thẹn thùng đến đỏ cả mặt.
Sáng ra, lúc chưa tan sương, Châu-Ỷ đã thức dậy ngồi một mình chải tóc. Chờ đến ánh dương vừa lên, Châu-Trọng-Anh và Lạc-Băng mới thức dậy.
Phải một lát sau, Từ-Thiện-Hoằng mới thức dậy. Chàng làm bộ giật mình, đưa tay dụi mắt, miện nói như ngớ ngẩn:
-Ủa! Cái này mới lạ chứ! Tại sao vậy? Chuyện gì đã xảy ra trong đêm qua?
Châu-Ỷ suốt một đêm không ngủ được, vừa đói bụng, vừa thẹn thùng ê chề giờ lại thấy Từ-Thiện-Hoằng làm bộ làm tịch chọc ghẹo mình cắn răng mím môi, nghĩ cách đối phó làm sao cho đích đáng. Nhưng nàng chưa kịp mở lời đã nghe Từ-Thiện-Hoằng nói với Châu-Trọng-Anh:
-Châu bá phụ! Sợi dây thiết-đảm của bá phụ sao lại nằm ở chỗ này? Còn bầu rượu của tiểu điệt lại bể nát như cám vậy chứ? Không chừng đem qua có con khỉ nào trên cây ngửi thấy mùi rượu ngon ở Túc-Châu lén nhảy xuống uống thử chứ gì! Uống quá nên say, ‘con khỉ con’ đó nhìn thấy sợi thiết-đảm của bá phụ nên cầm lên múa thử nhưng vì không biết múa thành ra giáng xuống bầu rượu làm bể nát. Con khỉ con này thật là thông minh và liếng thoắng! Nó đập bể nát bầu rượu của tiểu điệt thế mà tiểu điệt ngủ say sưa đến độ chẳng hay biết gì cả. Con khỉ con chơi kỳ cục thật!
Châu-Trọng-Anh nghe Từ-Thiện-Hoằng nói không nhịn được, cười lên sặc sụa nói:
-Hiền điệt diễu có duyên lắm! Nói khôi hài như thế thì đố ai mà không cười cho được! Ở vùng này làm gì có khỉ mà lão đệ bảo là khỉ con quấy phá!
Lạc-Băng cũng cười nói:
-Ở đây chắc chắn là không có khỉ rồi! Mà cho dù có cũng không phải là khỉ xuống phá thất ca đâu, đừng nghi oan! Nếu tôi không lầm thì đêm qua tiên nữ xuống phá thất ca bằng cách đập bể bầu rượu cho bõ ghét vì ai bảo thất ca nửa đêm còn ăn bánh thịt với uống rượu ngon báo hại tiên nữ không ngủ được!
Cả hai người ngồi cười nói như bắp rang. Họ chỉ nói bóng nói gió chơi chứ chẳng ai có ý xỉa xói gì đến Châu-Ỷ cả. Mà Châu-Ỷ cũng chẳng có gì phải buồn. Nàng chỉ giận Từ-Thiện-Hoằng gọi nàng là ‘khỉ con’ nên định bụng sẽ trả thù.
Trước khi lên đường, Từ-Thiện-Hoằng lấy bánh nhân thịt mua ở Hạnh-Hoa tửu lâu đem ra mời mọi người ăn lót lòng. Riêng chỉ có Châu-Ỷ thà nhịn đói chứ nhất định không chịu ăn, cho dù Từ-Thiện-Hoằng hết sức ân cần mời mọc. Nàng nói thầm trong bụng:
-“Ăn làm gì cho hắn khinh! Nhịn đói một đêm còn được huống gì thêm mấy tiếng đồng hồ nữa!”
Khi đến Song-Tĩnh thì mặt trời chỉ mới lên cao được hơn nửa sào. Bốn người liền ghé vào một tiệm cơm nghỉ chân dùng bữa. Ăn uống no nê rồi, mọi người lại lên đường theo lộ trình Châu-Trọng-Anh phác họa từ chiều hôm trước.
Vừa ra khỏi Song-Tĩnh, thình lình Từ-Thiện-Hoằng và Lạc-Băng không hẹn mà cùng khom lưng xuống nhìn vào sát vách tường của một ngôi nhà cũ cỏ mọc rêu phong.
Châu-Ỷ đứng trước nên thấy rõ trên tường có gạch một hàng chữ và vẽ một lá bùa nét còn mới tựa như bút chưa ráo mực. Lá bùa và hàng chữ xen kẽ vào những nét vẽ và tuồng chữ trông y như của con nít nghịch ngợm vạch lên chơi. Nhưng chỉ có lá bùa và hàng chữ sắc xảo bên cạnh là dễ phân biệt nếu để ý cho kỹ.
Châu-Ỷ còn đang ngạc nhiên không hiểu gì thì Lạc-Băng bỗng vui mừng hớn hở reo lên như người bắt được của báu:
-Đây rồi! Hay quá! Tây-Xuyên Song-Hiệp đã tìm được tung tích của Văn tứ ca rồi! Họ để vội dấu hiệu lại cho chúng ta biết rồi lại tiếp tục truy tầm!
Chú thích:
1 Thiếu-Lâm có nhiều tông phái vì mỗi vị cao đồ của Đạt-Ma Tổ-Sư sau khi xuống núi lại thâu học trò và lập ra môn phái riêng biệt tuy rằng tất cả cùng chung một gốc.
2 Ấn chứng: dấu in làm chứng, ý nói để tìm những điểm tương đồng để truy ra gốc gác.
3 Nói một cách gọn hơn là “tứ tuần”.
4 Âm phong: ngọn gió lạnh như từ cõi âm đưa lại.
5 Thánh ý: ý của vua.
6 Thánh chỉ: chiếu chỉ của vua, tức lệnh của vua.
7 Kiến bò bụng: tiếng lóng của “giới giang hồ Việt-Nam”, ám chỉ “đói bụng”.